Hàn nổ xét theo kiểu năng lượng đưa vào
có liên quan đến nhóm quá trình cơ học liên
kết các kim loại. Khi đó năng lượng hóa học
chuyển hóa của lượng thuốc nổ ở dạng sản
phẩm khí nổ được chuyển thành năng lượng
cơ, làm cho một phần của vùng hàn trong
các tấm kim loại dịch chuyển với vận tốc rấ
lớn. Động năng va đập của phần chuyển
động với bề mặt của phần cố định, được
dùng làm công biến dạng mềm hỗn hợp của
các lớp tiếp xúc của các kim loại (2 kim loạ
cần hàn), dẫn đến việc hình thành lien kế
hàn hay mối hàn
9 trang |
Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 501 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ khí chế tạo máy - Hàn nổ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hàn nổ Hải Ninh
A – Bản chất của quá trình hàn nổ
Hàn nổ xét theo kiểu năng lượng đưa vào,
có liên quan đến nhóm quá trình cơ học liên
kết các kim loại. Khi đó năng lượng hóa học
chuyển hóa của lượng thuốc nổ ở dạng sản
phẩm khí nổ được chuyển thành năng lượng
cơ, làm cho một phần của vùng hàn trong
các tấm kim loại dịch chuyển với vận tốc rất
lớn. Động năng va đập của phần chuyển
động với bề mặt của phần cố định, được
dùng làm công biến dạng mềm hỗn hợp của
các lớp tiếp xúc của các kim loại (2 kim loại
cần hàn), dẫn đến việc hình thành lien kết
hàn hay mối hàn.
Công biến dạng mềm chuyển thành nhiệt,
nhiệt này do hậu quả tính đoạn nhiệt của quá
trình, do vận tốc lớn có thể đốt nóng kim
loại ở vùng liên kết cho đến khi đạt nhiệt độ
khá cao (cho đến khi tạo những vùng nóng
chảy cục bộ).
Sơ đồ nguyên lý hàn nổ có 2 dạng: dạng
song song và dạng không song song (tạo
góc).
Sơ đồ song song được trình bày sơ bộ trên
hình
Hàn nổ
Hải Ninh
MES Materials & Mechanical Engineering
Forum, Hanoi, Vietnam
Với việc kích nổ thuốc, sẽ xuất hiện một mặt
trước (mặt tiền) của sóng dẫn nổ và nó lan
truyền với vận tốc D, phù hợp với việc chọn
thuốc nổ, tính chất, khối lượng, trạng thái,
sẽ trong khoảng 2000-8000 m/s. Ở mặt sau
(mặt hậu) tạo thành những sản phẩm nổ
dạng khí trong khoảng thời gian rất ngắn
theo quán tính chúng sẽ bảo toàn thể tích
trước kia của thuốc nổ nằm trên đó dưới áp
suất 100-200 nghìn at, sau đó với vận tốc
0,5-0,7D chúng sẽ mở rộng ra theo hướng
vuông góc với những mặt phẳng tự do của
khối thuốc nổ. Việc này tạo ra vùng kim loại
ở dưới xung lượng nào đó, xung lượng này
sẽ cuốn lần lượt từng khoảng thể tích kim
loại thứ nhất vào sự chuyển động hướng tới
bề mặt của tấm kim loại cố định và va đập
với nó với vận tốc -(vận tốc va đập).
Trong quá trình này, tấm kim loại thứ nhất
(tạm gọi là kim loại “bay”) sẽ bị bẻ cong hai
lần. Phần nghiêng của nó chuyển động với
vận tốc V -(vận tốc tiếp điểm), chuyển động
ngay sau “mặt tiền” của song dẫn nổ, còn
phần phía trước nữa của sóng dẫn nổ chưa
kịp nổ thì dưới quán tính sẽ tiếp tục chiếm
trạng thái của trạng thái ban đầu.
vV
t
Hình 2- Sơ đồ cơ chế diễn biến hàn nổ ở thời
điểm bất kỳ trong quá trình hàn
1-Mặt tiền của song dẫn nổ, 2-mặt tản của sản
phẩm nổ, 3-mặt sóng loãng.
