Lý thuyết phương tiện truyền thông đề cập đến sự phức tạp của các nguyên
tắc triết học chính trị xã hội bằng việc tổ chức các ý tưởng về mối quan hệ giữa
truyền thông và xã hội. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi đưa ra một loại lý
thuyết được gọi là “bản quy phạm lý thuyết truyền thông”, với những gì mà các
phương tiện truyền thông cần phải làm trong xã hội chứ không phải là những gì họ
thực sự làm. Nhìn chung, các ý tưởng chi phối về nghĩa vụ của các phương tiện
thông tin đại chúng phải phù hợp với những giá trị và các thoả thuận trong một xã
hội nhất định. Theo Siebert trong cuốn sách của họ về Bốn lý thuyết về báo chí, báo
chí mang hình thức và màu sắc của các cấu trúc xã hội và chính trị trong đó nó
hoạt động. Báo chí và các phương tiện truyền thông khác, trong quan điểm của họ,
sẽ phản ánh “niềm tin căn bản và giả định rằng xã hội nắm giữ"
17 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 3822 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở lý luận báo chí truyền thông - Ba mô hình lý thuyết truyền thông hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cơ sở lý luận báo chí truyền
thông - ba mô hình lý thuyết
truyền thông hiện đại
Lý thuyết phương tiện truyền thông đề cập đến sự phức tạp của các nguyên
tắc triết học chính trị xã hội bằng việc tổ chức các ý tưởng về mối quan hệ giữa
truyền thông và xã hội. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi đưa ra một loại lý
thuyết được gọi là “bản quy phạm lý thuyết truyền thông”, với những gì mà các
phương tiện truyền thông cần phải làm trong xã hội chứ không phải là những gì họ
thực sự làm. Nhìn chung, các ý tưởng chi phối về nghĩa vụ của các phương tiện
thông tin đại chúng phải phù hợp với những giá trị và các thoả thuận trong một xã
hội nhất định. Theo Siebert trong cuốn sách của họ về Bốn lý thuyết về báo chí, báo
chí mang hình thức và màu sắc của các cấu trúc xã hội và chính trị trong đó nó
hoạt động. Báo chí và các phương tiện truyền thông khác, trong quan điểm của họ,
sẽ phản ánh “niềm tin căn bản và giả định rằng xã hội nắm giữ". Trong truyền
thống tự do phương Tây, điều này đề cập đến các vấn đề như bình đẳng, tự do
trước pháp luật, các mối quan hệ xã hội, và sự gắn kết, đa dạng văn hóa, can thiệp
tích cực và trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, các nền văn hóa khác nhau có thể có các
nguyên tắc và các ưu tiên khác nhau.
Mặc dù bản quy phạm lý thuyết báo chí này không phải là sự khẳng định chắc
chắn, nhất là với những sự thay đổi trong các phương tiện truyền thông và sự gia
tăng của phương tiện truyền thông với những hình thức mới, chúng ta vẫn có thể
xác định một số truyền thống rộng lớn của tư tưởng về quyền và trách nhiệm của
các phương tiện truyền thông trong xã hội và mức độ mà xã hội có thể can thiệp
một cách hợp pháp để bảo vệ lợi ích công cộng. Các biến thể có liên quan cơ bản
có thể được mô tả như sau:
Lý thuyết độc tài (áp dụng trước hết với hình thức xã hội dân chủ trước đây
và hệ thống xã hội phi dân chủ hay độc tài ngày nay). Theo quan điểm này, tất cả
các phương tiện truyền thông và thông tin liên lạc công cộng chịu sự giám sát của
cơ quan cầm quyền và biểu hiện hoặc ý kiến mà có thể phá hoại trật tự xã hội và
chính trị được thành lập có thể bị cấm. Mặc dù lý thuyết này "trái quyền tự do
ngôn luận”, nó có thể được gọi dưới những điều kiện khắc nghiệt.
Lý thuyết tự do báo chí (phát triển đầy đủ nhất tại Hoa Kỳ, nhưng có thể đã
được áp dụng ở nhiều nơi khác) tuyên bố hoàn toàn tự do biểu lộ công khai và hoạt
động kinh tế của các phương tiện truyền thông và từ chối bất kỳ sự can thiệp của
chính phủ trong bất kỳ khía cạnh nào của báo chí. Một thị trường vận hành tốt sẽ
giải quyết tất cả các vấn đề của các phương tiện truyền thông nghĩa vụ và nhu
cầu xã hội.
