Công cuộc đổi mới của đất nước ta đã và đang có những tác động tích
cực điến việc đưa đất nước tiéen lên theo định hướng XHCN trong công cuộc
đổi mới nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều
thành phần có sự lãnh đạo của nhà nước, chúng ta không thể không nhắc đến
những hạt nhân và cũng là đối tượng quan trọng của công cuộc đổi mới nền
kinh tế, đó là các doanh nghiệp.
Trong điều kiện kinh tế vừa năng động, linh hoạt vừa nghiệt ngã các
doanh nghiệp trong cũng như ngoài quốc doanh đòi phải vươn lên tự khẳng
định mình. Đối với các doanh nghiệp trước kia được hưởng sự bao cấp của
nhà nước thì đây là một giai đoạn hết sức khó khăn.
Chuyển sang môi trường kinh tế mới các doanh nghiệp phải tự hạch
toán kinh doanh lấy thu bù chi. Do vậy các doanh nghiệp phải tự Nghiên cứu,
tính toán và tổ chức sao cho lãi thu về nhiều nhất nhưng chi phí bỏ ra ít nhất.
Để đảm bảo cho sự tồn tại của mình các doanh nghiệp luôn phải coi
trọng sự cạnh tranh của nền kinh tế nhiều thành phần: thời điểm mua, bán
hàng các biện pháp nhằm thu lại vốn nhanh nhất, tăng vòng quay vốn lưu
động luôn luôn là các vấn đề quan trọng sống còn của doanh nghiệp kinh
doanh.
36 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2653 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số ý kiến và biện pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm tại công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Một số ý kiến và biện pháp
nhằm hạ giá thành sản phẩm
tại công ty sản xuất bao bì và
hàng xuất khẩu
2
LỚI NÓI ĐẦU
Công cuộc đổi mới của đất nước ta đã và đang có những tác động tích
cực điến việc đưa đất nước tiéen lên theo định hướng XHCN trong công cuộc
đổi mới nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều
thành phần có sự lãnh đạo của nhà nước, chúng ta không thể không nhắc đến
những hạt nhân và cũng là đối tượng quan trọng của công cuộc đổi mới nền
kinh tế, đó là các doanh nghiệp.
Trong điều kiện kinh tế vừa năng động, linh hoạt vừa nghiệt ngã các
doanh nghiệp trong cũng như ngoài quốc doanh đòi phải vươn lên tự khẳng
định mình. Đối với các doanh nghiệp trước kia được hưởng sự bao cấp của
nhà nước thì đây là một giai đoạn hết sức khó khăn.
Chuyển sang môi trường kinh tế mới các doanh nghiệp phải tự hạch
toán kinh doanh lấy thu bù chi. Do vậy các doanh nghiệp phải tự Nghiên cứu,
tính toán và tổ chức sao cho lãi thu về nhiều nhất nhưng chi phí bỏ ra ít nhất.
Để đảm bảo cho sự tồn tại của mình các doanh nghiệp luôn phải coi
trọng sự cạnh tranh của nền kinh tế nhiều thành phần: thời điểm mua, bán
hàng các biện pháp nhằm thu lại vốn nhanh nhất, tăng vòng quay vốn lưu
động luôn luôn là các vấn đề quan trọng sống còn của doanh nghiệp kinh
doanh.
Hơn thế nữa ngoài những vấn đề nan giải mà các nhà kinh doanh phải
đối mạt không thể không có yếu tố giá thành sản phẩm, phải làm thế nào để
hạ giá thành sản phẩm nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nhưng công tác
giá thành và hạ giá thành lại phụ thuộc hoàn toàn vào trình độ quản lý, tổ
chức sản xuất kinh doanh của chủ doanh nghiệp. Đổi mới kết quả giữa lý
thuyết và thực tiễn và để làm quen với công tác Nghiên cứu tình hình thực tế,
tôi được cử đến công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu để Nghiên cứu
3
chuyên đề: "Một số ý kiến và biện pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm tại
công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu.
