Tóm tắt
Với ý nghĩa là cơ sở để đề xuất các biện pháp tăng cường quản lý Nhà nước về
đất đai, phân hạng đất nông nghiệp hiện nay đã được hoàn thiện hơn về trình tự,
nội dung, các chỉ tiêu phân hạng. Tuy nhiên, theo yêu cầu của công tác quản lý nhà
nước về đất đai thì phương pháp đã và đang được áp dụng vẫn còn một số những
khó khăn, bất cập (chưa phát huy hết được vai trò trong lĩnh vực quản lý đất đai;
các yếu tố được đánh giá như nhau về mức độ quan trọng, chưa thể hiện được ảnh
hưởng qua lại của các yếu tố, vai trò của các yếu tố trội; chưa tranh thủ được tri
thức của nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau để đánh giá đối với từng
mục đích sử dụng đất cụ thể, chưa có sự tích hợp giữa các phương pháp và công
nghệ tiên tiến trong quá trình đánh giá. Chính vì vậy, việc nghiên cứu ứng dụng
phương pháp đánh giá đa chỉ tiêu và GIS trong phân hạng đất nông nghiệp theo
mục đích sử dụng đất là rất cần thiết.
13 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 437 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở lý luận của việc ứng dụng phương pháp đánh giá đa chỉ tiêu và GIS trong phân hạng đất nông nghiệp theo mục đích sử dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 17 - năm 201752
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP
ĐÁNH GIÁ ĐA CHỈ TIÊU VÀ GIS TRONG PHÂN HẠNG
ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG
Vũ Thị Nhung, Trần Thị Hòa, Đào Thị Thanh Lam, Bùi Minh Đức
Viện Nghiên cứu Quản lý đất đai, Tổng cục Quản lý đất đai
Tóm tắt
Với ý nghĩa là cơ sở để đề xuất các biện pháp tăng cường quản lý Nhà nước về
đất đai, phân hạng đất nông nghiệp hiện nay đã được hoàn thiện hơn về trình tự,
nội dung, các chỉ tiêu phân hạng. Tuy nhiên, theo yêu cầu của công tác quản lý nhà
nước về đất đai thì phương pháp đã và đang được áp dụng vẫn còn một số những
khó khăn, bất cập (chưa phát huy hết được vai trò trong lĩnh vực quản lý đất đai;
các yếu tố được đánh giá như nhau về mức độ quan trọng, chưa thể hiện được ảnh
hưởng qua lại của các yếu tố, vai trò của các yếu tố trội; chưa tranh thủ được tri
thức của nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau để đánh giá đối với từng
mục đích sử dụng đất cụ thể, chưa có sự tích hợp giữa các phương pháp và công
nghệ tiên tiến trong quá trình đánh giá... Chính vì vậy, việc nghiên cứu ứng dụng
phương pháp đánh giá đa chỉ tiêu và GIS trong phân hạng đất nông nghiệp theo
mục đích sử dụng đất là rất cần thiết.
Từ khóa: phân hạng đất, nông nghiệp, MCA, GIS, phương pháp đánh giá đa
chỉ tiêu, hệ thống thông tin địa lý, mục đích sử dụng đất.
Theory and practice basic of agricultural land classifi cation and the aplication
of MCA, GIS methods according to land use purpose
Abstracts
The basis for proposing methods to strengthen the state management of land,
the agricultural land classifi cation has been more improved on the order, content
and classifi cation criteria now. However, according to the requirements of the
state management on land, the applied methods still have some diffi culties and
shortcomings (not fully achive roles in the fi eld of land management; the equally
valued factors in terms of importance, not refl ect the interaction of factors and the
role of the dominant factors, not gain the knowledge of many experts in diff erent fi eld
to evaluate for each specifi c land use purpose, there is no integration of advanced
methods and technology in the assessment process ... Therefore, the study of the
theory and practice basic of agricultural land classifi cation and the aplication of
MCA, GIS methods according to land use purpose is very necessary.
Keywords: Land classifi cation, agriculture, MCA, GIS, multi-indicator
assessment method, geographic information system, land use purpose.