Lý thuyết trách nhiệm xã hội (được phát hiện ở châu Âu và các nước chịu ảnh
hưởng của châu Âu) là một phiên bản sửa đổi của lý thuyết tự do báo chí, nhấn
mạnh hơn khi trách nhiệm giải trình của các phương tiện truyền thông (đặc biệt là
phát thanh, truyền hình) cho xã hội. Phương tiện truyền thông miễn phí, nhưng họ
phải chấp nhận các nghĩa vụ để phục vụ lợi ích công cộng. Các phương tiện bảo
đảm tuân thủ các nghĩa vụ này có thể được thông qua can thiệp tự điều chỉnh hoặc
công cộng chuyên nghiệp (hoặc cả hai).
Phát triển các lý thuyết phương tiện truyền thông (áp dụng tại các quốc gia
phát triển kinh tế thấp với các nguồn lực hạn chế) có các hình thức khác nhau
nhưng về cơ bản đề xuất rằng các phương tiện truyền thông tự do, trong khi mong
muốn, nên được trực thuộc (cần thiết) các yêu cầu của phát triển kinh tế, xã hội và
chính trị.
Thay thế các lý thuyết phương tiện truyền thông. Các phương tiện truyền
thông chủ đạo của xã hội được thành lập có thể không đầy đủ theo định nghĩa trong
sự tôn trọng của nhiều nhóm trong xã hội và quá nhiều dưới sự kiểm soát của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tầng lớp. Đây là loại lý thuyết ủng hộ các
phương tiện truyền thông gần cơ sở của xã hội, quy mô nhỏ, có sự tham gia, hoạt
động và phi thương mại.
Thông thường, hệ thống phương tiện truyền thông của một quốc gia nhất định
sẽ có một hỗn hợp của các yếu tố lý thuyết và các loại phương tiện truyền thông,
hiển thị không tự do tuyệt đối và cũng không lệ thuộc tuyệt đối với quyền lực nhà
nước hoặc quyết định. Hallin và Mancini (2004) đã lập luận rằng chúng ta nên
quên đi về các lý thuyết bản quy phạm pháp luật và xem xét kỹ hơn sắp xếp thực tế
kết nối các phương tiện truyền thông với xã hội. Họ đề xuất một cách phân loại các
mối quan hệ giữa hệ thống truyền thông và hệ thống chính trị, dựa trên một cuộc
kiểm tra so sánh của xã hội đương đại quốc gia. Theo quan điểm này, có ba mô
hình hoặc biến thể, với những tác động khác nhau đối với vai trò và nghĩa vụ của
các phương tiện truyền thông trong xã hội:
Mô hình tự do, trong đó các phương tiện truyền thông hoạt động theo các
nguyên tắc của thị trường tự do, mà không có kết nối chính thức giữa các phương
tiện truyền thông và chính trị và với sự can thiệp nhà nước tối thiểu;
Mô hình Dân chủ, trong đó các phương tiện truyền thông thương mại cùng
tồn tại với các phương tiện truyền thông gắn với tổ chức chính trị xã hội và nhà
nước có một vai trò nhỏ nhưng hoạt động;
Mô hình đa nguyên phân cực, với các phương tiện truyền thông tích hợp
vào chính trị bên, yếu hơn các phương tiện truyền thông thương mại và vai trò
mạnh mẽ cho nhà nước.
Như với các lý thuyết nêu ra trước đó, các mô hình này cũng loại lý tưởng và
trong thực tế xã hội có một hỗn hợp của các yếu tố nêu. Dịch vụ công cộng phát
thanh truyền hình được tìm thấy trong hai hình thức trong các mô hình thứ hai và
thứ ba, tương ứng, hoặc là một tổ chức vô hiệu hóa và chính trị vô tư như chính trị
một cách nào đó, thường là với sự phân chia về chính trị. Trong mô hình hoàn toàn
tự do, có thể có ít hoặc không có nơi để phát sóng dịch vụ công cộng.
So sánh ký văn học và ký báo chí
Cùng với sự phát triển của xã hội, báo chí ngày càng trở nên quan trọng trong
đời sống, bởi nhu cầu về thông tin xã hội của người dân ngày càng lớn. Sự phát
triển của báo chí được đánh dấu một phần bởi sự phong phú và đa dạng khi thể
hiện tin, bài dưới nhiều hình thức, các vấn đề được đề cập dưới nhiều góc độ, mức
độ giúp cho độc giả có điều kiện tiếp cận thông tin dưới nhiều hình thức khác
nhau.