Nội dung chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận
Chương II: Kết quả phân tích đánh giá.
Chương III: Kết luận và kiến nghị
4
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
I/ KHÁI NIỆM CHUNG VỀ GIÁ THÀNH, Ý NGHĨA CỦA VIỆC HẠ
GIÁ THÀNH, QUAN HỆ GIỮA GIÁ THÀNH VÀ GIÁ CẢ.
1. Khái niệm chung về giá thành.
Để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản
tiên chi và tư liệu sản xuất như khấu hao tài sản cố định, mua nguyên vật liệu,
trả lương cho công nhân viên, tiền trích quỹ bảo hiểm xã hội... Toàn bộ những
chi phí đó gọi là giá thành sản phẩm.
Vậy giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của những chi phí bỏ ra
để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nói cách khác giá thành sản phẩm là biểu
hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra về lao động sống
và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm và các
lao vụ hoàn thành của doanh nghiệp.
Theo kết cấu giá thành gồm:
+ Giá thành phân xưởng: gồm toàn bộ chi phí trực tiếp bỏ ra cho quá
trình sản xuất các sản phẩm cộng với các chi phí chung trong phạm vi phân
xưởng.
+ Giá thành công xưởng: Bằng giá thành phân xưởng cộng chi phí quản
lý doanh nghiệp.
+ Giá thành toàn bộ: Bằng giá thành công xưởng cộng với chi phí lưu
thông và tiêu thụ sản phẩm.
Cùng với nhân tốt lợi nhuận, thuế và giá thành là một trong những nhân
tố quan trọng để xác định giá cả vì "giá cả sản phẩm là biểu hiện bằng tiền
của giá trị sản phẩm".
5
2. Quan hệ giữa giá thành, giá cả và giá trị.
Giá thành là cơ sở để xác định giá cả và thường là giới hạn thấp nhất
cuargias cả. Muốn làm tốt công tác quản lý và kế hoạch giá thành không
ngừng hạ giá cả trước hết phải không ngừng hạ giá thành. Ngược lại giá cả
cũng ảnh hưởng đến giá thành, giá cả không những là phương tiện để tính giá
thành mà giá cả còn là đòn bẩy kinh tế để khuyến khích xí nghiệp hạ giá
thành.
3. Ý nghĩa của việc hạ giá thành sản phẩm.
Hạ giá thanh sản phẩm là nguồn chủ yếu đó tăng tích luỹ cho doanh
nghiệp. Để tái sản xuất mở rộng và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần
người lao động, hạ giá thành là cơ sở để hạ giá có sản phẩm do đó sẽ làm tăng
thu nhập thực tế cho người lao động.
Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu chất lượng phản ánh và đo lượng hiệu
quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thơì chỉ tiêu giá thành
còn giữ chức năng thông tin và kiểm tra về chi phí, giúp cho người quản lý có
cơ sở để đề ra quyết định kinh doanh đúng đắn, kịp thời.
Hạ giá thành là cơ sở để hạ giá bán sản phẩm, là điều kiện để tăng khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp, nâng cao mức sống thực tế của người lao
động.
Sự biến động của giá thành phụ thuộc vào hai nhóm nhân tố chủ yếu là:
Những nhân tốt thuộc lĩnh vực sản xuất và những nhân tố thuộc lĩnh vực lưu
thông phân phối.