1. Đặt vấn đề
Nước ta có diện tích đất sử dụng
cho nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, do
vậy sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên
đất đai trong sản xuất nông nghiệp là
vấn đề hết sức quan trọng không chỉ đối
với hiện tại mà còn có ý nghĩa lâu dài
trong tương lai. Công tác phân hạng đất
là cơ sở trong việc hoạch định các chính
sách, định hướng bố trí sử dụng hợp lý
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 17 - năm 2017 53
quỹ đất, chuyển mục đích sử dụng đất
trong quá trình lập quy hoạch sử dụng
đất cũng như khi xác định giá trị quyền
sử dụng đất, thu thuế sử dụng đất, thuế
chuyển quyền sử dụng đất
Công tác điều tra phân hạng đất ở
nước ta trước đây chủ yếu nhằm đáp ứng
cho mục đích bố trí cây trồng, vật nuôi
phù hợp trong sản xuất nông nghiệp và
tính thuế sử dụng đất, được thực hiện dựa
trên phương pháp của Liên Xô cũ và hiện
nay là theo phương pháp đánh giá thích
hợp đất đai của FAO (Tổ chức Lương
thực và nông nghiệp Liên hiệp quốc) chủ
yếu được dựa trên các yếu tố chính như
điều kiện thổ nhưỡng, tính chất nông hóa
của đất; điều kiện địa hình; khí hậu, thời
tiết; điều kiện tưới tiêu,... và sử dụng cho
tất cả các mục đích.
Theo yêu cầu của công tác quản lý
nhà nước về đất đai, thì việc phân hạng
đất nông nghiệp theo những chỉ tiêu,
phương pháp đã và đang áp dụng cho
thấy vẫn còn một số những khó khăn,
bất cập đó là: việc phân hạng đất nông
nghiệp chưa phát huy hết được vai trò
trong lĩnh vực quản lý đất đai; các yếu tố
được đánh giá như nhau về mức độ quan
trọng, chưa thể hiện được ảnh hưởng
qua lại của các yếu tố, vai trò của các
yếu tố trội; chưa xác định được trọng số
của các yếu tố khi đánh giá, chưa tranh
thủ được tri thức của nhiều chuyên gia
trong các lĩnh vực khác nhau để đánh
giá đối với từng mục đích sử dụng đất
cụ thể, chưa có sự tích hợp giữa các
phương pháp và công nghệ tiên tiến
trong quá trình đánh giá... Chính vì vậy,
việc nghiên cứu ứng dụng phương pháp
đánh giá đa chỉ tiêu và GIS trong phân
hạng đất nông nghiệp theo mục đích sử
dụng đất là rất cần thiết.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các loại
đất thuộc nhóm đất nông nghiệp trừ đất
nông nghiệp khác bao gồm đất trồng
lúa, đất nuôi trồng thuỷ sản, trồng cây
lâu năm, đất lâm nghiệp, trồng cây hàng
năm khác, đất làm muối. Cụ thể tại các
tiểu vùng sinh thái, mục đích sử dụng
đất được lựa chọn phân hạng như sau:
- Vùng đồng bằng: (i) Đất trồng
lúa; (ii) Đất trồng cây hàng năm khác;
(iii) Đất trồng cây lâu năm; (iv) Đất
rừng sản xuất; (v) Đất rừng phòng hộ;
(vi) Đất rừng đặc dụng; (vii) Đất nuôi
trồng thủy sản;
- Vùng ven biển: (i) Đất trồng lúa;
(ii) Đất trồng cây hàng năm khác; (iii)
Đất trồng cây lâu năm; (iv) Đất rừng sản
xuất; (v) Đất rừng phòng hộ; (vi) Đất
rừng đặc dụng; (vii) Đất nuôi trồng thủy
sản; (viii) Đất làm muối.
- Vùng trung du, miền núi: (i) Đất
trồng lúa; (ii) Đất trồng cây hàng năm
khác; (iii) Đất trồng cây lâu năm; (iv)
Đất rừng sản xuất; (v) Đất rừng phòng
hộ; (vi) Đất rừng đặc dụng; (vii) Đất
nuôi trồng thủy sản.
3. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chính được áp
dụng để nghiên cứu gồm:
3.1. Phương pháp điều tra thu
thập thông tin
- Điều tra, thu thập thông tin, số liệu
sơ cấp: Tiến hành thu thập thông tin, tài
liệu, số liệu, bản đồ liên quan đến các
vấn đề: loại đất/nhóm đất, độ dày tầng
đất, kết von, đá lẫn, đá lộ đầu; về địa
hình (độ dốc, địa hình tương đối); khí
hậu (lượng mưa, tổng tích ôn, khô hạn,
gió...); chế độ nước (chế độ tưới, xâm
nhập mặn, ngập úng từ bản đồ thủy lợi,
thủy văn nước mặt)... Thu thập thông
tin, số liệu về tình hình phát triển kinh tế
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 17 - năm 201754
- xã hội; hiện trạng, biến động sử dụng
đất; tình hình quản lý, sử dụng đất.