Báo chí và phương pháp đào tạo báo chí là vấn đề đang được báo chí hiện nay
quan tâm và tranh cãi. Dư luận giới truyền thông đang đứng trước 2 luồng quan
điểm trái ngược nhau: nên hay không nên đào tạo báo chí theo kiểu phân chia thể
loại? Vấn đề này thực ra vẫn chưa có giải pháp thoả đáng. Vì cho đến giờ phút này,
riêng về việc phân chia thể loại đã có rất nhiêu ý kiến và quan điểm khác nhau.
Vấn đề thể loại và phân chia thể loại báo chí vẫn là vấn đề được quan tâm nhất
trong giới lí luận truyền thông.
Giải quyết vấn đề
1.Thể loại báo chí
Thể loại báo chí là một trong những hiện tượng phức tạp của hoạt động báo
chí. Hiện nay, vẫn còn nhiều tranh luận về khái niệm này cả ở trong nước lẫn ngoài
nước và chưa hoàn toàn thống nhất.
Trong hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống đều có sự phân nhóm giữa các yếu
tố cấu thành nên nó bởi những thuộc tính riêng biệt. Đó được gọi là sự phân chia
thể loại. Từ điển bách khoa toàn thư Liên Xô 1985 định nghĩa:“ Thể loại là khái
quát hóa những đặc điểm của một nhóm lớn các tác phẩm có cùng thuộc tính về
nội dung, hình thức và cách thể hiện tác phẩm của một thời đại, một giai đoạn, một
dân tộc, hay một nền nghệ thuật thế giới .”
Theo tác giả Đinh Hường “ thể loại báo chí là hình thức biểu hiện cơ bản, thống
nhất và tương đối ổn định của các bài báo, được phân chia theo phương thức phản
ánh hiện thực, sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khác để chuyển tải nội dung mang
tính chính trị tư tưởng nhất định”. Còn tác giả Tạ Ngọc Tấn cũng quan niệm: “ thể
loại tác phẩm là một khái niệm để chỉ tính quy luật loại hình cuả tác phẩm báo
chí”.
Sự phân chia thể loại dựa trên tiêu chí lựa chọn những đối tượng có chung
những đặc điểm nội dung, hình thức, những đặc điểm này thể hiện rõ ràng, dễ
nhận thấy, và khi gộp nhóm những đối tượng có chung những đặc điểm ấy lại có
thể phân biệt được chúng với những nhóm đối tượng khác dựa trên những đặc
điểm chung của cả nhóm. Việc phân chia nhóm vào các thể loại nói trên chủ yếu
dựa vào đặc điểm và tính trội của từng thể loại và cũng chỉ mang tính tương đối
Mỗi tác phẩm báo chí thường được xếp vào một thể loại cụ thể dựa trên các
tiêu chí như: tác phẩm đó có dung lượng như thế nào, nói về vấn đề gì, cách thể
hiện vấn đề của người viết, cảm xúc của người viết có được gửi gắm trong bài viết
hay không?
Báo chí nói chung được chia thành các nhóm thể loại như: tin, phỏng vấn,
tường thuật, bài phản ánh, xã luận, bình luận, tiểu luận, phê bình và giới thiệu tác
phẩm, điều tra, điểm báo, thư của ban biên tập, ký và các thể loại trào phúng.
Ranh giới giữa các thể loại vẫn chưa được xác định một cách thật sự rõ ràng,
vẫn còn tồn tại sự giao thoa giữa chúng. Ngoài ra, những dấu hiệu chung thì thì
việc phân chia thể loại báo chí có thể dựa trên những dấu hiệu như:
* Đặc thù của đối tượng mô tả
* Chức năng và nhiệm vụ của tác phẩm báo chí
* Chiều rộng của sự phản ánh hiện thực và phạn vi của sự tổng kết và các kết
luận
* Phương tiện tái hiện hình ảnh và mức độ truyền cảm
Việc sử dụng đúng thể loại báo chí là rất quan trọng, nó giúp cho nhà báo có
thể thể hiện một cách chính xác nội dung, lựa chọn đúng cách trình bày tác phẩm
báo chí của mình để nó đến với công chúng một cách có hiệu quả nhất
Để bài biết có thể truyền tải thông tin một cách tích cực nhất lại phụ thưộc
không nhỏ ở chỗ người viết lựa chọn cách thể hiện nào để đăng tải thông tin ấy.
