Đứng trước yêu cầu cấp bách của việc chuyển dịch dần từ các nguồn năng lượng truyền thống, hóa thạch sang các nguồn năng lượng tái tạo (NLTT), phóng viên Tạp chí Kinh tế Môi trường đã có cuộc trao đổi với bà Nguyễn Thị Hà, Quản lý chương trình Năng lượng bền vững, Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) để có góc nhìn đa chiều về những giải pháp, cơ chế chính sách cho phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam. Là chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực năng lượng, bà có thể chia sẻ về tình hình phát triển NLTT tại Việt Nam hiện nay? - Quá trình phát triển NLTT thời gian qua đang đặt ra những thách thức mới về sự phát triển đồng bộ của hệ thống lưới điện, sử dụng đất, cơ chế giá điện, công nghệ, nguồn nhân lực, việc làm và nguồn tài chính. Hiện, năng lượng tái tạo toàn cầu phát triển đến một ngưỡng không còn đường lui nữa. Hơn 50% công suất NLTT mới bổ sung 2019 có chi phí sản xuất điện rẻ hơn so với nhà máy điện than mới. NLTT (gió và mặt trời, tích hợp dự trữ trung hạn) đang dần cạnh tranh hơn với các dạng năng lượng hóa thạch ở quy mô thương mại. Nhiều nước chuyển sang áp dụng cơ chế đấu thầu, gọi thầu cạnh tranh để hỗ trợ các dự án điện tái tạo tập trung quy mô lớn, đồng thời tăng cường chú trọng đối với quy mô phân tán. Điện mặt trời (ĐMT) nối lưới đã có 92 dự án đưa vào vận hành với tổng công suất 4.693 MW, 135 dự án ĐMT đã được bổ sung quy hoạch với tổng công suất 13.000 MWp (tương đương 10.000 MW). Dự kiến đến năm 2025, tổng công suất ĐMT là 14.450 MW và năm 2030 là 20.050 MW. ĐMT mái nhà tính đến tháng 6/2019 trên toàn quốc có 24.500 hệ thống với tổng công suất 470 MW, điện gió có 9 dự án đã vận hành với tổng công suất 350 MW. Tổng công suất điện gió đã được quy hoạch là 4.800 MW. Chính phủ cũng đã cho chủ trương bổ sung quy hoạch thêm 7.000 MW. Dự kiến quy hoạch điện gió đến năm 2025 là 6.030 (phương án cơ sở) và 11.630 (phương án cao). Ngoài ra còn có thêm tổng công suất điện sinh khối đã đi vào vận hành là 350 MW. Hiện đang có xu hướng chuyển các loại năng lượng truyền thống, hoá thạch sang sử dụng NLTT. Vậy việc chuyển đổi này có những mặt tích cực nào? - Việc chuyển đổi này sẽ giúp làm giảm thiểu biến đổi khí hậu là lý do chính cho mục tiêu 100% NLTT. Nhưng lợi ích giảm phát thải CO2 không phải động lực duy nhất cho phát triển NLTT. Ở nhiều quốc gia, mục tiêu giảm ô nhiễm không khí và các vấn đề sức khỏe do ô nhiễm không khí gây ra - là động lực then năng lượng tái tạo Thúc đẩy kinh tế tư nhân tham gia Năng lượng tái tạo cần vốn đầu tư và chi phí sản xuất thấp, tăng cơ hội tiếp cận điện và cải thiện điều kiện sống cho bà con vùng sâu xa. Tuy nhiên, việc phát triển năng lượng tái tạo bền vững cần sự chung tay của mọi thành phần kinh tế tham gia. Xanh (GreenID).chốt. An ninh năng lượng cũng là một động lực quan trọng nữa. Việc sử dụng NLTT và nhiên liệu như là một vấn đề an ninh quốc gia và cho sự an toàn của đất nước. An ninh năng lượng cũng đang được xem xét rộng rãi hơn trong bối cảnh tăng cường khả năng thích ứng của hệ thống năng lượng trước những tác động của biến đổi khí hậu. Chi phí đầu tư cho một số công nghệ NLTT đang giảm nhanh, đặc biệt trong ngành điện. Những đổi mới trong sản xuất và lắp đặt pin năng lượng mặt trời, các cải thiện trong các thiết kế và vật liệu cho tuabin gió và hệ thống lưu trữ nhiệt CSP là một số công nghệ đóng góp vào giảm giá thành tổng thể. Cùng với đó, triển khai NLTT tạo ra nhiều giá trị và việc làm tại địa phương. Đối với các nước có nền kinh tế tăng trưởng thấp trên thế giới, ngành NLTT sẽ cung cấp một giải pháp để tăng thu nhập, cải thiện cán cân thương mại, đóng góp cho phát triển công nghiệp và tạo ra việc làm. Các phân tích cho thấy các nước có khung chính sách NLTT ổn định được hưởng lợi nhiều nhất từ giá trị tại địa phương mà ngành này tạo ra.