Điều tra, khảo sát các khu vực đất
nông nghiệp tại các địa bàn điều tra
phục vụ cho việc đánh giá những thuận
lợi và khó khăn trong quản lý, sử dụng
đất nông nghiệp cũng như trong việc
đánh giá đất thích hợp cho các mục đích
sử dụng đất. Kiểm tra độ chính xác của
số liệu, chỉnh lý và bổ sung các nguồn
thông tin thông qua dã ngoại, khảo sát
thực địa; xây dựng các tuyến khảo sát,
để bổ sung các thông tin mới về hiện
trạng sử dụng đất, đồng thời cập nhật,
bổ sung trên bản đồ vị trí các khu vực
đất nông nghiệp.
- Điều tra, thu thập thông tin, số liệu
thứ cấp: Điều tra, thu thập các thông tin,
tài liệu, số liệu tại các cơ quan ở Trung
ương (các đơn vị thuộc BTNMT như
Tổng cục quản lý đất đai; Trung tâm Khí
tượng thủy văn quốc gia; Cục Công nghệ
Thông tin, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn) và địa phương (Sở Tài
nguyên và Môi trường, Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Sở Khoa học và
Công nghệ, Trung tâm Khí tượng thủy
văn, Phòng Tài nguyên và Môi trường,
Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Phòng Thống kê).
Phương pháp này sử dụng để thu
thập thông tin khoa học trên cơ sở
nghiên cứu các văn bản, tài liệu bản đồ,
số liệu thống kê, báo cáo, các chương
trình dự án đã có. Những dữ liệu đã thu
thập là tài liệu về thổ nhưỡng, khí hậu,
nguồn nước, tài liệu về kinh tế - xã hội,
tài liệu về hiện trạng sử dụng đất, cơ cấu
sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, tình
hình sản xuất nông nghiệp, diễn biến
năng suất trong 05 năm trở lại đây theo
từng mục đích sử dụng; các loại bản
đồ như bản đồ hành chính, bản đồ hiện
trạng sử dụng đất, bản đồ địa hình, bản
đồ thổ nhưỡng, bản đồ giao thông, bản
đồ thủy lợi, các số liệu thống kê khác tại
các thời điểm khác nhau cần bổ sung.
3.2. Phương pháp đánh giá đất
của FAO
Phương pháp đánh giá đất theo
FAO được sử dụng để thực hiện nội
dung phân hạng mức độ thích hợp cho
các mục đích sử dụng đất trên địa bàn
nghiên cứu, để từ đó hiểu rõ hơn về tiềm
năng của đất ở khu vực nghiên cứu, làm
cơ sở để chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất
trong tương lai. Xây dựng bản đồ đơn
vị đất đai thông qua việc xây dựng và
chồng xếp các bản đồ đơn tính gồm bản
đồ loại đất, địa hình tương đối, lượng
mưa, chế độ tưới, xâm nhập mặn, ngập
úng... thích hợp với các mục đích sử
dụng đất bao gồm đất trồng lúa, đất
trồng cây hàng năm khác, đất rừng sản
xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc
dụng, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm
muối. Xác định yêu cầu sử dụng đất của
mỗi mục đích sử dụng đất đai được lựa
chọn. Xác định và mô tả các mục đích
sử dụng đất trong điều kiện về chính
sách, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
của vùng nghiên cứu.
Trình tự đánh giá sử dụng đất thích
hợp theo FAO (1976) bao gồm các nội
dung cơ bản: Xác định mục tiêu; thu
thập tài liệu; xác định loại sử dụng đất;
xác định các đơn vị đất đai; đánh giá
khả năng thích hợp của đất đai; đánh
giá hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường;
đề xuất sử dụng đất phục vụ quy hoạch
sử dụng đất. Trong nghiên cứu phương
pháp đánh giá đa chỉ tiêu sẽ được sử
dụng trong nội dung đánh giá khả năng
thích hợp của đất đai. GIS được ứng
dụng trong nội dung xác định đơn vị
đất đai, đánh giá khả năng thích hợp và
thành lập bản đồ phân hạng đất.