Sự va đập với vận tốc lớn của kim loại
“bay” (KLB) và kim loại cố định (KLCD)
phát triển ra trong phạm vi của đỉnh chuyển
động với góc gama (γ), các mặt phẳng KL
gặp nhau với áp lực kb. Sự nén của
nổ khắp các hướng tạo thuận lợi cho xu
hướng mềm hóa ở khu vực tiếp xúc theo
hướng hàn nhờ có sự hiện diện của mặt
phẳng tự do phía trước góc gama và thành
phần vận tốc , điều này bắt buộc những
lớp bề mặt của cả 2 kim loại đồng thời biến
210 10− 3
vV
Hình 1- sơ đồ bố trí hàn hổ dạng song song
1-khối thuốc nổ, 2- tấm đệm lót, 3- tấm kim loại dịch
chuyển (tấm kim loại thứ nhất), 4-dụng cụ cố định
khe hở giữa 2 tấm kim loại, 5-tấm kim loại cố định
(tấm thứ 2), 6- tấm ván, 7-nền đất, 8- ngòi nổ điện
(kích nổ bằng điện). Copyright 2007 MES Lab. – Be Pro!
Hàn nổ Hải Ninh
Copyright 2007 MES Lab. – Be Pro!
tdạng theo cùng hướng vận tốc V . Kết quả
dẫn đến sự kết dính hai bề mặt các kim loại
và nhận được mối hàn.
Cũng dưới cơ chế này thì các màng oxi hóa
và những tạp chất bẩn trên bề mặt kim loại
cũng bị đập vỡ, phân tán và rơi ra khỏi đỉnh
góc gama dưới sự tác động của hiệu ứng dồn
(hiệu ứng chồng chất).
Tham số động lực của quá trình hàn nổ
chính là vận tốc va đập của các mặt tiếp
xúc, vận tốc chuyển động của đỉnh góc
gama (vận tốc tiếp điểm), động năng va
đập của các phần tiếp xúc W.
vV
tV
Vận tốc va đập phụ thuộc vào vận tốc
dẫn nổ D, mật độ
vV
cnρ của khối thuốc nổ, độ
cao H của khối thuốc nổ, độ dày b và mật
độ hay độ chặt
1
1ρ của KLB, đồng thời nó
cũng phụ thuộc vào khoảng cách h giữa hai
bề mặt kim loại. Có hai cách xác định V đó
là bằng thực nghiệm và bằng tính toán.
Phương pháp thứ nhất dựa vào sự chụp ảnh
ở từng thời điểm xảy ra của quá trình hàn nổ
trong khoang chân không với sự trợ giúp của
dụng cụ chuyên dụng ghi ảnh hoặc máy
xung lượng rơnghen.
v
v
Công thức tính toán chính xác hoàn toàn
của V đến giờ vẫn chưa thể thực thi được, lí
do vì sự phức tạp của sơ đồ tính toán và số
lượng lớn các đại lượng thay đổi (biến số)
xác định quá trình va đập các vật thể kim
loại khi hàn. Từ đó có thể vận dụng công
thức gần đúng được giới thiệu sau:
11,2. (1 ) 1
2v
V D η
⎛ ⎞−Θ= −Θ −⎜ ⎟Θ⎝ ⎠
Trong đó:
2
21 2 (1 2 )
1 (1 2 )
h h
H H
h
H
η η
η
− + +
Θ =
− +
1 1
16
27
cnH
b
ρη ρ=
Biến dạng mềm của kim loại theo cơ chế
biến vị (lệch), khả năng xảy ra với vận
tốc nhỏ hơn vận tốc truyền của sóng
mềm nén C . Bởi vậy để tạo ra liên kết
vật lý trong vùng hàn và hiện thực hóa
cơ chế tạo thành những trung tâm kích
hoạt, V phải nhỏ hơn , trong trường
hợp ngược lại, kim loại không kịp biến
dạng và không xảy ra quá trình hàn. Đối
với một loạt liên kết các kim loại (thép-
titan, nhôm-thép) thỏa mãn điều kiện
< là cần nhưng chưa đủ. Độ bền các
liên kết của chúng tiếp tục tăng cùng với
việc giảm và vào miền “tiền âm
thanh”.