Chính vì vậy việc nắm bắt chính xác các thể loại báo chí là rất quan trọng đối với
những người làm báo.
Phân biệt thể loại báo chí là một vấn đề lớn, nhiều phức tạp và còn gây nhiều
tranh cãi. Trong lí luận và thực tiễn thì việc phân biệt và nắm rõ các đặc điểm của
thể loại báo chí là rất quan trọng, đặc biệt là trong chương trình đào tạo sinh viên
báo chí cũng như vận dụng những kiến thức về thể loại trong hoạt động sáng tạo
của nhà báo.
Khi nắm rõ cách phân biệt các thể loại báo chí thì người làm báo sẽ có cách
tiếp cận vấn đề và cách viết mang lại hiệu quả cao nhất, truyền tải thông tin nhiều
nhất và thu hút người đọc. Có rất nhiều cách phân chia thể loại báo chí. Tuy nhiên,
trong bài tiểu luận này xin tiếp nhận cách phân nhóm các thể loại báo chí đó là:
Nhóm các thể loại báo chính chính luận; Nhóm các thể loại báo chí thông tấn;
Nhóm các thể loại báo chí chính luận - nghệ thuật.
Bốn đặc thù của thể loại báo chí
- Thứ nhất, các thể loại khác nhau theo đặc thù của đối tượng được phản ánh.
- Thứ hai, các thể loại khác nhau theo mục đích, chức năng, nhiệm vụ sáng tạo
của tác phẩm báo chí
- Thứ ba, các thể loại báo chí phân biệt nhau ở mức độ nắm bắt hiện thực, ở
các kết luận và khái quát hoá vấn đề cần phản ánh trong tác phẩm.
- Thứ tư, các thể loại phân biệt nhau theo tính chất của phương tiện phản ánh
hiện thực (lời, phim, ảnh, âm thanh...), văn phong, ngôn ngữ.
*
Ký là một trong các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật, được nhiều người sử
dụng trong sáng tác văn học và làm báo. Tuy nhiên, phân biệt hai thể loại này là
khá khó nhưng rất cần thiết cho việc viết báo. Trước tiên, thể loại Ký có nhiều đặc
điểm lớn sau:
- Ký phản ánh những vấn đề, sự kiện, con người có thật, điển hình, luôn cố
gắng đảm bảo tính chân thực, chính xác của nội dung.
- Ký có hình thức co giãn thể loại linh hoạt, giọng điệu phong phú.
- Cái tôi trần thuật trong thể loại Ký báo chí là nhân chứng thẩm định hiện
thực.
Những đặc điểm trên đã tạo cho Ký một diện mạo riêng, tiếng nói riêng trong
văn học và báo chí. Cũng chính những đặc điểm này đã giúp cho Ký tạo ra một
kênh giao tiếp riêng đối với công chúng.
Xung quanh sự tồn tại và phát triển của Ký nói chung đã từng có nhiều ý kiến
tranh luận. Nhiều câu hỏi được đặt ra: Ký có phải là văn học không? Trong Ký có
hư cấu không? Nếu là văn học, Ký đứng ở vị trí nào trong hệ thống? Đặc trưng của
các thể Ký là gì? Liệu có nên phân chia thành Ký văn học và Ký báo chí không?..
Trong quá trình giải quyết những câu hỏi trên có nhiều phương pháp khác
nhau. Có người căn cứ vào phương thức biểu hiện và chất liệu kết cấu để chia ký
thành ba loại: ký tự sự, ký trữ tình và ký chính luận. Lại có người căn cứ vào bút
pháp và đối tượng được phản ánh để chia ký thành hàng chục thể loại như: phóng
sự, ký sự, tuỳ bút, hồi ký, truyện ký, nhật ký, du ký, bút ký chính luận, tản
vănVề đặc trưng của Ký, quan điểm hầu như vẫn chưa thống nhất. Có người cho
rằng đặc trưng ấy là ở chỗ do Ký viết về người thật, việc thật.
Đứng trước câu hỏi liệu có nên phân chia thành Ký văn học và Ký báo chí
hay không, đã từng có những quan niệm trái ngược nhau. Có ý kiến cho rằng sự
phân chia đó là cần thiết. Tuy nhiên, cơ sở phân chia lại ở chất lượng nghệ thuật.
Theo quan điểm này thì ký báo chí là những bài ký có chất lượng nghệ thuật thấp
hoặc không có nghệ thuật mà chỉ đơn giản là cung cấp thông tin đối với công
chúng, còn Ký văn học có chất lượng nghệ thuật cao hơn.