72 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 466 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyển dịch năng lượng sạch, cơ hội và thách thức cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
C
hu
yể
n
ng
ườ
i k
há
c
cù
ng
đ
ọc
WWw.kinhtemoitruong.vn
G
iá
: 5
0.
00
0
đ
ồn
g
Chuyển dịch
NĂNG LƯỢNG
TÁI TẠO
MỤC LỤC
6 Kinh tế tuần hoàn: Nền tảng của phát triển bền vững 34
Liên tiếp sạt lở khốc liệt ở miền Trung:
Thảm họa đã được báo trước? 40
Vì sao diện tích rừng Việt Nam
thấp hơn các nước trong khu vực? 42
Cần có chính sách ưu đãi cho điện rác 54
Xử lý nước thải nông thôn cần được
quan tâm đúng mức 58
Báo động tình trạng
ô nhiễm rác thải ven biển 60
Bất chấp hiện tượng La Nina,
năm 2020 vẫn nóng kỷ lục 62
Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu
sẽ đi về đâu?
64
Thế giới làm gì để
chống rác thải nhựa 66
Biến đổi khí hậu đe dọa tài nguyên nước 68
Chuyển dịch năng lượng tái tạo
Cơ hội và thách thức cho Việt Nam
10 “Dồn dập” đầu tư năng lượng tái tạobỏ ngỏ hệ lụy môi trường
14 Xóa bỏ rào cản để phát triển năng lượng xanh bền vững
16 Điện mặt trời nổi - Xu hướng mới củangành công nghiệp năng lượng
20 “Cú hích” lớn cho sự thúc đẩy nănglượng sạch
22 Bảo vệ rừng phòng hộ: Nhiều thách thức
24
Trung ương Hội Kinh tế Môi trường
Việt Nam ủng hộ đồng bào
vùng lũ miền Trung
25 “Chỉ có rừng tự nhiên mới có năng lực bảo vệ đất đai”
30 Hệ sinh thái vùng biển Việt Nam trướcsức ép biến đổi khí hậu
TẠP CHÍ KINH TẾ MÔI TRƯỜNG - SỐ 169 - THÁNG 11/2020
hỉ trong 2 năm trở lại đây, Việt Nam đã có
những bước tiến mạnh mẽ về phát triển năng
lượng tái tạo (NLTT). Báo cáo tại Quốc hội hồi tháng
6/2020, Bộ trưởng Bộ Công Thương cho biết, đến nay,
tổng công suất điện mặt trời được quy hoạch khoảng
10.300 MW trong đó đưa vào vận hành hơn 90 dự án
với tổng công suất khoảng 5.000 MW, chiếm gần 8,5%
công suất lắp đặt của hệ thống điện. Với kỉ lục về công
suất điện mặt trời mới đưa vào vận hành, Việt Nam trở
thành một trong những thị trường NLTT sôi động và
hấp dẫn nhất khu vực Đông Nam Á.
Mặc dù tiềm năng phát triển NLTT tại Việt Nam là rất
lớn, tuy nhiên thời gian vừa qua, sự phát triển nhanh
chóng, rầm rộ này đã để lại nhiều hệ lụy cho nhà đầu
tư và cả môi trường. Trước nhiều tiềm năng cần được
đánh giá cụ thể để đưa ra giải pháp phát triển bền vững,
Tạp chí Kinh tế Môi trường chọn chuyên đề “Chuyển
dịch năng lượng sạch, cơ hội và thách thức cho Việt
Nam” trong Tạp chí số 169 – Tháng 11/2020.
