Về phương pháp xác định nguồn gốc ngôn ngữ
Trong lịch sử, có những ngôn ngữ mà vì một lí do nào đó đã bị chia tách ra thành
nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ bị chia tách đó thường được gọi là ngôn ngữ
mẹ hay ngôn ngữ cơ sở. Như vậy, về nguyên tắc, có thể tìm tòi ngược dòng thời
gian lịch sử của những ngôn ngữ được giả định là vốn cùng “sinh ra” từ một ngôn
ngữ mẹ, để quy chúng vào những nhóm, những chi, những ngành, những dòng.
khác nhau, tuỳ theo mức độ thân thuộc nhiều hay ít.
10 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1851 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở xác định nguồn gốc tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cơ sở xác định nguồn gốc tiếng Việt
1. Về phương pháp xác định nguồn gốc ngôn ngữ
Trong lịch sử, có những ngôn ngữ mà vì một lí do nào đó đã bị chia tách ra thành
nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ bị chia tách đó thường được gọi là ngôn ngữ
mẹ hay ngôn ngữ cơ sở. Như vậy, về nguyên tắc, có thể tìm tòi ngược dòng thời
gian lịch sử của những ngôn ngữ được giả định là vốn cùng “sinh ra” từ một ngôn
ngữ mẹ, để quy chúng vào những nhóm, những chi, những ngành, những dòng...
khác nhau, tuỳ theo mức độ thân thuộc nhiều hay ít.
Đối với mỗi ngôn ngữ, ba mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp cũng như các tiểu hệ
thống của nó biến đổi không đồng đều, có những mặt, những yếu tố... được bảo
toàn rất lâu dài; nhưng cũng có những yếu tố đã biến đổi với những mức độ khác
nhau. “Hầu như trong mỗi từ hoặc mỗi hình thức của từ lúc nào cũng có một cái gì
đó mới và một cái gì đó cũ”.
Sự biến đổi ngữ âm (điều cần tìm kiếm đầu tiên trong khi nghiên cứu quan hệ cội
nguồn của ngôn ngữ) không phải là những biến đổi hỗn loạn mà thường có lí do,
có quy luật và theo hệ thống.
Và có một điểm đáng chú ý, được coi là tiền đề quan trọng trong việc phân loại các
ngôn ngữ theo quan hệ cội nguồn, là tính võ đoán trong quan hệ ngữ âm với ý
nghĩa. Bởi thế, ta có quyền giả định rằng: những từ gần gũi nhau về âm thanh có
liên quan hoặc gắn bó với nhau ở ý nghĩa thường luôn luôn bắt nguồn từ cùng một
gốc nào đó.
Nếu như phương pháp so sánh loại hình giúp quy các ngôn ngữ vào những loại
hình khác nhau, hay phương pháp so sánh đối chiếu phát hiện những tương đồng
và khác biệt chủ yếu trên diện đồng đại ở một hay nhiều bình diện, bộ phận của
ngôn ngữ, thì để phát hiện ra sự thân thuộc giữa các ngôn ngữ về mặt cội nguồn
người ta dùng phương pháp so sánh–lịch sử. Có thể nói, phương pháp so sánh–lịch
sử từ việc so sánh, tìm ra các quy luật tương ứng về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp
để rồi qua đấy xác định xác định nguồn gốc của một ngôn ngữ, hay quan hệ thân
thuộc giữa các ngôn ngữ về mặt nguồn gốc.
2. Về các ý kiến khác nhau trong việc xác định nguồn gốc tiếng Việt
Hiện nay, quan điểm xếp tiếng Việt vào họ Nam Á (được nêu ra từ năm 1856)
được nhiều người chấp nhận và được coi là có cơ sở khoa học nhất. Tuy nhiên, có
những ý kiến khác không xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ này.
Ý kiến trước tiên phải kể đến là ý kiến của Taberd (1838): “tiếng Việt chỉ là một
nhánh bị thoái hoá của tiếng Hán”. Cơ sở để Taberd đưa ra ý kiến này là trong
vốn từ của tiếng Việt hiện nay thì từ vựng có nguồn gốc Hán chiếm đa số. Tuy
nhiên, mặc dù có tới 75% từ vựng tiếng Việt có gốc Hán nhưng đại đa số những từ
đó đều là những từ văn hoá (những từ thể hiện trình độ phát triển của xã hội). Do
đó, chúng phải là những từ vay mượn, chứ không phải là những từ mang tính
nguồn gốc. Và theo Maspéro (1912): Bất cứ từ Hán nào vào tiếng Việt đều phải
chịu sự chi phối của cơ cấu tiếng Việt.