Dùng hai nhân tố này để tác động làm giảm giá thành sản phẩm là một
việc làm quan trọng, bởi vì việc hạ giá thành một cách có hệ thống và không
ngừng là một nguồn gốc chủ yếu có tính chất quyết định của tích luỹ XHCN
và của xí nghiệp nói riêng. Trong điều kiện nền kinh tế XHCN đặc biệt là ở
nước ta thì việc hạ giá thành sản phẩm còn là cơ sở để hạ giá có sản phẩm
6
nâng cao đời sống nhân dân. Nhiệm vụ và phương hướng xây dựng và phát
triển công nghiệp, trong Hội nghị Trung ương lần thứ 7 của Đảng chỉ rõ:
"Phấn đấu tăng năng suất lao động và hạ giá thành là một trong những
điều kiện quyết định để tăng tích luỹ XHCN, tăng tốc ddoojv à quy mô phát
triển sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân".
Điều đó cho chúng ta thấy rằng phấn đấu hạ giá thành sản phẩm trong
từng doanh nghiệp là một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết không thể bỏ qua
được, có thể nói có bao nhiêu biện pháp cải tiến tổ chức quản lý sản xuất và
cải tiến kỹ thuật thì có bấy nhiêu biện pháp hạ giá thành.
II/ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP HẠ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM.
1. Nâng cao năng suất lao động.
Nâng cao năng suất lao động là phương hướng chủ yếu có ảnh hưởng
quyết định để hạ giá thành sản phẩm vì: Nâng cao năng suất lao động có ảnh
hưởng đến giảm chi phí của hầu hết các yếu tố chi phí sản xuất, tăng năng
suất lao động sẽ làm giảm giá thành sản phẩm.
Tăng năng suất lao động sẽ làm cho mỗi đơn vị sản xuất có thể sản xuất
được nhiều sản phẩm do đó giám đốc chi phí khấu hao trong giá thành mỗi
đơn vị sản phẩm, để sử dụng hợp lý nguyên vật liệu do đó mà làm giảm bớt
những khoản chi phí đó trong giá thành sản phẩm.
Tăng năng suất lao động sẽ làm tăng sản lượng sản phẩm do đó sẽ làm
giảm các chi phí cố định khác bằng tiền trong mỗi đơn vị sản phẩm.
2. Nâng cao trình độ sử dụng tài sản cố định.
Nâng cao trình độ sử dụng tài sản cố định tức là sử dụng có hiệu quả
nhất , tài sản cố định, là nâng cao khối lượng công tác của tài sản cố định về
thời gian và cường độ vì vậy mà có thể rút ngắn được chu kỳ sản xuất, sản
xuất được nhiều sản phẩm hơn trong cùng một đơn vị thời gian công tác, do
đó giảm được mức khấu hao của một đơn vị sản phẩm trong giá thành.
7
3. Nâng cao trình độ sử dụng vật tư nguyên vật liệu.
Đây là phương hướng có ý nghĩa lớn đối với hạ giá thành sản phẩm vì
hạ thấp được chi phí vật tư trong một đơn vị sản phẩm, giảm bớt tỉ lệ sản
phẩm hỏng trong quá trình sản xuất bởi lẽ sản phẩm hỏng là sự lãng phí rõ rệt
về nguyên vật liệu và cả lao động.
4. Công tác tổ chức và quản lý xí nghiệp.
Tăng cường và cải tiến công tác tổ chức và quản lý xí nghiệp có thể tiết
kiệm tuyệt đối các chi phí quản lý, xí nghiệp. Điều này cũng góp phần làm hạ
giá thành sản phẩm.
Để thực hiện 4 phương hướng cơ bản nêu trên cần có những biện pháp
cụ thể sau.
a) Cải tiến và phát triển kỹ thuật.
b) Cải tiến tổ chức sản xuất và tổ chức lao động trong phạm vi doanh
nghiệp.
c) Cải tiến công tác kế hoạch hoá trực tiếp nhất là công tác kế hoạch giá
thành, cải tiến công tác vật tư hành chính.
d) Củng cố và mở rộng việc áp dụng chế độ hạch toán kế toán.
e) Giáo dục chính trị tư tưởng và tổ chức thi đua.