Thời gian qua, Chính phủ và Bộ Công Thương có điều
chỉnh cần thiết, cụ thể đẩy mạnh dạng năng lượng
sạch như năng lượng mặt trời, gió với nhiều cơ chế
chính sách khuyến khích phát triển tiềm năng này.
Theo Nghị quyết 55 ban hành tháng 2/2020 của Bộ
Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng
lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2045, xác định Việt Nam sẽ khuyến khích và
tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh
tế, đặc biệt là khu vực tư nhân, tham gia phát triển
năng lượng; Loại bỏ tất cả các khoản trợ cấp, độc
quyền, cạnh tranh không lành mạnh và thiếu minh
bạch trong lĩnh vực năng lượng.
Các chính sách năng lượng và khí hậu lớn gần đây của
Việt Nam thể hiện sự quyết tâm của nước ta trong nỗ
lực tìm kiếm giải pháp xanh. Tuy nhiên, việc hiện thực
hóa sẽ đòi hỏi phải xây dựng các biện pháp để thúc đẩy
việc tích hợp hệ thống điện tái tạo, kết hợp học hỏi kinh
nghiệm xu hướng công nghệ trong lĩnh vực năng
lượng sạch trên thế giới để ứng dụng tại Việt Nam.
BAN BIÊN TẬP
LỜI TÒA SOẠN
NHI�U L�I TH� C�A NĂNG L��NG TÁI T�O
Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế,
chính sách nhằm khuyến khích phát triển nguồn
năng lượng tái tạo (NLTT). Bộ Công Thương cũng có
Quyết định 2023/QĐ- BCT ngày 5/7/2019 phê duyệt
Chương trình phát triển điện mặt trời mái nhà tại Việt
Nam giai đoạn 2019-2025 và nhiều thông tư hướng
dẫn cùng các chương trình kế hoạch triển khai thực
hiện. Với cơ chế thông thoáng cùng sự vào cuộc tích
cực của Bộ Công Thương, địa phương, các doanh
nghiệp và sự hỗ trợ tích cực của ngành điện, chỉ trong
vài năm trở lại đây, điện NLTT đã có bước phát triển
vượt bậc, đạt trên 5.500 MW. Riêng với điện mặt trời,
đã có 5.000 MW đi vào vận hành; trong đó, các dự án
quy mô nối lưới đạt khoảng 4.500 MW, điện mặt trời
mái nhà đạt trên 31.570 dự án với tổng công suất
657,88 MWp. NLTT đã đóng góp mỗi tháng trên 3 tỉ
kWh, chiếm khoảng 10% công suất và 6% sản lượng
thương phẩm cả nước.
Theo dự báo của Bộ Công Thương, nhu cầu điện cho
phát triển kinh tế từ năm 2021 trở đi vẫn tăng trưởng
ở mức cao từ 8-10%/năm. Trong khi đó, nguồn năng
lượng sơ cấp trong nước đã tới hạn, dẫn đến phụ
thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu than và khí, sắp tới
là khí hóa lỏng. Bên cạnh đó, tác động của biến đổi
khí hậu dẫn đến khô hạn, hồ thủy điện thiếu nước để
sản xuất; một số dự án nhiệt điện theo Quy hoạch
điện VII điều chỉnh bị chậm tiến độ gây áp lực rất lớn
đảm bảo nguồn cung điện.