0
t 0C
tV 0C
tV
B – Các tham số của hàn nổ.
1. Tham số công nghệ: gồm có khối
lượng và kích thước hình học của
các phần tử hàn; dạng, khối lượng và
kích thước hình học của khối thuốc
nổ; kích thước xác định liên hệ giữa
các phần tử (ví dụ khoảng cách giữa
2 tấm kim loại; mật độ hay độ chặt
của các kim loại và thuốc nổ; góc α
xác định vị trí đặt ban đầu của các
kim loại (với sơ đồ song song thì
α=0 ).
2. Tham số động lực: gồm có các vận
tốc, vận tốc tiếp điểm (tiếp xúc) ,
vận tốc va đập , góc γ và áp lực P
tại vị trí đỉnh của góc.
tV
vV
3. Tham số năng lượng: theo động lực
học, tính chất quá trình hàn nổ được
xem xét là quá trình của hiện tượng
hóa-lý. Năng lượng chính là yếu tố
ảnh hưởng lên quá trình này hay quá
trình hình thành mối hàn. Lưu ý là
quá trình hàn nổ phụ thuộc rất lớn
vào vấn đề phân bố năng lượng trong
việc chuyển hóa nó từ nguồn đến vị
trí mối hàn. Để tạo ra liên kết chắc
chắn bằng hàn nổ thì tại miền xảy ra
va đập phải xác định một mức độ
biến dạng mềm nào đó, để sao cho
trong khoảng thời gian rất ngắn
(được xác định bằng vận tốc hàn),
làm đứt phần bị nén của các liên kết
hóa học trên cả hai bề mặt hai kim
loại và thay thế chúng bằng các liên
Hàn nổ Hải Ninh
Copyright 2007 MES Lab. – Be Pro!
3
v
t
nn
bd
kết mới. Năng lượng yêu cầu kích
hoạt quá trình này khi hàn nổ chỉ có
thể mở rộng được nhờ kết quả của
biến dạng mềm của kim loại, độ biến
dạng này qui định bởi năng lượng
chi dùng cho phần động năng va đập
các thành phần hàn.
1 2W W W W= + +
Các thành phần năng lượng lần lượt là:
W: động năng riêng va đập của các
thành phần hàn,
1W : động năng riêng của hệ gồm các
thành phần hàn,
2W : động năng riêng để làm biến dạng
mềm các lớp bề mặt tại vị trí tiếp xúc,
3W : năng lượng riêng lấy ra từ hệ hàn
dưới tác động của hiệu ứng chồng chất.
4. Tham số vật lý: các tham số này một
mặt điều khiển động học và tính chất
mối hàn nhận được, mặt khác lại phụ
thuộc vào các nhóm tham số trước và
tính chất lý-hóa của kim loại. Nhóm
các tham số vật lý có thể kể đến: t -
thời gian tạo thành mối hàn trong
miền va đập, P- áp lực tác dụng lên
miền va đập, T -nhiệt độ các lớp tiếp
xúc nhau của hai kim loại, ε- bậc
biến dạng mềm của các lớp tiếp xúc
nhau tại miền va đập, - chỉ số độ
nhám các mặt tiếp xúc, σ -trở
kháng lại sự biến dạng dưới sự tiếp
xúc và va đập trên.
C – Những khuyết tật của vật liệu và
mối hàn
Mối hàn nhận được từ hàn nổ phải ổn
định chất lượng trên toàn bộ bề mặt đặc biệt
là đối với các sản phẩm có kích thước lớn là
một bài toán đủ khó về công nghệ. Điều này
cắt nghĩa rằng một mặt hàn nổ cho phép
nhận được mối hàn dùng cho rất nhiều chi
tiết ứng dụng rộng rãi nhiều lĩnh vực và mục
đích sử dụng khác nhau, nhưng mặt khác thì
cũng tồn tại rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến
cấu trúc và tính chất mối hàn các kim loại
không đồng nhất (các kim loại khác nhau).