Tóm lại: Muốn hạ giá thành sản phẩm phải nâng cao chất lượng công
tác (chất lượng công nghệ sản xuất sản phẩm, tổ chức, quản lý, điều hành sản
xuất...). Việc phân tích Nghiên cứu giá thành sản phẩm là cách tốt nhất để biết
nguyên nhân và nhân tố làm cho giá thành cao hay thấp hơn mức dự kiến ban
đầu để từ đó doanh nghiệp ra quyết định quản lý tối ưu hơn.
III/ LẬP KẾ HOẠCH BIỆN PHÁP HẠ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM.
Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là biện pháp rất quan trọng để nâng
cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Muốn hạ giá thành sản phẩm phải thực hiện
8
đồng thời nhiều biện pháp khác nhau. Có thể xếp các biện pháp hạ giá thành
vào 3 nhóm chủ yếu sau:
- Các biện pháp tiết kiệm nguyên, nhiên, vật liệu.
- Các biện pháp tiết kiệm chi phí tiền lương trong giá thành đơn vị sản
phẩm.
- Các biện pháp tiết kiệm chi phí cố định trong giá thành đơn vị sản
phẩm.
1. Các biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu.
Để tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, năng lượng trong giá thành sản
phẩm có thể áp dụng các hướng biện pháp sau.
+ Cải tiến kết cấu sản phẩm: kết cấu sản phẩm của doanh nghiệp phụ
thuộc vào nhu cầu thị trường, sở thích nhu cầu và thị hiếu của người mua.Vì
vậy ta phải luôn cải tiến kết cấu sản phẩm thì việc tiêu thụ sản phẩm sẽ dễ
dàng hơn.
+ Cải tiến công nghệ sản xuất: Đây là vấn đề rất đáng được quan tâm
đối với các nhà quản lý là làm thế nào để sản xuất ra một sản phẩm dễ dàng
nhất mà ít chi phí nhất.
+ Sử dụng vật liệu thay thế: khi nguyên liệu chính bị thiếu, doanh
nghiệp phải biết sử dụng vật liệu khác có thể thay thế được nguyên vật liệu
chính để làm cho việc sản xuất không bị đình trệ.
+ Sử dụng tổng hợp nguyên vật liệu, tận dụng triệt để phế liệu: trong
sản xuất không bao giời tránh khỏi những sản phẩm hỏng và những phế liệu
là phải biết tận dụng đem chế biến lại để sản xuất ra những sản phẩm có thể
tiêu thụ được như vậy sẽ không gây ra lãng phí và sẽ tiết kiệm đuực nguyên
vật liệu.
9
Ảnh hưởng của những biện pháp này đến hạ giá thành sản phẩm được
tính theo công thức sau:
Hznvl = 100
100
xxDP nvlnvl
Trong đó:
Hznvl: Tỷ lệ giá thành sản phẩm do tiết kiệm được chi phí nguyên vật
liệu.
Dnvl: Tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu tổng giá thành đơn vị sản phẩm.
Pnvl: Tỷ lệ tiết kiệm chi phí nguyên, nhiên, vật liệu cho một đơn vị sản
phẩm, chỉ tiêu này được xác định qua công thức sau:
Pnvl = (%))).(( 100
100
100100
MG
Trong đó G: Tỷ lệ giảm giá cả nguyên, nhiên, vật liệu của kỳ kế
hoạch so với thực tế.
M: Tỷ lệ tăng, giảm mức tiêu hao nguyên, nhiên vật liệu cho một đơn
vị sản phẩm kỳ kế hoạch so với thực tế.
2. Các biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí tiền lương trong giá thành
đơn vị sản phẩm.
Để tiết kiệm tiền lương trong giá thành đơn vị sản phẩm điều quan
trọng nhất là phải nâng cao năng suất lao động, đảm bảo tốc độ năng suất lao
động phải cao hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân.