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 17 - năm 2017 55
3.3. Phương pháp xây dựng bộ
bản đồ trong PHĐ nông nghiệp
Sử dụng hệ thống thông tin địa lý
(GIS) để thành lập bản đồ. Sử dụng các
tiện ích sẵn có của GIS để thành lập
bản đồ đơn vị đất đai (dùng chức năng
Overlay của GIS) và biểu diễn kết quả
phân hạng thích hợp thông qua việc phân
tích dữ liệu không gian, xử lý thông tin,
cơ sở dữ liệu đầu vào, xây dựng các lớp
thông tin bản đồ chuyên đề, bản đồ đơn
vị đất đai, bản đồ PHĐ nông nghiệp của
địa bàn thử nghiệm. Sử dụng các chức
năng của phần mềm MicroStation và
phần mềm ArcGIS, ArcView để xây
dựng cơ sở dữ liệu đất đai bao gồm các
số liệu bản đồ: Bản đồ hiện trạng sử
dụng đất; Bản đồ hành chính; Bản đồ
đất; Bản đồ địa hình
Sử dụng hệ tọa độ VN2000 với các
tỷ lệ 1/50.000, 1/100.000 để thể hiện
các bản đồ. Cấu trúc số liệu thuộc tính
của các đối tượng trên bản đồ được thể
hiện bằng mô hình quan hệ. Các bản
đồ chuyên đề và các bản đồ PHĐ được
xây dựng trên nền bản đồ địa hình tỷ lệ
1/50.000, 1/100.000. Ứng dụng phần
mềm Mapinfor, Microstation, ArcGIS,
ArcView biên tập, chồng xếp bản đồ. Sử
dụng GIS thực hiện phân vùng sinh thái
của địa bàn điều tra theo ba tiểu vùng
(đồng bằng, đồi núi, ven biển), xây dựng
dữ liệu ranh giới các khoanh đất điều tra
tại địa bàn (diện tích, mục đích sử dụng
đất, các kết quả ký hiệu và phân mức
của tất cả các mục đích sử dụng đất...).
Sử dụng GIS kết hợp với phương
pháp đánh giá đa chỉ tiêu trong quá
trình phân hạng được thực hiện bằng
cách chồng các lớp thông tin về loại
đất, địa hình, khí hậu, chế độ nước...
tạo thành một lớp thông tin kết quả
cho phép phân các mức thích hợp theo
mục đích sử dụng có giá trị từ 0 đến 1,0
(Carver, 1991, Voogd, 1983) đến từng
khoanh đất.
3.4. Phương pháp MCA
Phương pháp đánh giá đa chỉ tiêu
được áp dụng trong nghiên cứu để thực
hiện quá trình PHĐ thích hợp cho các
mục đích sử dụng đất. Kết hợp các thông
tin từ nhiều chỉ tiêu về một chỉ tiêu đánh
giá duy nhất. Phương pháp MCA sẽ
công bằng, chính xác hơn ở việc xét đến
tầm quan trọng khác nhau giữa các chỉ
tiêu đối với một mục đích đánh giá cụ
thể, nói lên tầm ảnh hưởng khác nhau
đến mục đích đánh giá thể hiện ở các
trọng số khác nhau, trong khi phương
pháp đánh giá của FAO không xét đến
sự tương tác giữa các chỉ tiêu, xem các
chỉ tiêu có vai trò quan trọng như nhau.
Dữ liệu đầu vào của phân hạng theo
phương pháp MCA và GIS có mức độ
chi tiết cao, sát với thực tế và có tính
khả thi cao vì MCA đưa ra đề xuất dựa
trên mức độ ảnh hưởng của các chỉ tiêu
đến đối tượng đánh giá. Việc sử dụng
phương pháp MCA phù hợp với những
nghiên cứu mang tính chất chi tiết, phù
hợp với cấp tỉnh, huyện, cấp xã và thực
hiện trên nền bản đồ có tỷ lệ lớn.
Phương pháp so sánh cặp đôi, thực
hiện theo trình tự: Xây dựng ma trận so
sánh cặp đôi; xác định trọng số; tính
giá trị thích hợp; phân cấp tổng giá trị
thích hợp.
3.5. Phương pháp chuyên gia
Tham khảo ý kiến của các nhà quản
lý, các nhà khoa học, các chuyên gia về
các vấn đề liên quan đến việc quản lý,
sử dụng đất đai; khoa học đất... đồng
thời tham vấn ý kiến người sử dụng đất
tại địa bàn bằng hình thức điền thông tin
vào mẫu phiếu và xin ý kiến trực tiếp
thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề.