Kinh nghiệm hàn nổ và sự phân tích
trong những tài liệu đã được xuất bản và lưu
hành chỉ ra rằng chất lượng của mối hàn
bằng phương pháp nổ được đánh giá theo
các tiêu chuẩn: tính đặc của mối hàn, độ bền
của mối hàn, cấu trúc vùng hàn, độ biến
dạng của chi tiết, sự có mặt của các khuyết
tật.
Độ đặc hay tính đặc của mối hàn được
đánh giá bằng tỉ lệ diện tích mối hàn chất
lượng trên toàn bộ diện tích sản phẩm. Nó
được kiểm tra bằng phép dò khuyết tật siêu
âm.
Độ bền mối hàn xác định bằng cách thử
nghiệm cắt hoặc đứt lớp hàn (lớp hàn qui
ước là lớp kim loại “bay” hay còn gọi là lớp
“mạ”. Kim loại cố định cũng có thể coi là
kim loại được mạ)
Cấu trúc miền hàn có tính chất xác định
bằng:
- các tham số liên kết dạng sóng;
- sự có mặt của: hợp kim, chất tơi xốp, lỗ rỗ,
vi rạn nứt, các phi kim;
- độ cứng tế vi;
- tổ chức tế vi phụ.
Cấu trúc được kiểm soát bằng nghiên cứu
kim tương học, phương pháp phân tích rơn-
ghen hoặc quang phổ, phương pháp dò
khuyết tật từ trường
Độ biến dạng của sản phẩm xác định bằng
độ cong và độ nới dài.
Khuyết tật của sản phẩm hàn ( mạ, bimetal,
composite lớp) đó là: những vết rạn, lỗ rò-
rỗ, sứt mẻ và phá hủy.
Chất lượng mối hàn đuợc xác định bằng sơ
đồ hàn bao gồm: các tham số truyền năng
lượng hàn, tính chất các kim loại thành phần,
công tác chuẩn bị bề mặt để hàn, dạng bệ đỡ
và các yếu tố môi trường ngoài khi tiến hành
ở bãi rộng (độ ẩm, gió bui, lượng mưa ).
Phân loại khuyết tật hàn, về cơ bản đối với
sản phẩm cỡ lớn, phân chia ra 5 nhóm, mỗi
Hàn nổ Hải Ninh
nhóm lại chia ra các nhóm nhỏ tùy theo sự
phân bố khuyết tật và nguyên nhân xuất hiện.
1- Hàn không thấu (khuyết tật về tính
đặc).
a- đơn giản là ở các rìa, mép
b- liên hệ với sự vỡ ở chế độ hàn
2- Khuyết tật của miền hàn
a- dạng cây thông
b- vỡ trễ
c- những phần nóng chảy
3- Khuyết tật của chi tiết
a- cong
b- giãn
c- ở rìa.
4- Hỏng lớp mạ (kim loại “bay”)
a- bề mặt
b- rò, rỉ, lỗ rỗ
c- nứt
5- Các vết nứt tế vi và phá hủy
a- mẻ
b- bóc lớp
c- xuất hiện khi kim loại cố định (kim loại
được mạ) bị kéo dãn
d- được qui định bởi kim loại được mạ
e- có liên qua đến quá trình công nghệ.
D – Sơ lược về ứng dụng của bimetal
nhận bằng hàn nổ trong công nghiệp và
các nghành khác nhau.
1- Vật liệu chống ăn mòn
Một trong các phương pháp bảo vệ có hiệu
quả kim loại trước ăn mòn đó là sản xuất
kim loại nhiều lớp. Điều này cho phép hạ
thấp chi phí cho các kim loại thiếu hụt và
hiếm trong công nghiệp. Một mặt việc sử
dụng sẽ cho khả năng kết hợp các tính chất
nhiều vật liệu khác nhau sử dụng ở các
công việc khác nhau trong một sản phẩm
vật liệu suy nhất (composite).
