Chuyên đề Nghiệp vụ kiểm soát cơ số tiền của ngân hàng trung ương

Gồm 6 chương: _ Chương 1: Tìm hiểu các khái niệm về tiền và phương tiện thanh toán, các khối tiền tệ. _ Chương 2: Quy trình và các kênh phát hành tiền của NHTW. _ Chương 3 : Mô hình số nhân tiền và lượng cung ứng tiền _ Chương 4: Cơ số tiền tệ và nghiệp vụ kiểm soát cơ số tiền của NHTW _ Chương 5: Các phương thức đấu thầu trong nghiệp vụ thị trường mở _ Chương 6: Các phương thức cho vay chiết khấu của ngân hàng trung ương đối với ngân hàng trung gian

doc42 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2113 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nghiệp vụ kiểm soát cơ số tiền của ngân hàng trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề 5: NGHIỆP VỤ KIỂM SOÁT CƠ SỐ TIỀN CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG ·¸¹º»¼½ ¾¿ÀÁ Gồm 6 chương: _ Chương 1: Tìm hiểu các khái niệm về tiền và phương tiện thanh toán, các khối tiền tệ. _ Chương 2: Quy trình và các kênh phát hành tiền của NHTW. _ Chương 3 : Mô hình số nhân tiền và lượng cung ứng tiền _ Chương 4: Cơ số tiền tệ và nghiệp vụ kiểm soát cơ số tiền của NHTW _ Chương 5: Các phương thức đấu thầu trong nghiệp vụ thị trường mở _ Chương 6: Các phương thức cho vay chiết khấu của ngân hàng trung ương đối với ngân hàng trung gian Chương1: CÁC KHÁI NIỆM VỀ TIỀN – PHƯƠNG TIỆN THANH TOÁN - KHỐI TIỀN TỆ âªâªâ I . Các khái niệm tiền: Thông thường, khi nói về “ tiền” là ta sẽ nghĩ đến đồng tiền (tiền mặt). Định nghĩa tiền chỉ đơn thuần là đồng tiền thì quá hẹp với các nhà kinh tế. Vì vậy, cần định nghĩa rộng hơn của tiền, bởi vì các khoản khác như séc du lịch hay tiền gửi tiết kiệm … có thể có tác dụng hữu hiệu như tiền, nếu chúng có thể chuyển đổi một cách nhanh chóng và dễ dàng thành tiền mặt hoặc thành món gửi ở dạng tài khoản séc. Rõ ràng khó có một định nghĩa đơn giản, chính xác của tiền hoặc lượng tiền cung ứng, ngay cả đối với các nhà kinh tế. Theo một số quan điểm khác thì tiền được dùng một cách đồng nghĩa với của cải (Wealth) hay thu nhập ( Income) thì cũng không chính xác. Trong kinh tế học, có một số khái niệm về tiền: Tiền mặt: là tiền dưới dạng tiền giấy và tiền kim loại. Tiền gửi: là tiền mà các doanh nghiệp và cá nhân gửi vào NHTM nhằm mục đích phục vụ các thanh toán không dùng tiền mặt. Chúng có thể dễ dàng chuyển thành tiền mặt. Chuẩn tệ: là những tài sản có thể dễ dàng chuyển thành tiền, chẳng hạn như trái phiếu, kỳ phiếu, hối phiếu, tiền tiết kiệm, ngoại tệ. Theo các nhà kinh tế: Tiền (money) là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán cho hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc trong việc hoàn trả các món nợ và tiền khác với thu nhập (income) và của cải (welth). Hoặc “Tiền là một vật đảm nhận đồng thời vai trò công cụ trao đổi, công cụ thước đo giá trị và công cụ tích lũy”. 2. Khối tiền tệ: Khối tiền tệ là mức cung tiền tệ đã cung ứng cho nền kinh tế qua các thời kì. Mức cung tiền tệ là toàn thể khối lượng tiền đã được cung cấp cho nền kinh tế trong một thời kì xác định. Khối tiền tệ trong lưu thông tập hợp các phương tiện được sử dụng chung làm phương tiện trao đổi, được phân chia tùy theo “độ lỏng” của các phương tiện đó trong những khoảng thời gian nhất định của một quốc gia. Bao gồm: + Khối tiền giao dịch (M1): gồm những phương tiện được sử dụng rộng rãi trong thanh toán chi trả về hàng hóa, dịch vụ, bộ phận này có tính lỏng cao nhất, gồm: Mo (là lượng tiền mặt trong lưu hành): bộ phận tiền mặt (giấy bạc NH và tiền đúc nằm ngoài hệ thống NH). Tiền