Ngược lại với quan niệm trên, lại có những người cho rằng không nên có sự
phân chia đó. Theo họ, thực ra thì bản chất của Ký chỉ có một. Nếu có sự khác
nhau thì lại là ở chỗ: nhà văn viết ký không giống với nhà báo viết ký.
Sự không nhất trí nói trên đã kéo dài trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn
học trong những năm trước đây. Có một thực tế là trong các bài giảng cho sinh
viên báo chí, thông thường người ta chỉ giới thiệu về ký một cách chung chung trên
cơ sở tổng hợp những ý kiến của các nhà nghiên cứu lý luận văn học. Trong khi đó
các thể ký báo chí đích thực lại bị tách riêng ra thành những thể loại báo chí hoàn
toàn không có liên quan gì đến ký. Nguyên nhân còn do khoa học báo chí vẫn chưa
xác định được hệ thống thể loại dựa trên cơ sở phân loại đúng đắn. Chính sự lúng
túng trong lý luận đã có ảnh hưởng không tốt đến thực tiến. Trên các báo hiện nay
thường xuyên có những bài ghi không dúng tên thể loại, thậm chí nhiều nhà báo
hoàn toàn không phân biệt được bài viết của mình thuộc thể loại nào chứ chưa nói
đến những sự phân biệt khó hơn như phân biệt giữa ký báo chí và ký văn học.
Nếu xét ở mục đích, mặc dù thấy cùng xuất phát từ người thật, việc thật
nhưng ký văn học luôn cố gắng xây dựng những hình tượng nghệ thuật. Đặc trưng
hình tượng luôn luôn chi phối trong các tác phẩm. Nhà văn không bao giờ chỉ dừng
lại ở chỗ trình bày sự thật. Hiện thực chỉ là xuất phát điểm, là cái cớ để thông qua
đó trình bày quan niệm thẩm mỹ của mình. Sự thẩm định có thể là ý kiến trực tiếp,
những hình ảnh, hình tượng hoặc cũng có thể là cách lựa chọn trình bày chi tiết
Về bút pháp, văn học sử dụng những cách của văn học nói chung để tạo ra một
giọng điệu phong phú, sinh động. Trong thể ký văn học, cái Tôi bao giờ cũng là cái
tôi thẩm mỹ. Bản chất thẩm mỹ của thể loại được đặc biệt chú trọng. Chính bởi
vậy, bên cạnh những thủ pháp nghệ thuật khác, thủ pháp hư cấu vẫn thường được
tác giả văn học sử dụng. Tuy nhiên, mức độ hư cấu trong tác phẩm ký báo chí
không giống như các thể loại văn học khác. Tức là nhà văn có thể sử dụng những
hình thức không xác định để trình bày cái xác định. Hư cấu nghệ thuật sử dụng
trong văn học còn do ở chỗ: trong thực tế, tác giả không thể đồng thời chứng kiến
tất cả các khía cạnh của sự việc đang xảy ra. Muốn có được một bức tranh toàn
cảnh của sự việc, nhà văn phải hỏi những người khác mà thông qua đó, sử dụng sự
hồi tưởng hay trí tưởng tượng để tái tạo hiện thực.
Có thể coi hư cấu là yếu tố quan trọng để phân biệt giữa ký văn học và ký báo
chí. Ký báo chí ( và các thể loại báo chí nói chung) không chấp nhận hư cấu dưới
bất cứ hình thức nào. Các thể ký báo chí dù có bút pháp linh hoạt và sinh động như
thế nào chăng nữa, cũng không được phép vượt qua nguyên tắc mang tính quy luật
loại hình này. Thông tin báo chí phải đạt tới sự xác thực tối đa.
• Ký báo chí:
Xuất hiện là do nhu cầu truyền đạt thông tin, nhu cầu phản ánh thực tiễn. Với
tư cách là người truyền đạt thông tin tới công chúng, nhà báo luôn tìm tòi những
hình thức mới để vượt qua khỏi cái khung của lối văn thông tấn mà vẫn đảm bảo
được tính xác thực, tính thời sự của nội dung được phản ánh. Các thể ký báo chí đã
đáp ứng được nhu cầu đó. Với hình thức kết cấu tương đối co giãn, với bút pháp đa
dạng và đặc biệt là sự xuất hiện của cái Tôi trần thuật sẽ giúp nhà báo có thể truyền
đạt thông tin một cách phong phú, hấp dẫn hơn so với các thể loại báo chí khác.