Tổng hợp các ý kiến chuyên gia theo
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 17 - năm 201756
phương pháp toán học. Việc xin ý kiến
chuyên gia đóng vai trò tiên quyết trong
quá trình xây dựng ma trận so sánh cặp
đôi. Các ý kiến chuyên gia có độ đồng
thuận cao sẽ làm cho ma trận vừa có
tính chính xác, vừa thể hiện được mối
tương quan giữa các chỉ tiêu đồng thời
vẫn đảm bảo tính khách quan của người
ra quyết định.
Tham khảo ý kiến của các cán bộ
quản lý đất đai, cán bộ nông nghiệp
và người dân trực tiếp sử dụng đất tại
địa phương về mức độ ảnh hưởng của
các chỉ tiêu về loại đất, độ dày tầng đất,
thành phần cơ giới, lượng mưa, độ dốc,
khô hạn, chế độ tưới, xâm nhập mặn,
ngập úng đối với từng mục đích sử dụng
đất.
Phương pháp chuyên gia đóng vai
trò rất quan trọng khi kết hợp với phương
pháp đánh giá đa chỉ tiêu để thực hiện
nội dung đánh giá thích hợp đất đai cho
các mục đích sử dụng đất, xây dựng ma
trận cặp đôi so sánh các chỉ tiêu về loại
đất, độ dày tầng đất, thành phần cơ giới,
lượng mưa, độ dốc, khô hạn, chế độ
tưới, xâm nhập mặn, ngập úng đối với
từng mục đích sử dụng đất tại mỗi tiểu
vùng sinh thái.
3.6. Phương pháp kế thừa
Kế thừa có chọn lọc các kết quả
nghiên cứu của các công trình, đề tài
khoa học có liên quan đến các lý thuyết
về đánh giá đất đai, lý thuyết về GIS, lý
thuyết về MCA... trong và ngoài nước.
Kế thừa kết quả từ các công trình dự án
đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường
thực hiện như dữ liệu phân vùng sinh
thái các tiểu vùng (ven biển, đồng bằng,
đồi núi), ranh giới các khoanh đất điều
tra ... Có thể nói, phương pháp kế thừa
là phương pháp rất quan trọng để có
được bộ dữ liệu đầu vào trong quá trình
thực hiện.
4. Kết quả và thảo luận
4.1. Tình hình ứng dụng các
phương pháp phân hạng đất nông
nghiệp ở Việt Nam
Trong những năm qua, tùy thuộc
vào từng thời kỳ công tác PHĐ nông
nghiệp ở nước ta được triển khai ở các
mức độ khác nhau, song về mặt phương
pháp thì chủ yếu áp dụng những phương
pháp phổ biến trên thế giới như phương
pháp PHĐ của Liên Xô cũ và phương
pháp PHĐ của FAO (1976, 1993b).
- Việc ứng dụng phương pháp phân
hạng đất của Liên Xô cũ:
Từ đầu những năm 1970, Bùi
Quang Toản cùng nhiều nhà khoa học
của Viện Thổ nhưỡng Nông hóa (Vũ
Cao Thái, Nguyễn Văn Thân, Đình Văn
Tỉnh) đã tiến hành công tác phân
hạng đất ở 23 huyện, 286 hợp tác xã và
9 vùng chuyên canh. Quy trình này bao
gồm 4 bước: (1). Thu thập tài liệu; (2).
Vạch khoanh đất; (3). Đánh giá và phân
hạng chất lượng đất và (4). Xây dựng
bản đồ phân hạng đất. Các yếu tố được
sử dụng trong phân hạng đất vùng đồng
bằng gồm: Loại đất, độ dày tầng đất,
độ chặt, độ xốp, hạn, úng, mưa, mặn,
chua Các yếu tố đó được chia thành 4
mức thích hợp là tốt, khá, trung bình và
yếu kém. Về phân hạng, đất được chia
thành 4 hạng từ hạng I đến hạng IV theo
thứ tự từ tốt đến xấu. Quy trình này đã
được áp dụng trong một thời gian dài.
Tuy nhiên, vấn đề kinh tế và môi trường
chưa được nghiên cứu sâu [6].
Trong thời kỳ thực hiện phân hạng
đất theo Chỉ thị số 299/TTg, công tác
phân hạng đất nông nghiệp được tiến
hành theo phương pháp của Liên Xô
cũ. Tổng cục Quản lý ruộng đất đã ban
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 17 - năm 2017 57
hành dự thảo phương pháp phân hạng
đất (Tổng cục quản lý ruộng đất, 1981).