Loại ý kiến thứ hai là những ý kiến xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Nam Đảo. Đó
là ý kiến của Bình Nguyên Lộc với hai cuốn Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt
Nam (Sài Gòn, 1972) và Lột trần Việt ngữ (Sài Gòn, 1973), và gần đây là ý kiến
của tác giả Hồ Lê (1996). Cơ sở của những ý kiến này là sự tương ứng từ vựng
giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ khác nhau trong họ Nam Đảo. Tuy nhiên, phải
nói ngay rằng, đây là những tương ứng chưa phải là những tương ứng mang tính hệ
thống và do đó khả năng vay mượn là rất lớn. Khả năng này còn được đẩy lên cao
hơn nữa khi mà, như chúng ta đã biết, sự cư trú đan xen giữa những cư dân Nam Á
và cư dân Nam Đảo là có thực và diễn ra trong một khoảng thời gian dài. Cần phải
nói thêm rằng, tác giả Bình Nguyên Lộc đã cho rằng “có 40% từ Mã Lai trong vốn
từ của tiếng Việt”, tuy nhiên “trong hai cuốn sách của ông chỉ thấy kể có khoảng
dăm chục từ” (1)... Do vậy, có thể nói, việc nêu vấn đề tiếng Việt có quan hệ họ
hàng với các ngôn ngữ Nam Đảo chỉ mang tính giả thiết và trong tình hình như vậy
có thể nói giả thiết ấy chưa được chứng minh.
Ý kiến thứ ba, đáng chú ý hơn cả, cho rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc họ
ngôn ngữ Thái. Cần phải nói ngay rằng, trong số những ý kiến không xếp tiếng
Việt vào họ ngôn ngữ Nam Á thì cách lí giải cho ý kiến này có vai trò quan trọng
nhất. Ý kiến này được Henry Maspéro đề xuất vào đầu thế kỉ 20, và trong một
thời gian dài, nó đã chi phối quan niệm về phân loại nguồn gốc ngôn ngữ của các
nhà ngôn ngữ trên thế giới. Bằng phương pháp so sánh-lịch sử, với lập luận chặt
chẽ, tỉ mỉ về các khía cạnh từ vựng cơ bản, ngữ pháp và thanh điệu, Maspéro đã
làm những nhà nghiên cứu đương thời không có cách gì bác bỏ được. Cụ thể là:
- Về từ vựng: giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ Thái cũng như với các ngôn ngữ
Mon-Khmer đều có sự tương ứng;
- Về ngữ pháp: tiếng Việt gần với tiếng Thái và khác rất xa với các ngôn ngữ Mon-
Khmer hiện nay bởi các tiếng Mon-Khmer có cơ sở sơ sài về hình thái học trong
khi đó tiếng Việt là một ngôn ngữ không có giá trị hình thái học.
- Về thanh điệu: với Maspéro, thanh điệu tiếng Việt là một vấn đề quan trọng vì
tiếng Việt hiện nay là một ngôn ngữ cũng có thanh điệu như các ngôn ngữ Thái và
Hán. Trong khi đó, cho đến nay, các ngôn ngữ Mon-Khmer vẫn là các ngôn ngữ
không có thanh điệu.
Tuy nhiên, những luận điểm của Maspéro không phải là không có hạn chế và
những hạn chế đó sau này đã được A.G. Haudricourt chỉ ra một cách thuyết phục.
3. Về cơ sở để xác định nguồn gốc tiếng Việt qua hai bài báo của A.G.
Haudricourt
3.1. Lập luận của A.G. Haudricourt trong việc chứng minh nguồn gốc Nam Á
của tiếng Việt
Trong hai năm 1953 và 1954, A.G. Haudricourt đã lần lượt công bố hai bài báo
quan trọng:
- Về nguồn gốc Nam Á của tiếng Việt
- Về nguồn gốc các thanh trong tiếng Việt
Với hai bài báo này, ông đề nghị phải xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Nam Á, chứ
không phải là họ Thái như H. Maspéro đã đề nghị. Cần phải nói ngay rằng, A.G.
Haudricourt không phải là người đầu tiên nêu ra quan điểm xếp tiếng Việt vào họ
ngôn ngữ Nam Á. Mà, như đã trình bày ở trên, quan điểm này đã được đề xuất từ
năm 1856, và hiện nay, đây là quan điểm nhận được nhiều sự đồng tình nhất bởi cơ
sở khoa học của nó. Trong số những ý kiến ủng hộ đó, có thể coi lập luận của
Haudricourt là đầy đủ nhất và là những lí lẽ đại diện cho cách phân loại này. Hơn
thế nữa, qua lập luận của Haudricourt chúng ta còn có thể rút ra được những cơ sở
để xác định nguồn gốc tiếng Việt.