Trong bối cảnh đó, việc phát triển nguồn NLTT, nhất
là điện gió và điện mặt trời nối lưới, mái nhà được
xem là xu hướng tất yếu, là một trong những giải
pháp quan trọng góp phần khai thác triệt để nguồn
tài nguyên thiên nhiên tái tạo để phát điện phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc phát
triển nguồn NLTT, vừa bảo vệ môi trường, ứng phó
với biến đổi khí hậu, vừa tận dụng được nguồn đất
hoang hóa không thể canh tác nông nghiệp đối với
dự án nối lưới; tận dụng được hàng chục triệu mái
nhà của hộ dân, cơ quan, công sở, khu – cụm công
nghiệp để lắp đặt điện áp mái; bổ sung kịp thời các
nguồn điện đang chậm tiến độ; gia tăng lợi ích kinh
Chuyển dịch năng lượng tái tạo
Cơ hội và thách thức cho Việt Nam
Được đánh giá là một nguồn năng lượng thay thế cho nguồn năng lượng hóa thạch, nhiều chuyên gia nhận định, năng lượng tái tạo là giải
pháp tối ưu cho sự khủng hoảng biến đổi khí hậu và Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển
QUANG HUY – DOÃN KIÊN
tế cho địa phương, doanh nghiệp và
tạo việc làm cho người lao động; giúp
hình thành ngành công nghiệp năng
lượng tái tạo của đất nước; góp phần
thực hiện thắng lợi các mục tiêu Nghị
quyết 55 của Bộ Chính trị về định
hướng Chiến lược phát triển năng
lượng quốc gia của Việt Nam đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
NăNG LƯợNG TÁI TẠO
- HƯớNG ĐI MớI
Chia sẻ thông tin tại hội thảo Biến đổi
khí hậu và năng lượng được tổ chức
tại Hải Phòng tháng 10/2020, PGS.TS
Đặng Đình Thống - Chuyên gia cao
cấp NLTT, Hiệp hội Năng lượng sạch
Việt Nam cho rằng: Có thể khẳng định
biến đổi khí hậu (BĐKH) đang trở nên
ngày càng nghiêm trọng, đe dọa sự
sống toàn cầu, trong đó Việt Nam là
một trong số ít quốc gia chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất. Một trong các
nguyên nhân dẫn tới BĐKH là con
người sử dụng quá nhiều năng lượng
hóa thạch, gây ra phát thải nhà kính
quá mức. Để giải quyết vấn đề nhu
cầu năng lượng và ứng phó với BĐKH
thì không còn cách gì tốt hơn phải
phát triển NLTT - nguồn năng lượng
sạch và có trữ lượng gần như vô tận
như điện gió, điện mặt trời, khí hóa
lỏng (KHL).
Trong cuộc Tọa đàm Góp ý cơ chế,
chính sách phát triển năng lượng tái
tạo nhằm lấy ý kiến các chuyên gia,
nhà quản lý, cộng đồng các nhà đầu
tư về cơ chế, chính sách phát triển
năng lượng tái tạo ngày 29/10, TS. Cấn
Văn Lực, chuyên gia kinh tế cho rằng,
xu hướng phát triển NLTT trên thế giới
tiếp tục diễn ra khá mạnh mẽ trong
những năm gần đây và tỉ trọng NLTT
đang ngày càng chiếm vị trí quan
trọng trong tổng sản lượng điện sản
xuất trên toàn cầu, hiện đang chiếm
khoảng 10%. Tuy nhiên, đáng chú ý, tỉ
trọng NLTT sản xuất bằng thủy điện
(nhỏ) tiếp tục là nguồn NLTT chiếm tỉ
trọng cao nhất (50%).
“Hiện tượng chạy dự án xuất hiện
gần đây cũng gây khó khăn cho các
cơ quan quản lý. Gần đây chúng tôi
có nghe phản ánh một số dự án có
hiện tượng lách luật. Chẳng hạn, thời
hạn giá điện chốt hết năm nay, một
số doanh nghiệp bố trí dự án, chạy
dự án cấp phép trước thời điểm hiện
hạn. Hay theo quy định Dự án 1.000
MW do địa phương quyết định nên
một số doanh nghiệp chia nhỏ dự án
để đơn giản hoá khâu cấp phép” –
TS. Lực cảnh báo.
Bởi thế, theo TS. Lực, đề xuất quy
hoạch điện VIII cần được thông qua,
ban hành sớm. Để giải bài toán vốn
cho các dự án NLTT cần đa dạng hoá
nguồn vốn phát triển NLTT bằng cách
tranh thủ nguồn vốn xã hội hoá vào
lĩnh vực NLTT, trong đó đặc biệt xem
xét thúc đẩy tốc độ hoàn thiện hạ tầng
truyền tải điện đồng bộ với quy hoạch
phát triển các dự án NLTT.