gửi không kì hạn tại các tổ chức tín dụng: gồm những khoản tiền gửi có thể lấy ra bất cứ lúc nào theo yêu cầu, có thể tồn tại dưới dạng phát séc hoặc không phát séc. + Khối tiền mở rộng (M2) gồm: M1 Tiền gửi tiết kiệm Tiền gửi có kì hạn tại ngân hàng M2 kém linh hoạt hơn M1 nhưng sự kiểm soát M2 là quan trọng, vì tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn tại ngân hàng trung ương là lượng giao dịch tiềm năng. Hơn nữa giữa chúng và M1 có sự chuyển hóa lẫn nhau. + Khối tiền M3 gồm: M2 Trái khoán có mức lỏng cao như: hối phiếu, tín phiếu kho bạc, …bộ phận trái khoán này là tài sản chính nhưng vẫn có thể được chuyển đổi ra tiền giao dịch tương đối nhanh chóng. Vì trình độ phát triển tài chính không giống nhau giữa các nước và thay đổi theo thời gian nên thành phần của các khối tiền tệ có thể khác nhau giữa các quốc gia và thay đổi theo thời gian. VD: - Cục dữ trữ liên bang Mỹ (FED) đưa thêm séc du lịch và các dạng tiền gửi có thể phát séc vào M1, ở M2 tách tiền gửi có kì hạn lượng nhỏ để lại M2, còn tiền gửi có kì hạn lượng lớn thì đưa sang M3 và thêm vào M2 tài khoản tiền gửi tại thị trường tiền tệ. - Ở VN thì đưa vào M2 kì phiếu NHTM. Việc lựa chọn ra một phép đo lượng tiền chính thức trong thực tế sẽ căn cứ vào việc phép đo lượng tiền nào giúp thực hiện tốt nhất việc dự báo các biến số kinh tế mà tiền tệ có ảnh hưởng nhiều như lạm phát, chu kì kinh doanh…Trên thực tế các quốc gia thường sử dụng phép đo M1 hoặc M2, ở VN thường sử dụng phép đo M2. 3. Phương tiện thanh toán: Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ thanh toán chi trả lẫn nhau phải dùng hình thức tiền tệ. Vì vậy, thanh toán tiền tệ là một yêu cầu khách quan, là điều kiện cần thiết để phục vụ cho quá trình tái sản xuất xã hội. Thanh toán tiền tệ được thực hiện dưới hai hình thức : thanh toán tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt. 3.1 Thanh toán tiền mặt: Là việc chi trả trực tiếp bằng tiền mặt trong trao đổi hàng hóa, hoặc cung cấp dịch vụ. Thanh toán tiền mặt thích hợp với vai trò của tiền tệ làm vật môi giới trong quá trình lưu thông. Sau khi xuất chuyển hàng hóa hay cung ứng dịch vụ cho người mua, người bán nhận được tiền ngay. Và quá trình thanh toán cũng chấm dứt ngay ở đó. Hạn chế của thanh toán tiền mặt: khi muốn thực hiện một khối lượng lớn tổng giá cả hàng hóa phải có lượng tiền mặt lớn, điều đó làm cho chi phí về lưu thông tiền tệ tăng lên, việc tổ chức lưu thông tiền mặt càng thêm phức tạp, tốc độ luân chuyển vốn chậm; ngược lại nếu vì một lý do nào đó không có tiền tệ, thì quá trình tái sản xuất không tiếp tục được. Những bất tiện của việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán đòi hỏi phải có thêm những hình thức thanh tóan thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, với sự phát triển vượt bậc của hệ thống ngân hàng, các dịch vụ các công cụ thanh tóan đã được ngân hàng nghiên cứu đưa ra để khách hàng lựa chọn cho mình một hình thức thanh tóan thích hợp thay cho thanh tóan tiền mặt. 3.2 Thanh toán không dùng tiền mặt: là việc thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác trong nền kinh tế quốc dân được thực hiện bằng cách trích chuyển tài khoản trong hệ thống ngân hàng hoặc bù trừ công nợ mà không sử dụng tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt là sử dụng tiền ghi sổ hay còn gọi là bút tệ. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của cách thanh toán này. Hiện nay, VN đang áp dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt: séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, ngân phiếu thanh tóan, thẻ thanh tóan và các phương thức thanh tóan bù trừ, phương thức thanh toán liên ngân hàng 3.2.1) Séc Séc là một tờ mệnh lệnh vô điều kiện của chủ tài khoản tiền gửi ra lệnh cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình một số tiền nhất định để trả cho người cầm séc, người có tên trong séc hoặc trả theo lệnh của người ấy. Séc là một phương tiện chi trả rất thuận tiện và thông dụng trong thanh toán nội địa cũng như thanh toán quốc tế về hàng hóa, dịch vụ… Các loại séc J Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng: 3 loại Séc đích danh Séc vô danh Séc theo lệnh J Căn cứ vào đặc điểm sử dụng Séc tiền mặt Séc chuyển khoản Séc xác nhận Séc du lịch - Séc gạch chéo Các loại séc đang áp dụng tại các ngân hàng VN - Séc chuyển khỏan: được áp dụng trong trường hợp sau: + Người phát lệnh và người thụ hưởng có tài khoản tại một ngân hàng + Người phát lệnh và người thụ hưởng có tài khỏan tại hai ngân hàng khác nhau, nhưng có tham gia thanh tóan bù trừ trực tiếp với nhau. - Séc bảo chi: + Người phát lệnh và người thụ hưởng có tài khỏan tại một ngân hàng + Có tài khỏan tại hai ngân hàng khác nhau có tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp + Có tài khỏan tại hai ngân hàng khác nhau trong cùng hệ thống không tham gia thanh toán bù trừ - Sổ séc định mức: Là một hình thức sổ bảo chi tòan bộ sổ séc tức là không bảo chi từng tờ séc. Mỗi sổ séc định mức chỉ được áp dụng để chi trả cho một hoặc một số người thụ hưởng thuộc cùng một đơn vị chủ quản. Loại này được áp dụng trong trường hợp: + Mở tài khỏan tại một ngân hàng + Mở tài khỏan tại hai ngân hàng có tham gia thanh tóan bù trừ trực tiếp và trực tiếp giao nhận chứng từ cho nhau. + Mở tài khỏan tại hai ngân hàng cùng hệ thống Người thụ hưởng khi nhận tờ séc có trách nhiệm kiểm tra số chi của sổ séc định mức và chịu trách nhiệm về việc kiểm tra cuả mình. - Séc chuyển tiền: lọai này tương tự loại séc ngân hàng đang áp dụng trên thế giới. Loại séc này dùng để thanh tóan chuyển khỏan hay rút tiền mặt. 3.2.2) Phương thức ủy nhiệm chi Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khỏan được lập theo mẫu in sẵn của ngân hàng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tài khỏan của mình để trả cho người thụ hưởng. Ủy nhiệm chi được dùng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc chuyển tiền trong cùng hệ thống hay khác hệ thống ngân hàng ….Khác với séc ủy nhiệm chi không dùng để rút tiền mặt mà chỉ được dùng trong thanh toán chuyển khỏan. 3.2.3). Phương thức ủy nhiệm thu: Ủy nhiệm thu là giấy ủy nhiệm đòi tiền do người thụ hưởng gửi vào ngân hàng phục vụ mình để nhờ thu tiền về hàng hóa đã giao hay dịch vụ đã cung cấp. Được áp dụng trong thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ giữa các chủ thể mở tài khoản trong cùng một chi nhánh ngân hàng hoặc các chi nhánh ngân hàng cùng hệ thống hay khác hệ thống. Các chủ thể thanh toán phải thỏa thuận thống nhất dùng hình thức thanh toán ủy nhiệm thu với điều kiện thanh toán cụ thể đã ghi trong hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng, đồng thời phải thông báo bằng văn bảng cho ngân hàng phục vụ để làm căn cứ thực hiện các ủy nhiệm thu. Trong thanh toán quốc tế thanh toán ủy nhiệm thu thể hiện dưới hai hình thức: + Nhờ thu trơn: là người xuất khẩu sau khi xuất chuyển hàng hóa, lập các chứng từ hàng hóa gửi trực tiếp cho người nhập khẩu ( thông qua ngân hàng) đồng thời ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người nhập khẩu trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra. + Nhờ thu kèm chứng từ: là phương thức trong đó người xuất khẩu ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người nhập khẩu, không những chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hóa kèm theo, với điều kiện là người nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu có kì hạn thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ hàng hóa cho người nhập khẩu để đi nhận hàng. 3.2.4). Thư tín dụng: Thư tín dụng là lệnh của người trả tiền yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trả cho người thụ hưởng một số tiền nhất định theo đúng những điều khoản đã ghi trên thư tín dụng. So với các chứng từ thanh toán khác các điều kiện ghi trên thư tín dụng khá đa dạng và phức tạp. Trong thanh toán quốc tế người ta thường sử dụng các loại thư tín dụng sau: Thư tín dụng có thể hủy ngang Thư tín dụng không hủy ngang. Thư tín dụng không hủy ngang có xác nhận Thư tín dụng chuyển nhượng Ngoài ra còn có một số thư tín dụng khác như: Thư tín dụng không hủy ngang miễn truy đòi Thư tín dụng tuần hoàn Thư tín dụng giáp lưng Thư tín dụng đối ứng Thư tín dụng dự phòng Thư tín dụng thanh toán dần Thư tín dụng điều khoản đỏ 3.2.5). Ngân phiếu thanh tóan: Ngân phiếu thanh toán là công cụ thanh tóan không dùng tiền mặt do ngân hàng Nhà nước phát hành độc quyền và lưu hành trong cả nước để các cá nhân và đơn vị kinh tế dùng thanh toán thay thế tiền mặt. 3.2.6). Giấy chuyển tiền: Là giấy ủy nhiệm do khách hàng lập gửi ngân hàng phục vụ mình, yêu cầu ngân hàng chuyển một số tiền nhất định cho một người khác tại một địa điểm nhất định. Việc chuyển tiền được tiến hành dưới hình thức bằng thư hoặc telex. Trong trường hợp thanh toán bằng ngoại tệ, người chuyển tiền phải mua ngoại tệ theo tỉ giá hối của nước đó. 3.2.7). Thẻ thanh tóan: Đối với thẻ thanh toán có nhiều khái niệm để diễn đạt nó, mỗi một cách diễn đạt nhằm làm nổi bật một nội dung nào đó. Sau đây là một số khái niệm về thẻ thanh toán: -    Thẻ thanh toán (thẻ chi trả) là một phương tiện thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ hoặc có thể được dùng để rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý hoặc các máy rút tiền tự động. Thẻ thanh toán là một loại thẻ giao dịch tài chính được phát hành bởi ngân hàng, các tổ chức tài chính hay các công ty. -    Thẻ thanh toán là phương thức ghi sổ những số tiền cần thanh toán thông qua máy đọc thẻ phối hợp với hệ thống mạng máy tính kết nối giữa Ngân hàng/Tổ chức tài chính với các điểm thanh toán (Merchant). Nó cho phép thực hiện thanh toán nhanh chóng, thuận lợi và an toàn đối với các thành phần tham gia thanh toán. Tóm lại: các cách diễn đạt trên đều phản ánh đây là một phương thức thanh toán mà người sở hữu thẻ có thể dùng để thanh toán tiền mua hàng hoá dịch vụ hay rút tiền mặt tự động thông qua máy đọc thẻ hay các máy rút tiền tự động. Phân loại thẻ thanh toán: J Phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ - Thẻ tín dụng (Credit Card): là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất, theo đó người chủ thẻ được phép sử dụng một hạn mức tín dụng không phải trả lãi để mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại những cơ sở kinh doanh, khách sạn, sân bay ... chấp nhận loại thẻ này. Gọi là thẻ tín dụng vì chủ thẻ được ứng trước một hạn mức tiêu dùng mà không phải trả tiền ngay, chỉ thanh toán sau một kỳ hạn nhất định. Cũng từ đặc điểm trên mà người ta còn gọi thẻ tín dụng là thẻ ghi nợ hoãn hiệu (delayed debit card) hay