Bimetall chống ăn mòn đưa vào trạng thái
“xử lý nhiệt”, khi đó hiển nhiên mức độ các
cơ tính của tấm bimetal tăng cao hơn hẳn cơ
tính của kim loại dùng để mạ. Điều này liên
hệ đến vận dụng các thép hợp kim thấp làm
kim loại cơ bản (kim loại được mạ).
Phối hợp thép hợp kim thấp với thép
chống gi sẽ làm tăng độ bền composite so
với kim loại dùng để mạ. Với cách này
bimetal chống ăn mòn đã được sản suất đại
trà có giới hạn chảy đạt 400-500 MPa và có
thể làm cho cao hơn nữa.
Các tính chất quan trọng khác của bimetal
này là tính dẫn nhiệt và tính công nghệ- có
khả năng cho phép thực hiện các quá trình
công nghệ khác như hàn, uốn, dập
Dĩ nhiên bimetal không có độ dẫn nhiệt
cao bằng một kim loại nguyên khối thuần
nhất. Tuy thế ở trường hợp này khi dùng
thép chống gỉ để mạ thì bimetal có độ dẫn
nhiệt chỉ kém độ dẫn nhiệt của kim loại cơ
sở (kim loại được mạ) một chút nhưng lại
cao hơn hẳn kim loại dùng để mạ đến 2-3
lần. Điều này cho phép chế tạo thiết bị trao
đổi nhiệt mà lại có các tính năng vận hành
khác tương đối tốt.
Khả năng chống ăn mòn của bimetal quyết
định bằng lớp kim loại mạ. Có thể sử dụng
thép ayctenit crom và chế tạo thiết bị làm
việc trong môi trường có liên kết hữu cơ,
các dung dịch muối nitrit, sunphat, và clorua
cũng như có khí clo khô, khí lưu huỳnh hoặc
cacbonat.
Trường hợp môi trường đặc biệt ăn mòn
mạnh, có thể sử dụng vật liệu mạ làm từ hợp
kim của niken, titan và một số kim loại màu.
Trong công nghiệp hóa học người ta sử
dụng bimetal kể trên để làm bể kết tinh, thiết
bị chân không, bình ngưng tụ, thiết bị trao
đổi nhiệt lò l(uyện) hơi, giếng rửa, bình
phản ứng, nồi hấp để làm sạch dầu mỡ, thiết
bị dành cho phản ứng oxi-hóa, máy trộn
Trong công nghiệp dầu mỏ, người ta vận
dụng bimetall này để chế tạo máy trộn, bể
phản ứng chưng cất xăng từ dầu, nồi phản
ứng tinh luyện, thiết bị trao đổi nhiệt
Gần 80% bimetal dùng trong các nhà máy
thuộc công nghiệp dầu mỏ đều dùng bimetal
chứa 12-14% Cr, C < 0,08% , P < 0,03%, S
< 0,025% Nhưng thép này, bỏ qua tính
chống gỉ của nó, không thể sử dụng làm vật
liệu kết cấu. Chính độ nhớt va đập thấp và
tính giòn của các mối hàn, đặc biệt trong
điều kiện làm việc nhiệt độ thấp đã tạo ra
vấn đề đó. Cho nên dùng nó làm kim loại
Copyright 2007 MES Lab. – Be Pro!
Hàn nổ Hải Ninh
mạ sẽ đưa ra khả năng nhận được vật liệu
kết cấu với những tính năng làm việc mới.
2- Vật liệu chống mài mòn
Chúng ta dùng phương pháp hàn nổ để tạo
ra bimetal chống mài mòn. Vật liệu dùng để
mạ, là thép và hợp kim có tính chống mài
mòn cao, còn vật liệu dùng làm kim loại cố
định thì thông thường chọn thép các-bon
thấp.
Để sử dụng làm vật liệu chống mài mòn,
người ta có thể dùng tấm 2 hoặc 3 lớp có độ
dày chung là 2-15 mm với độ dày tương đối
của từng lớp 10-15% độ dày chung. Kim
loại cơ sở hay kim loại được mạ, được chọn
là các loại thép có 0,06-0,5 % C, tương tự
để chọn làm kim loại mạ, có thể sẽ là thép
chứa 0,6-1,3% C hoặc các hợp kim dụng cụ
chống mòn cũng như một số thép cac-bit.