Để nâng cao năng suất lao động có thể áp dụng các biện pháp sau:
- Biện pháp áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cải tiến công nghệ sản
xuất trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp không ngừng cạnh tranh
nhau doanh nghiệp nào áp dụng tốt được KHKT và luôn cải tiến được công
nghệ sản xuất thì doanh nghiệp đó thắng và ngày càng lớn mạnh. Còn doanh
10
nghiệp nào không áp dụng được thì doanh nghiệp đó ngày càng bị đẩy lùi và
có thể dẫn đến phá sản.
- Biện pháp cải tiến, tổ chức sản xuất, tổ chức lao động: Nền kinh tế đã
chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi việc tổ chức
bộ máy quản lý cũng như tổ chức lao động càng gọn nhẹ càng tốt.
- Biện pháp tăng cường kỷ luật lao động: Đối với người lao động phải
có biện pháp thưởng phạt hợp lý.
- Biện pháp nâng cao tay nghề cho người lao động: Muốn nâng cao
năng suất lao động thì phải nâng cao tay nghề cho người lao động, vì thế phải
đào tạo công nhân đúng ngành nghề.
- Biện pháp kích thích công nhân nâng cao năng suất lao động: Ta phải
hiểu được tâm lý người lao động, biết động viên kịp thời người lao động,
tránh làm cho họ bị căng thẳng, gò ép trong làm việc ảngân anhrhuwowngr
của các biện pháp trên đến giá thành đơn vị sản phẩm được xác định theo
công thức sau: Hzlg = (%)lglg
100
xDP
Trong đó:
Hzlg: là tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm do nâng cao năng suất lao động,
tiết kiệm chi phí tiền lương.
Dlg: là tỷ trọng chi phí tiền lương trong giá thành đơn vị sản phẩm năm
trước.
Plg: là tỷ lệ tiết kiệm chi phí tiền lương cho một đơn vị sản phẩm do
tăng năng suất lao động.
Plg =
w
100
100 lg x 100 - 100 (&)
Trong đó :
11
lg: Tỷ lệ tăng, giảm tiền lương bình quân của công nhân sản xuất kỳ
thực tế so với kế hoạch.
w: Tỷ lệ tăng, giảm năng suất lao động kỳ thực tế so với kế hoạch.
3. các biện pháp tiết kiệm chi phí cố định trong giá thành sản
phẩm.
Muốn tiết kiệm chi phí cố định trong giá thành sảm phẩm cần phải tăng
nhanh sản lượng sản lượng sản phẩm sản xuất ra và tiết kiệm tối đa các khoản
chi phí cố định. Để nâng cao dản lượng sản phẩm có thể áp dụng hướng các
biện pháp sau:
+ Mở rộng quy mô sản xuất: Bên cạnh việc sản xuất mặt hàng chính
càn sản xuất những mặt hàng phụ.
+ Nâng cao năng suất lao động: Trong sản xuất phải đảm bảo được
năng suất lao động thì mới không có hiện tượng lãng phí thời gian , lãng phí
lao động , người lao động phải được phát huy hết năng lực và máy móc thì
phải tận dụng hết công suất.
+ Nâng cao trình độ sử dụng máy móc, thiết bị và nguồn tài nguyên :
Muốn năng suất và chất lượng lao động được nâng cao, trước hết ta phải nâng
cao trình độ sử dụng máy móc thiết bị và người lao động phải được đào tạo
qua trường lớp và đã có kinh nghiệm trong việc sử dụng máy móc.
+ Tinh giãn bộ máy quản lý: Trong kinh doanh đòi hỏi bộ máy quản lý
phải linh hoạt nắm bắt thông tin nhanh, nhanh nhậy, sáng suốt trong việc chỉ
đạo. Đòi hỏi người lãnh đạo phải có trình độ năng lực cao và bộ máy quản lý
không quá cồng kềnh càng gọn nhẹ càng tốt. ảnh hưởng của những biện pháp
trên được xác định theo công thức sau:
Hzcdd =
100
Dcd x Pcd (%)
Trong đó:
12
Hzcđ: Tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm do nâng cao sản lượng tiết kiệm
tương đối chi phí cố định.