chậm trả. - Thẻ ghi nợ (Debit card): đây là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn liền với tài khoản tiền gửi. Loại thẻ này khi được sử dụng để mua hàng hoá hay dịch vụ, giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ thông qua những thiết bị điện tử đặt tại cửa hàng, khách sạn ... đồng thời chuyển ngân ngay lập tức vào tài khoản của cửa hàng, khách sạn... Thẻ ghi nợ còn hay được sử dụng để rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động. Thẻ ghi nợ không có hạn mức tín dụng vì nó phụ thuôc vào số dư hiện hữu trên tài khoản của chủ thẻ. Có hai loại thẻ ghi nợ cơ bản: -    Thẻ online: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản chủ thẻ. -    Thẻ offline: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ vào tài khoản chủ thẻ sau đó vài ngày. - Thẻ rút tiền mặt (Cash card) là loại thẻ rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hoặc ở ngân hàng. Với chức năng chuyên biệt chỉ dùng để rút tiền, yêu cầu đặt ra đối với loại thẻ này là chủ thẻ phải ký quỹ tiền gởi vào tài khoản ngân hàng hoặc chủ thẻ được cấp tín dụng thấu chi mới sử dụng được. Thẻ rút tiền mặt có hai loại: *Loại 1: chỉ rút tiền tại những máy tự động của Ngân hàng phát hành. *Loại 2: được sử dụng để rút tiền không chỉ ở Ngân hàng phát hành mà còn được sử dụng để rút tiền ở các Ngân hàng cùng tham gia tổ chức thanh toán với Ngân hàng phát hành thẻ. J Phân loại theo phạm vi lãnh thổ: -    Thẻ trong nước: là thẻ được giới hạn trong phạm vi một quốc gia, do vậy đồng tiền giao dịch phải là đồng bản tệ của nước đó. -    Thẻ quốc tế: đây là loại thẻ được chấp nhận trên toàn thế giới, sử dụng các ngoại tệ mạnh để thanh toán. J   Phân loại theo chủ thể phát hành -    Thẻ do Ngân hàng phát hành (Bank Card): là loại thẻ do ngân hàng phát hành giúp cho khách hàng sử dụng một số tiền do Ngân hàng cấp tín dụng. -    Thẻ do tổ chức phi ngân hàng phát hành: là loại thẻ du lịch và giải trí của các tập đoàn kinh doanh lớn hoặc các công ty xăng dầu lớn, các cửa hiệu lớn... phát hành như Diner's Club, Amex... 3.2.8). Hối phiếu Hối phiếu là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện do một người kí phát cho một người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy phiếu, hoặc đến một ngày xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho một người khác hoặc trả cho người cầm phiếu. Phân loại hối phiếu: Căn cứ vào thời hạn trả tiền: hối phiếu trả tiền ngay và hối phiếu có kì hạn. Căn cứ vào chứng từ kèm theo: hối phiếu trơn và hối phiếu kèm chứng từ Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng: hối phiếu đích danh, hối phiếu trả cho người cầm hối phiếu, hối phiếu theo lệnh Chương2: QUY TRÌNH VÀ CÁC KÊNH PHÁT HÀNH TIỀN CỦA NHTW âªâªâ 1.Qui trình phát hành tiền: Phát hành tiền là đưa tiền in sẵn từ trong kho vào lưu thông để đáp ứng các nhu cầu tiền mặt của nền kinh tế. Việc phát hành tiền của NHTW được thực hiện theo qui trình sau: tiền từ nhà máy in tiền nhập về trước hết được nhập vào kho tiền dự trữ phát hành chưa công bố lưu hành và hạch toán ngoại bảng. Khi có lệnh phát hành, số tiền nầy sẽ được xuất sang quỹ dự trữ phát hành đã công bố lưu hành và hạch toán nội bảng. Sau đó, theo lệnh chuyển tiền, tiền được chuyển về nhập vào kho quỹ dự trữ phát hành tại các chi nhánh NHTW. Từ quỹ dự trữ phát hành, tiền được chuyển sang quỹ nghiệp vụ phát hành, tại đây các chi nhánh của NHTW thực hiện nhiệm vụ cung ứng tiền cho nền kinh tế thông qua các tổ chức tín dụng và kho bạc NN.  