Có thể sử dụng các tấm bimetal dày hơn-
độ dày lên tới 50-100 mm, chủ yếu dùng
trong khai thác quặng mỏ. Tương lai sẽ sử
dụng bimetall định hình ở dạng có các tiết
diện của các loại lưỡi dùng làm các dao cắt
khác nhau trong sản xuất nông nghiệp và
dụng cụ cắt gọt công nghiệp, hoặc ở dạng
tròn hay phức tạp hơn (như bánh răng, các
chi tiết thân rỗng) dùng trong các trục,
đĩa, chốt, dao phay, tiện
Sử dụng kết hợp kim loại cứng với kim
loại mềm hơn sẽ không chỉ cho ra thứ vật
liệu có thời hạn sử dụng chống mài mòn
tăng mà còn tạo được từ chúng những cái
lưỡi cắt trong máy cày với tính năng mới đó
là tự mài mòn. Điều này giải thích được
rằng những lớp vật liệu mềm bị mài mòn
nhanh hơn những lớp cứng (được dùng làm
lưỡi sắc). Các chi tiết như vậy không cần
phải mài sắc cho đến khi nào vật liệu bị mài
mòn hoàn toàn.
Cũng có phương án khác để làm lưỡi cày
từ bimetall, đó là dùng bimetall định hình
dạng “chèn đôi” với độ dày chung là 4-12
mm bề rộng 220 mm. Bề dày lớp cắt gọt
làm từ thép 15% C, 6% Cr, 1% V và chiếm
23-30% đọ dày chung bimetal.
Bimetall còn dùng làm đĩa và chân máy
xới đất, đĩa xới của máy bừa, máy cắt
phẳng (bào), bộ phận xay của máy xay-
giã
Từ composite dụng cụ cũng tạo ra dao
nhíp cắt gỗ, giấy
Tương lai lớn hơn sẽ dùng phổ biến
bimetal dạng này vào tổ chức, kết cấu giao
thông vận tải: rãnh-máng, gàu xúc, dùng
trong khai thác khoáng sản, nghành nhiệt
lượng, công nghiệp nhẹ và công nghiệp
thực phẩm.
Composite kim loại chống mài mòn không
chịu các thử nghiệm cơ chuyên dụng. Có
một số qui ước chuẩn định trước là độ cứng
tối đa cho phép của kim loại cơ sở trong
trạng thái chưa xử lý nhiệt và độ cứng nhỏ
nhất của kim loại mạ sau khi tôi. Cũng có
thể kiểm soát sự tách lớp.
Tiêu chuẩn cơ bản của chất lượng vật liệu
chống mài mòn là độ mài mòn riêng của
lớp vật liệu cứng (lớp mạ), có thể theo độ
dài hoặc theo khối lượng. Điều này được
xác định nhờ thí nghiệm trong phòng thí
nghiệm các dao cắt trong chậu với đất trồng
và thực nghiệm trong sản xuất với mẫu thử
tự nhiên của chi tiết máy nông nghiệp (lưỡi
cày, lưỡi gạt) lúc cày.
3- Vật liệu kỹ thuật điện
Trong kỹ thuật điện bimetall dùng làm dây
dẫn và chi tiết của bộ phận tiếp xúc. Thông
thường composite kim loại kết hợp lại trong
đó các tính chất về điện và tính bền rất tốt
với các kim loại rẻ nhất, ít hiếm (Cb, Al,
Ag). Ngoài ra dây dẫn composite còn có
khối lượng nhỏ và chống ăn mòn tốt.
Bimetall dây với lớp ngoài làm từ đồng và
lõi thép có tính phổ biến cao như vật liệu
dây dẫn hầu như không thua kém về khả
năng dẫn của dây đồng nhưng lại kinh tế
hơn và bền hơn. Dây thép chứa nhôm dùng
làm đường thông khí trong ống thông gió
của tàu điện và xe điện, dây chão cho việc
tiếp xúc và truyền điện khí hóa trong đường
sắt.