Dcđ: Tỷ trọng chi phí cố định trong giá thành đơn vị sản phẩm năm
trước.
Pcđ: Tỷ lệ tiết kiệm tương đối chi phí cố định cho một đơn vị sản
phẩm.
Pcdd =
Q100
cd x Pcd
x 100 - 100 (%)
Với cđ: Tỷ lệ giảm chi phí cố định của năm thực tế so với năm kế
hoạch.
Q: Tỷ lệ tăng giảm sản lượng sản phẩm năm thực tế so với năm kế
hoạch.
Trên cơ sở kết quả tính toán ảnh hưởng của các biện pháp đến việc hạ
giá thành sản phẩm, có thể tổng hợp tỷ lệ hạ giá thành chung và tinhsmuwcs
hạ giá thành do áp dụng tổng hợp các biện pháp trong 5 kế hoạch của doanh
nghiệp như sau:
- Tính tỷ lệ hạ giá thành chung do áp dụng các biện pháp.
Hzc = Hznvl + Hzlg +Hzcđ (%)
- Tính mức hạ giá thành sản phẩm toàn doanh nghiệp.
Mzc = Hzc x
n
i 1
(QiKH x ZiBC) (đồng).
Trong đó:
Qikh: Khối lượng kế hoạch loại sản phẩm i:
Zibc: Giá thành đơn vị sản phẩm i trong năm trước.
13
CHƯƠNG II
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ VỀ GIÁ THÀNH
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CHUNG CỦA CÔNG TY.
1/ Quá trình hình thành và phát triển của công ty.
Năm 1973 bộ ngoại thương có quyết định số 242/BNT - CTCB ngày
24 tháng 12 năm 1973 về việc thành lập bao bì xuất khẩu 2 đóng tại Km9
quốc lộ 1A nằm trên địa bàn xã Hoàng Liệt - Thanh Trì - Hà Nội.
Kể từ ngày thành lập xí nghiệp bao bì xuất khẩu 2 có chức năng và
nhiệm vụ chính là nhận gỗ thông từ Liên Xô về gia công, chế biến đóng hòm
xuất khẩu và được tiêu thụ cho các công ty có hàng xuất khẩu ra nước ngoài
chủ yếu là Liên Xô cũ.
Tổng số vốn kinh doanh ban đầu là 4.100.000.000 đồng.
- Vốn lưu động là: 1.800.000.000 đồng
- Vốn cố định là: 2.300.000.000 đồng
Trong đó: - Vốn ngân sách cấp là: 1.700.000.000 đồng
- Vốn tự có là: 600.000.000 đồng
Cơ sở của xí nghiệp gồm 4,5 ha đất làm mặt bằng sản xuất với 7 nhà
xưởng khung kho tiệp để chứa nguyên vật liệu làm xưởng sản xuất. Mặt khác
xí nghiệp nằm cạnh đường quốc lộ 1A cho nên thuận tiện cho việc quan hệ
mua bán, giao dịch, chuyên chở vận chuyển và tiêu thụ, không gây ảnh hưởng
đến sản xuất kinh doanh .
Sau nhiều năm sản xuất và xây dựng , xí nghiệp bao bì xuất khẩu 2 đã
đạt được truyền thống vẻ vang, sản xuất ổn định. Sản lượng năm sau lớn hơn
sản lượng năm trước từ 10 - 15%, chất lượng hàng hoá luôn được bảo đảm, xí
nghiệp luôn chú trọng đến tiêu chuẩn hàng hoá xuất khẩu để đáp ứng được
14
yêu cầu của thị trường. Xí nghiệp bao bì xuất khẩu 2 luôn được công nhận là
đơn vị khá nhất trong khối công nghiệp huyện Thanh Trì.