Quá trình phát hành và điều hòa tiền mặt trong hệ thống NHNN Việt Nam theo sơ đồ: Nhà máy in tiền quốc gia Kho tiền TW II Quỹ DTPH Kho tiền TW I Quỹ DTPH Kho tiền TW III Quỹ DTPH Kho tiền các chi nhánh NHNN phía Nam - Quỹ DTPH (4) - Quỹ NVPH Kho tiền các chi nhánh NHNN phía Bắc - Quỹ DTPH (4) - Quỹ NVPH Kho tiền các chi nhánh NHNN miền Trung và Tây Nguyên - Quỹ DTPH (4) - Quỹ NVPH Các tổ chức tín dụng và kho bạc Nhà nước (1) (2) (2) (3) (5) (5) (5) 1.Tiền mới được in, đúc tại nhà máy in tiền quốc gia nhập về quỹ DTPH tại kho tiền TW I tại Hà Nội. Khi có lệnh chuyển tiền từ kho tiền TW I , tiền được vận chuyển đến kho tiền TW II tại Thành Phố Hồ Chí Minh và kho tiền TW III ( tại Quy Nhơn) và được nhập vào quỹ DTPH. Từ Quỹ DTPH tại các kho tiền TW, tiền sẽ được xuất nhập với Quỹ DTPH tại các chi nhánh NHNN trong khu vực. Từ Quỹ DTPH tại các chi nhánh NHNN, tiền được xuất nhập với Quỹ NVPH. Từ Quỹ NVPH, thông qua các nghiệp vụ cung ứng tiền của NHNN, tiền sẽ được điều chuyển đến các tổ chức tín dụng, KBNN, và đi vào lưu thông. Ngược lại các loại tiền thu hồi về từ lưu thông sẽ được nhập vào quỹ NVPH tại các chi nhánh NHNN J Quỹ dự trữ phát hành: là nơi dự trữ các loại tiền đặt tại các kho tiền TW và chi nhánh NHNN tại các tỉnh, thành phố. J Quỹ nghiệp vụ phát hành: là quỹ tiền mặt đáp ứng nhu cầu tiền mặt của nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng trung gian, kho bạc nhà nước. Quỹ này được quản lí và bảo quản tại sở giao dịch NHNN và các chi nhánh NHNN tại tỉnh, thành phố và được định mức tồn quỹ. { NGUYÊN TẮC PHÁT HÀNH TIỀN Phát hành tiền không chỉ thuần túy là đưa tiền vào lưu thông cung ứng tiền mặt cho nền kinh tế mà nó còn có ý nghĩa lớn lao là góp phần giữ gìn sự ổn định, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định tình hình tài chính, tiền tệ của đất nước. Vì vậy việc phát hành tiền phải tuân thủ các nguyên tắc sau: * Nguyên tắc cân đối: Đó là sự cân đối hợp lí giữa tốc độ phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng tiền tệ, đáp ứng nhu cầu luân chuyển của hàng hóa, dịch vụ vừa góp phần ngăn chặn lạm phát. Là sự cân đối giữa tiền- hàng. Là một trong những cân đối lớn trong nền kinh tế, giữ vững cân đối T- H là giữ vững quan hệ cân đối giữa SX-TD, giữa SX- LT. Cân đối còn bao hàm cả cân đối cơ cấu và loại tiền trong lưu thông. * Nguyên tắc bảo đảm: Việc phát hành tiền tùy theo giai đoạn mà được đảm bảo bằng các hình thức sau: J Bảo đảm bằng vàng. J Bảo đảm bằng tín dụng. J Bảo đảm bằng trái phiếu chính phủ. * Nguyên tắc quản lí tập trung thống nhất: Phát hành tiền là chức năng quan trọng hàng đầu của NHTW do đó phải thực hiện chức năng quản lí tập trung thống nhất trong công tác phát hành. NHTW căn cứ vào diễn biến trên thị trường để điều chỉnh việc phát hành tiền cho phù hợp. { CÁC KÊNH PHÁT HÀNH TIỀN: Việc phát hành được NHTW thực hiện thông qua 4 kênh chủ yếu: % Phát hành tiền qua hệ thống ngân hàng trung gian: Trong quá trình hoạt động kinh doanh, hệ thống ngân hàng trung gian nếu thiếu vốn sẽ được NHTW tiếp vốn dưới hình thức tái cấp vốn. Đây chính là kênh phát hành chủ yếu của NHTW. Qua đó: + Đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng gia tăng kích thích kinh tế phát triển. + Vốn phát hành qua kênh này được điều tiết bởi hai công cụ là lãi suất và thời hạn. Với công cụ lãi suất, NHTW gia tăng lãi suất tái cấp vốn có nghĩa NHTW hạn chế tín dụng và ngược lại. Với công cụ thời hạn tín dụng thì vốn phát hành luôn được NHTW kiểm soát. % Phát hành tiền qua kênh tín dụng đối với chính phủ: NHTW sử dụng vốn phát hành c