Cũng trong buổi tọa đàm, ông
Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng ban
Kinh tế Trung ương cho rằng, cần biến
các thí điểm thành cơ chế, chính sách
để khuyến khích tư nhân tham gia
truyền tải điện gắn với NLTT. Tiếp đến
là tăng trách nhiệm của các địa
phương cũng như tăng tính cạnh
tranh. Ngoài ra, muốn phát triển điện
gió, điện mặt trời cũng cần đặt thêm
các ưu tiên thay vì chỉ về giá, như thời
gian, chính sách thuế, tín dụng hiện
chưa được đề cập. Ưu đãi cũng phải
PHÁT TRIểN NLTT LÀ XU HƯớNG KHÁCH QUAN
Ông Bùi Quang Tuấn - Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam phát biểu tại Diễn đàn
“Phát triển năng lượng sạch: Xu thế và thách thức” tổ chức ngày 18/6, trước những
xu hướng về thực hiện tăng trưởng xanh, đảm bảo yêu cầu về môi trường, chất lượng
cuộc sống, một số quốc gia đi đầu về phát triển năng lượng tái tạo như Thụy Điển,
Đan Mạch, Scotland, Đức. Hay, Trung Quốc cũng đặt mục tiêu năm 2030 đạt 30%
cơ cấu năng lượng tái tạo. Đối với Việt Nam đang phấn đấu cơ cấu NLTT đến năm
2030 đạt 20%, đây là bước tiến lớn trong quy hoạch điện VII. “Hiện nay đang có
cuộc đua sử dụng năng lượng tái tạo, đây là xu hướng khách quan, có sức ép cho
các nước đi sau đặc biệt là các nước đang phát triển đang đối mặt với thực hiện
tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính”, ông Bùi Quang
Tuấn nhìn nhận.
Vi�t Nam đ��c nh�n đ�nh l� m�t trong nh�ng qu�c gia c� nhi�u thu�n l�i
đ� ph�t tri�n ngu�n n�ng l��ng t�i t�o. (�nh: B�o Ch�nh ph�)
VẤn đề sự kiện
là công suất lớn, vận hành hiệu quả.
Một trong những vấn đề quan trọng
nữa là Hợp đồng mua bán điện hiện
chưa theo chuẩn mực quốc tế khiến
ngân hàng khó thẩm định. Cần
nghiên cứu chính sách về giá dài
hạn, lường định được, tiệm cận quốc
tế như thế nào? Khuyến khích nhà
đầu tư có năng lực, không làm
phong trào, để tránh xảy ra tình trạng
xếp hàng đợi ưu đãi. Ngoài ra, hệ
thống tiêu chí nhà đầu tư rất quan
trọng, ngoài chính sách là ưu đãi cho
doanh nghiệp có năng lực như về
vốn, các công cụ về kinh tế, về năng
lực hỗ trợ, không phải là xin cho mà
tư duy “cho người chiến thắng”.
TIềM NăNG CầN ĐÁNH THứC
Quy hoạch phát triển điện lực quốc
gia giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn
năm 2030, tính toán tổng công suất
phát triển điện mặt trời đến năm
2025 khoảng trên 14.000 MW và năm
2030 khoảng trên 20.000 MW. Hiện,
Việt Nam đã có 82 dự án điện mặt
trời với tổng công suất trên 4.400
MW đã hòa vào lưới điện quốc gia,
chiếm khoảng 8,28% tổng sản lượng
điện cả nước.
Ngoài ra, còn có khoảng 13 dự án
đang được hoàn thành với tổng công
suất 630 MW, dự kiến sẽ được đưa vào
hoạt động trong thời gian tới. Chiến
lược của Đảng và Nhà nước là khai
thác năng lượng sạch nhằm bảo vệ
môi trường, bảo vệ tài nguyên quốc
gia và vừa chống lãng phí NLTT, năng
lượng hóa thạch.