Với ý nghĩa đó có thể thấy rằng sự hình thành và phát triển của ký báo chí gắn liền
với hoạt động sáng tạo của nhà báo. Việc tìm tòi những hình thức biểu hiện mới
nhằm đạt tới những hiệu quả cao hơn vốn là thuộc tính của quá trình sáng tạo và dĩ
nhiên nhà báo không thể nằm ngoài quy luật đó.
• Sự khác biệt giữa ký báo chí và ký văn học:
Điểm khác biệt được coi là căn bản giữa ký báo chí và ký văn học là ở chỗ:
Mặc dù đều xuất hiện cái Tôi trần thuật, nhưng cái Tôi trong ký báo chí không phải
là cái Tôi thẩm mỹ. Nhà báo không thẩm định được hiện thực trên cơ sở của những
cảm xúc thẩm mỹ. Do phải chịu sự chi phối của yêu cầu thông tin thời sự, thông tin
xác thực nên mặc dù tác giả vẫn có cơ hội trình bày sự thẩm định của mình, sự
thẩm định ấy phải là kết quả của quá trình tư duy lôgic. Hiện thực được trình bày
trong ký báo chí phải luôn đảm bảo độc chính xác tối đa và lập luận phải xuất phát
từ tư duy lôgic của sự thực. Cái tôi trong ký báo chí phải là cái tôi nhân chứng tỉnh
táo và lý trí. Ở đây không loại trừ cảm xúc trước sự thật để phản ánh sự thật.
"Thể loại báo chí là hình thức biểu hiện cơ bản, thống nhất và tương đối ổn
định của các bài báo, được chia theo phương thức phản ánh hiện thực, sử dụng
ngôn ngữ và các công cụ khác để chuyển tải nội dung mang tính chính trị - tư
tưởng nhất định" (Định nghĩa - Tác giả Đinh Hường). Còn tác giả Tạ Ngọc Tấn
cũng quan niệm: "Thể loại báo chí là một khái niệm để tính quy luật loại hình
của tác phẩm báo chí. Thể loại là sự thống nhất có tính quy luật - lặp lại của các
yếu tố trong một loạt tác phẩm báo chí". v.v
Báo chí Việt Nam hiện nay đang sử dụng hầu hết các thể loại như tin, phóng
sự, tường thuật, phản ánh, xã luận, bình luận, tiểu luận, phê bình, ký chân dung,
câu chuyện báo chí, điều tra, điểm báo v.v Dù là ở thể loại nào thì theo quy luật
phát triển chung của xã hội, báo chí cũng có những quy luật phát triển riêng của
nó. Để phản ánh sâu sắc và kịp thời đời sống xã hội vốn rất phong phú và đa dạng,
giới báo chí đã tìm kiếm nhiều hình thức thể hiện mới. Có thể coi đấy là những
hình thức thông tin mới mẻ được bắt đầu từ một câu chuyện có thật.
*
Khi phân biệt ký văn học và ký báo chí nên lưu ý đến sự tương đồng giữ hai
thể loại này bởi chúng cùng nằm gần cái Miền giao thoa giữa văn học và báo chí.
Giữa chúng vẫn thường xuyên xảy ra quá trình giao lưu, chuyển hoá và điều đó
được coi như một động lực của sự phát triển.
Khi so sánh thể loại phóng sự với những thể ký văn học khác, các nhà nghiên
cứu văn học cho rằng phóng sự nổi bật bằng những sự thất xác thực, dồi dào và
nóng hổi. Về phương diện luận cứ, nó phải trả lời đầy đủ 6 câu hỏi 6w và chỉ có
trên cơ sở đó mà phát triển luận chứng. trong khi đó thể bút ký tuy cũng tái hiện
con người và sự việc khá dồi dào nhưng thông qua đó biểu hiện trực tiếp khuynh
hướng cảm nghĩ của tác giả. Bởi vậy, nó nghiêng về hướng trữ tình và những yếu
tố trữ tình luôn luôn được xen kẽ với sự việc, chính vì thế rất dễ biến thành tuỳ bút.
Trên cơ sở so sánh như vậy, lí luận văn học rút ra kết luận; Về cơ bản, phóng
sự cũng có đặc tính của thiên ký sự: chú trọng sự kiện khách quan, tôn trọng tính
xác thực của đối tượng miêu tả. Nhưng phó