Theo đó, việc phân hạng dựa trên các cơ
sở: (i) Vùng địa lý thổ nhưỡng, (ii) Loại
và nhóm cây trồng, (iii) Đặc thù của địa
phương, (iv) Trình độ thâm canh, (v)
Mối tương quan với năng suất cây trồng.
Đây là tài liệu hướng dẫn vừa mang tính
khoa học vừa mang tính thực tiễn, có thể
áp dụng trên diện rộng. Tính đến tháng
7/1986 cả nước đã có 14/40 tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương hoàn thành
hoặc hoàn thành cơ bản cả 3 nội dung:
đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê
ruộng đất; Hai vùng trọng điểm lúa của
cả nước là Đồng bằng Sông Cửu Long
và Đồng bằng Bắc Bộ đã cơ bản hoàn
thành. Đã có 37% số tỉnh đã hoàn thành
phân hạng đất lúa cấp huyện. [6]
Nhìn chung, kết quả phân hạng đất
nông nghiệp theo phương pháp này tại
Việt Nam đã giúp cho việc thống kê tài
nguyên đất nông nghiệp và hoạch định
chiến lược sử dụng, quản lý nguồn tài
nguyên đất nông nghiệp trong phạm
vi cả nước theo các phân vùng nông
nghiệp tự nhiên hướng tới mục đích sử
dụng, bảo vệ và cải tạo đất nông nghiệp
hợp lý. Tuy nhiên, đối với mục đích sử
dụng đất nông nghiệp, việc phân hạng
thích hợp chưa đi sâu một cách cụ thể
vào từng loại sử dụng, đối tượng phân
hạng không toàn diện; phương pháp
này mới chỉ tập trung chủ yếu vào đánh
giá các yếu tố tự nhiên của đất đai và
chưa có những quan tâm cân nhắc tới
các điều kiện kinh tế - xã hội, thực tế
kết quả phân hạng dựa vào năng suất.
Quy định về thời hiệu phân hạng, định
suất thuế, hình thức thu thuế đã không
khuyến khích sản xuất, nền kinh tế nông
thôn kém phát triển.
- Việc ứng dụng phương pháp phân
hạng đất nông nghiệp theo FAO:
Năm 1996, Tổng cục Địa chính đã
áp dụng phương pháp phân hạng đất
nông nghiệp theo FAO tiến hành phân
hạng trên một số địa bàn thí điểm như
huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Hưng; huyện
Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Kết quả của
chương trình thí điểm được kết luận như
sau: Yếu tố chất đất của mỗi địa bàn thí
điểm chỉ tiêu phân hạng không đồng
nhất. Do đặc thù của ĐBSCL nên yếu tố
vị trí có thể thay nơi cư trú bằng trung
tâm mua bán vật tư nông nghiệp. Khi
phân hạng cấp xã yếu tố khí hậu là đồng
nhất do đó cần vận dụng lịch thời vụ, bổ
sung các chỉ tiêu khí hậu thời tiết đặc
thù [1].
Đến năm 1997, phương pháp xác
định hạng đất theo điều kiện giới hạn
đã trở thành phổ biến và được thực hiện
rộng rãi trong cả nước. Tuy nhiên, trong
quá trình thực hiện có một số tồn tại
sau: Việc áp dụng hoàn toàn máy móc,
không xem xét điều chỉnh các yếu tố
tham gia định hạng, nhất là các yếu tố
ít quan trọng có linh động được nên dẫn
đến kết quả thiếu chính xác, không đúng
với thực tế; Tình trạng tự điều chỉnh một
cách tùy tiện, không đề ra các quy định
và giải thích chi tiết dẫn đến kết quả xác
định bị gò ép, đồng thời hệ thống các chỉ
tiêu và số liệu không đồng nhất [1].
Trên cơ sở tiếp thu phương pháp
phân hạng đánh giá đất đai của FAO
và tổng kết kinh nghiệm phân hạng đất
ở nước ta, Viện Quy hoạch và thiết kế
nông nghiệp đã biên soạn "Quy trình
đánh giá đất đai phục vụ nông nghiệp
- 10TCN, 1998" được Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn phê duyệt và ban
hành thành quy trình cấp ngành nhằm
thống nhất nội dung, phương pháp phân
hạng đánh giá tài nguyên đất phục vụ
quy hoạch sử dụng đất bền vững trên
phạm vi cả nước [1].
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trư