PGS.TS Đặng Đình Thống - Chuyên
gia cao cấp NLTT, Hiệp hội Năng
lượng sạch Việt Nam cho rằng, đặc
thù của NLTT là sự phụ thuộc rất
nhiều vào điều kiện tự nhiên (nước,
nắng, gió, vị trí địa lý), công nghệ
và giá thành sản xuất. Do đó, để thúc
đẩy phát triển NLTT, Nhà nước cần có
thêm các chính sách hỗ trợ như cơ
chế hạn ngạch, cơ chế giá ổn định,
cơ chế đấu thầu và cơ chế cấp chứng
chỉ. Với mục tiêu chung là phát triển
nguồn NLTT cho sản xuất điện, tăng
tỉ lệ điện năng sản xuất từ nguồn
NLTT đạt khoảng 7% năm 2020, trên
10% năm 2030.
“Thứ nhất cần đẩy mạnh tuyên truyền,
phổ biến kiến thức đến mọi người dân
về tầm quan trọng, hiệu quả kinh tế -
xã hội và bảo vệ môi trường của việc
phát triển và sử dụng NLTT trong quá
trình phát triển bền vững, từ đó có
những hành động thiết thực đóng góp
cho việc phát triển và sử dụng nguồn
PHÁT TRIểN NLTT GÓP PHầN GIảM PHÁT THảI KHÍ NHÀ KÍNH
TS. Nguyễn Mạnh Hiến, Chủ tịch Hội đồng khoa học, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam:
Việt Nam là đất nước sẽ chịu tác động khá trầm trọng của biến đổi khí hậu, lại có tiềm
năng nguồn NLTT (thủy điện nhỏ, gió, mặt trời, sinh khối, địa nhiệt) phong phú, trong khi
các nguồn năng lượng sơ cấp trong nước như thủy điện vừa và lớn, than, dầu khí đều
ngày càng cạn kiệt và đang biến từ một nước xuất khẩu năng lượng tịnh thành nước nhập
khẩu tịnh thì việc tăng cường phát triển các nguồn NLTT có ý nghĩa hết sức to lớn trong
việc giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Việc sử dụng NLTT vừa góp phần giảm phát thải
khí nhà kính trong mục tiêu toàn cầu vừa đảm bảo an ninh năng lượng phục vụ cho công
cuộc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Cần thiết phải xây dựng Luật NLTT. Chính phủ xây dựng và
ban hành Chiến lược và Chính sách NLTT quốc gia, tạo cơ sở
và các điều kiện pháp lý để thống nhất chỉ đạo cũng như tạo
ra sự phối hợp có trách nhiệm giữa Trung ương và địa
phương, giữa các bộ, ban, ngành về phát triển NLTT.
PGS.TS Đ�ng Đ�nh Th�ng – Chuy�n gia cao c�p NLTT
Hi�p h�i N�ng l��ng s�ch Vi�t Nam.
NLTT. Cần thiết phải xây dựng luật NLTT. Chính phủ xây dựng
và ban hành Chiến lược và Chính sách NLTT quốc gia, tạo
cơ sở và các điều kiện pháp lý để thống nhất chỉ đạo cũng
như tạo ra sự phối hợp có trách nhiệm giữa Trung ương và
địa phương, giữa các bộ, ban, ngành về phát triển NLTT.
Bên cạnh đó, thành lập Quỹ phát triển năng lượng bền
vững sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn
thu từ phí môi trường đối với nhiên liệu hóa thạch, các
nguồn tài trợ, đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong,
ngoài nước và các nguồn vốn hợp pháp khác nhằm hỗ
trợ tài chính cho hoạt động khuyến khích phát triển NLTT
trên phạm vi toàn quốc. Đồng thời, khuyến khích các
doanh nghiệp tham gia thị trường NLTT. Ngoài ra cần đẩy
mạnh công tác nghiên cứu và hợp tác quốc tế”,
PGS.TS Đặng Đình Thống nhấn mạnh.