Triển vọng lớn là việc sử dụng composite
để làm những mấu nối liền trong mạch điện.
Chính ở đầu nối này xảy ra phần mất mát
cơ bản năng lượng điện trong các chi tiết tải
lưu (dẫn điện). Sử dụng các mấu tiếp xúc
bằng bimetal bởi vì các nguyên nhân sau:
thiết kế thanh dẫn, điện cực, và các chi tiết
khác từ các kim loại khác nhau; sự nhất
thiết tạo ra mấu tiếp điểm chuyển mạch
Copyright 2007 MES Lab. – Be Pro!
Hàn nổ Hải Ninh
giữa các chi tiết tải lưu không có đồng; việc
sử dụng các chi tiết tải lưu thành phần với
mục đích kinh tế đối với các kim loại đắt
giá và kim loại hiếm; tăng cường cơ tính
các chi tiết tải lưu làm từ kim loại và hợp
kim mềm dẻo.
Một trong những nghành vận dụng năng
lượng trong thời đại ngày nay là điện hóa
thực hành, điện phân, kết tủa và tinh luyện
kim loại (Ni, Al, Cu, Zn, Ti, Co, Sn, Cr).
Sử dụng các tiếp điểm bằng vật liệu lớp
kim loại trong mạch điện điện hóa thực
hành làm việc dưới tải dòng với cường độ
lớn, dưới nhiệt độ cao, trong môi trường
hóa có hoạt tính lớn. Đây là yêu cầu cao đòi
hỏi về chất lượng vật liệu được sử dụng.
Tiếp điểm bằng bimetal (Ti+Cu, thép+Al,
Cu+Al) sử dụng cho hàng loạt các quá
trình điện hóa thực hành, mà sẽ tăng thời
hạn sử dụng của các chi tiết tải lưu một
cách tương đối và giảm đáng kể trở kháng
tại vị trí chuyển tiếp điểm.
Cũng trong điện hóa thực hành, vật liệu
nhiều lớp dạng dải cuộn được dùng làm vật
liệu kết cấu. Vật liệu này kết hợp trong đó
những tính chất như độ bền cao, độ dẫn
điện cao và hệ số nở dài thấp, khả năng
chống ăn mòn, tính công nghệ tiếp nhận gia
công.
4- Vật liệu chống ma sát
Một trong những lĩnh vực hiệu quả của
việc sử dụng composite lớp kim loại đó là
sản xuất vòng bi trượt. Trong các máy hiện
hành việc sử dụng vòng bi trượt là tốt hơn
cả, hơn các vòng bi lăn, nhờ có kích thước
và lượng chứa kim loại nhỏ cũng như các
tính năng làm việc tốt.
Chi phí kim loại màu dùng trong vòng bi
composite đặc biệt nhỏ hơn chi phí cho
vòng bi làm từ một kim loại màu (độ dày
của lớp chống ma sát chỉ cẩn vài phần mm).
Vật liệu gốc cho vòng bi là dải bimetall
hoặc cuộn với lớp cơ sở làm từ thép các-
bon thấp, lớp mạ làm từ hợp kim chống ma
sát (la-tông, brong, hợp kim nhôm) hoặc
một số loại polimer cũng có tính chống ma
sát tốt.
5- Lưỡng kim (bimetall) “nhiệt”
Bimetall nhiệt dùng trong sản xuất các
dụng cụ cảm ứng nhiệt, rơ-le, bộ phận tự
lựa Vê cơ bản tính chất của bimetal nhiệt
có thể tóm gọn lại vào khả năng bẻ cong
dưới tác dụng nhiệt độ khi nóng lên. Bởi
vậy để đạt được độ cong lớn nhất thì trong
thiết kế phải chọn các thành phần của
bimetall có sự khác biệt lớn về hệ số nở dài.
Khi đó tính cơ-lý của các thành phần phải
đáp ứng cho việc nhận được liên kết bền
theo toàn bộ mặt tiếp xúc, cũng như gia
công bimetall-nhiệt (dập, cắt, hàn).
Ngoài ra nhất thiết phải đáp ứng trong quá
trình làm việc bimetall-nhiệt không có ứ