Do công ty có nhiều năm hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời kỳ
bao cấp, cho nên khi chuyển sang cơ chế thị trường công ty kinh doanh thua
lỗ hàng hoá sản xuất ra không tiêu thụ được... Đặc biệt thị trường to lớn Liên
Xô tan rã, hàng hoá không xuất khẩu được. Mặt hàng gỗ của công ty bị thu
hẹp, công ty gần như không đứng vững trên thị trường.
Sau một thời kỳ điêu đứng trên thị trường, với những kinh nghiệm đã
được đúc rút, nhất là sự năng động sáng tạo của đội ngũ lãnh đạo mới. Đến
nay (tháng 8/1998) công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu lại lấy được thế
đứng trên thị trường và đã phát triển với quy mô tương đối lớn. Công ty đã
thành lập được 8 xí nghiệp thành viên với số lượng máy móc vừa tiên tiến
hiện đại, vừa sửa chữa thay thế, cải tiến những máy móc cũ. Tạo điều kiện
cho 640 cán bộ, công nhân viên có công ăn việc làm ổn định .
2. Tình hình đặc điểm sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Vấn đề tiêu thụ sản phẩm hiện nay là một vấn đề đặt ra đối với công ty
và luôn là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp nói chung và của công ty sản
xuất bao bì và hàng xuất khẩu nói riêng. Thông qua tiêu thụ công ty thực hiện
được giá trị và giá trị sử dụng sản phẩm , thu hồi được vốn bỏ ra, góp phần
tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn bỏ ra, góp phần tăng nhanh tốc độ luân
chuyển vốn đồng thời thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường khách hàng được coi là "Thượng đế". Nhu
cầu, mức độ tiêu thụ, thói quen, tập tính sinh hoạt, phong tục... của người tiêu
dùng là những nguyên nhân tác động trực tiếp đến chất lượng hàng tiêu thụ.
Trong đó thu nhập của khách hàng còn quyết định lượng hàng mua.
15
Thực tế tại công ty gặp nhiều thuận lợi cho việc tiêu thụ vì phần lớn thị
trường tiêu thụ là nước bạn Lào, Liên Xô cũ và với 500 bạn hàng từ các tỉnh
phía Bắc.
Nhìn chung sản phẩm của công ty sản xuất ra được thị trường chấp
nhận và đang có thế đứng trên thị trường.
3. Nhiệm vụ và phương hướng phát triển của công ty những năm
trước đây.
Những năm trước đây công ty vẫn làm theo kế hoạch của Bộ thương
mại giao cho. Nhưng từ khi có cơ cấu chuyển dịch nền kinh tế từ năm 1990
trở lại đây công ty phải tự hạch toán kinh doanh và cũng trong thời điểm này
công ty đã khoán sản phẩm cho các xí nghiệp thành viên để các xí nghiệp chủ
động trong việc sản xuất kinh doanh, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả lao
động. Công ty có chế độ sản xuất 8giờ/ngày. Lương từ 20.000 - 22.000
đồng/ngày có thực hiện chế độ thưởng, phạt hợp lý.
Hướng phát triển của công ty vào những năm tới là bồi dưỡng thêm
kiến thức cho cán bộ đầu ngành, hướng dẫn cho công nhân sản xuất, sử dụng
thành thạo máy móc, thiết bị hiện đại, mở rộng thêm các việc làm chính, phụ.
Tìm kiếm thêm thị trường tiêu thụ và vươn lên giữ chỗ đứng cho mình trong
thị trường trong và ngoài nước.
II/ PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH
DOANH VÀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC HẠ GIÁ THÀNH SẢN
PHẨM.
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta mở cửa, các hãng đầu tư
trong và ngoài nước đã đầu tư xây dựng nhiều xí nghiệp, công ty liên doanh,
công ty TNHH... thêm vào đó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các mặt hàng
không những của trong nước mà còn