Phát biểu tại Diễn đàn “Phát triển năng lượng sạch: Xu thế
và thách thức” tổ chức ngày 18/6 vừa qua tại Hà Nội, Thứ
trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng nêu cụ thể,
hiện ngành năng lượng Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ, cơ
bản đáp ứng nhu cầu cho năng lượng sản xuất kinh doanh,
đời sống, đóng góp an ninh quốc phòng. Nhu cầu năng
lượng sơ cấp trong 10 năm qua, năm 2007-2017, tăng
trưởng 14,6%, riêng sản lượng điện thương phẩm tăng
trưởng bình quân 9,5%. Dự báo trong giai đoạn 5 năm tới,
nhu cầu điện năng vẫn tăng trưởng 8,5-9,5%. Với nhu cầu
điện thương phẩm như trên, dự kiến công suất điện 13.000-
14.000 MW. Đến nay, mới có 6.000 MW/năm. Từ nay năm
2030, mỗi năm cần công suất 5.000 -7.000 MW/năm.
“Đây là nhiệm vụ thách thức đặc biệt trong bối cảnh Quy
hoạch điện VII được điều chỉnh. Mặc dù Quy hoạch này
được điều chỉnh từ năm 2016 nhưng trước nhu cầu bảo vệ
môi trường, đã phải trì hoãn, hoặc không được xây dựng
hoặc chậm tiến độ, trong bối cảnh đó, đáp ứng nhu cầu
năng lượng, thời gian qua, Chính phủ và Bộ Công Thương
có điều chỉnh cần thiết, cụ thể đẩy mạnh nhanh hơn dạng
năng lượng sạch như năng lượng mặt trời, gió. Với sự tham
mưu của Bộ Công Thương, thời gian qua, Chính phủ đã ban
hành rất nhiều cơ chế chính sách thúc đẩy mạnh hơn năng
lượng sạch như năng lượng mặt trời, gió- có rất nhiều tiềm
năng”, Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng khẳng định. q
VẤn đề sự kiện
(�nh minh h�a: Internet)
Dồn dập đầu tư vào các dự án điện mặt trời, điện gió đã khiến nhiều chủ đầu tư nhanh chóng ngậm “trái đắng”, đồng thời khiến cho lưới
điện khu vực bị quá tải một cách nghiêm trọng. Thế nhưng, những vấn đề về tác động môi trường lại chưa có giải pháp cụ thể.
M�T TH�I “CH�Y NHANH, PHANH G�P”
Chỉ trong 2 năm trở lại đây, Việt Nam
đã có những bước tiến mạnh mẽ về
phát triển năng lượng tái tạo (NLTT).
Đặc biệt, với kỉ lục về công suất điện
mặt trời mới đưa vào vận hành, Việt
Nam trở thành một trong những thị
trường NLTT sôi động và hấp dẫn nhất
khu vực Đông Nam Á. Tính đến nay,
nguồn điện mặt trời đã chiếm khoảng
10% công suất lắp đặt của hệ thống
điện Việt Nam.
Về hiện trạng phát triển NLTT, ông Đỗ
Đức Quân, Phó Cục trưởng Cục Điện
lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công
Thương cho biết, tính đến hết tháng
9/2020 tổng công suất lắp đặt điện gió
đạt 485 MW, điện mặt trời đạt 5.829
MW, điện sinh khối đạt 169 MW chiếm
khoảng 11,2% tổng công suất lắp đặt
toàn quốc. Về sản lượng, tính đến hết
tháng 9/2020, điện sản xuất từ điện gió
đạt 630 triệu kWh, điện mặt trời đạt
7.274 triệu kWh, điện sinh khối đạt 303
triệu kWh chiếm khoảng 4,4% tổng
sản lượng điện sản xuất toàn quốc.
Có thể nói, những chính sách khuyến
khích của Chính phủ về cơ chế giá đã
đưa điện mặt trời, điện gió ở Việt Nam
sang một trang mới, thu hút hàng trăm
nghìn tỉ đồng của các nhà đầu tư tư
nhân vào lĩnh vực vốn rất “kén” nhà
đầu tư.
Sự tăng trưởng thần tốc nói trên là nhờ
cơ chế giá ưu đãi rất hấp dẫn quy định
tại Quyết định 11/2017/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ về cơ chế khuyến
khích điện mặt trời ngày 11/4/2017, có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/6/2017
đến ngày 30/6/2019.
Số liệu từ Bộ Công Thương cho biết,
năm 2018, chỉ có 3 nhà máy đóng điện
thành công, tuy nhiên con số này tăng
lên gần 30 lần sau 6 tháng, tập trung
rầm rộ vào tháng 4 và tháng 6/2019, với
công suất lắp đặt xấp xỉ 4.500 MW.
Riêng tháng 6/2019, tháng cuối cùng
trước khi Quyết định 11 hết hiệu lực, có
thêm 49 dự án được vận hành.
Các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ để
được hưởng giá ưu đãi lên đến 2.100
đồng/kWh trong vòng 20 năm. Nếu so
với giá mua điện từ các nguồn điện
như thủy điện (1.000 đồng/kWh), nhiệt
điện (1.500 đồng/ kWh), đó là mức giá
rất cao, chỉ xếp sau điện khí và điện
chạy dầu.
Giai đoạn bùng nổ đi qua, sự trầm lắng
trở lại trên các công trường dự án điện
mặt trời lỡ hẹn với mốc 30/6/2019. Thị
trường điện mặt trời đã có sự chững lại
đáng kể do chưa có giá mua điện mặt
trời mới sau ngày 1/7/2019 và tồn tại "độ
vênh" giữa quy hoạch nguồn và lưới
điện truyền tải, nhiều dự án buộc phải
giảm công suất để bảo đảm an toàn
trong vận hành hệ thống điện. Nhiều
dự án đang xây dựng dở dang khiến
các nhà đầu tư như “ngồi trên đống
lửa” do vốn vay lên tới 60-70% mức đầu
tư nhưng “lên được lưới hay không thì
phải chờ”.
Sau khi giá ưu đãi cho điện mặt trời hết
thời hạn, cao trào điện gió xuất hiện.
Tương tự như điện mặt trời, chỉ sau một
thời gian rất ngắn, hàng trăm nhà đầu
“Dồn dập” đầu tư năng lượng tái tạo
bỏ ngỏ hệ lụy môi trường
VƯƠNG LIỄU
tư đã đổ xô vào đầu tư nguồn điện này.
Mức giá ưu đãi lên tới gần 2.000
đồng/kWh quy định tại quyết định
39/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ là lực hút doanh nghiệp vào đầu tư.
Tính đến tháng 7/2020 cả nước mới chỉ
có 2.688,68 MW điện gió đã ký hợp
đồng mua bán điện (11.800 MW đã
được phê duyệt bổ sung quy hoạch),
ngoài số đã hòa lưới và một số đã triển
khai thi công, phần lớn đang trong giai
đoạn chuẩn bị đầu tư, dự kiến cuối năm
2021 mới hoàn thành. Tuy nhiên, do ảnh
hưởng của dịch Covid-19, nên sẽ có
nhiều dự án điện gió bị chậm tiến độ.
Như vậy, mặc dù đến hết tháng 10/2021
cơ chế giá ưu đãi đối với dự án điện gió
mới chấm dứt, song từ bây giờ nhiều
nhà đầu tư đã nhìn thấy mối nguy cơ
hiện hữu...
Hệ LụY PHÍA SAU “CơN SỐT”
Mặc dù tiềm năng phát triển NLTT tại
Việt Nam là rất lớn, tuy nhiên nhìn lại
thời gian vừa qua, sự phát triển nhanh
chóng, rầm rộ này đã để lại nhiều hệ lụy
cho nhà đầu tư và cả môi trường.
Là một trong những doanh nghiệp chịu
thiệt hại từ “khoảng trống” của cơ chế
giá, ông Lê Văn Hoàng, Giám đốc Công
ty Cổ phần Đầu tư Thương mại và Du
lịch Hoàng Sơn, chủ đầu tư dự án điện
mặt trời ở Thanh Hóa chia sẻ với báo
chí, đã nhiều ngày ăn ngủ không yên,
dự án đứng trước nguy cơ phá sản, do
không kịp vận hành thương mại để
hưởng giá ưu đãi 2.100 đồng/số. Trong
khi đó, từ sau 30/6/2019 đến nay, cơ chế
giá điện mặt trời vẫn đang được ban
hành. Với dự án năng lượng, lãi vay
thường chiếm 60-70% vốn đầu tư, lãi
suất phổ biến 10-11% một năm như
h