Thứ nhất, về vấn đề từ vựng. Sau khi tiến hành khảo sát lại nhóm từ chỉ các bộ
phận cơ thể trong tiếng Việt mà Maspéro đã dẫn ra để làm chứng cứ trong công
trình so sánh của ông, Haudricourt đã chỉ ra rằng nhóm từ ấy về cơ bản là những từ
thuộc về Mon-Khmer, chứ không phải là vừa gốc Thái vừa gốc Mon-Khmer như
Maspéro đã chỉ ra. Vì vậy, trên phương diện từ vựng, quan hệ giữa tiếng Việt và
các ngôn ngữ Thái là quan hệ vay mượn.
Thứ hai, về vấn đề ngữ pháp, cụ thể là vấn đề cấu tạo từ bằng phương thức phụ tố.
Hiện nay người ta vẫn nhận thấy dấu vết của phương thức này. Ví dụ điển hình là
cặp từ giết – chết:
kchết xát hoá > giết
Ngoài ra, còn có một số cặp từ khác: cọc-nọc, kẹp-nẹp, con-non
Qua những cặp từ như vậy, chúng ta có thể chứng minh chúng là hệ quả của
phương thức cấu tạo từ bằng phụ tố còn lưu giữ trong các ngôn ngữ Mon-Khmer.
Tuy nhiên, điểm lập luận này, đối với Haudricourt, không phải là quan trọng nhất.
Điểm quan trọng ở đây chính là vấn đề thanh điệu. Haudricourt cho rằng, việc hiện
nay tiếng Việt có hệ thống thanh điệu giống như tiếng Thái còn các ngôn ngữ
Mon-Khmer không thanh điệu chưa nói lên điều gì về nguồn gốc. Bởi hệ thống
thanh điệu có thể xuất hiện, có thể mất đi trong lịch sử của một ngôn ngữ. Hơn
nữa, theo V.B. Kasevich, ở một số ngôn ngữ ở Đông Nam Á và Tây Phi tuy chúng
đều có thanh điệu và thậm chí có những điểm giống nhau đến kì lạ về ngữ pháp
nhưng “tuyệt đối rõ ràng là những ngôn ngữ này không phải là họ hàng” (tr.198).
Theo Haudricourt, thanh điệu tiếng Việt là một hiện tượng mới có, nói cách khác,
trước đây tiếng Việt cũng là một ngôn ngữ không có thanh điệu và hiện nay nó là
một ngôn ngữ có thanh điệu giống như các ngôn ngữ Thái. Chính vì điều này mà
Haudricourt đã chứng minh được rằng, về nguồn gốc, tiếng Việt tương tự như các
ngôn ngữ Mon-Khmer:
- Giữa thanh điệu và phụ âm đầu có liên quan chặt chẽ đến nhau theo hướng các
phụ âm đầu tắc vô thanh tương ứng với một thanh có âm vực cao, còn những phụ
âm đầu hữu thanh thì tương ứng với thanh điệu có âm vực thấp.
- Thanh điệu tiếng Việt có sự tương ứng với cách kết thúc âm tiết:
+ Hai thanh ngang-huyền: âm tiết mở;
+ Hai thanh hỏi-ngã: âm cuối xát;
+ Hai thanh sắc-nặng: âm cuối tắc yết hầu.
Và cuối cùng, dựa trên kết quả phục nguyên, Haudricourt đã đưa ra sơ đồ về nguồn
gốc các thanh trong tiếng Việt như sau:
Đầu công nguyên
(không thanh)
Thế kỉ thứ VI
(ba thanh)
Thế kỉ XII
(sáu thanh)
Ngày nay
pa pa pa ba
sla, hla hla la la
ba ba pà bà
la la là là
pas, pah pà pả bả
slas, hlah hlà lả lả
bas, bah bà pã bã
las, lah là lã lã
pax, pa? pá pá bá
slax, ba? hlá lá lá
Đầu công nguyên
(không thanh)
Thế kỉ thứ VI
(ba thanh)
Thế kỉ XII
(sáu thanh)
Ngày nay
bax, ba? bá pạ bạ
lax, la? lá lạ lạ
Sơ đồ về nguồn gốc các thanh trong tiếng Việt
Từ những lí lẽ trên, A.G. Haudricourt đã khẳng định: “tốt nhất là chỉ nên xếp tiếng
Việt là thành viên của nhánh Mon-Khmer thuộc họ Nam Á ở khu vực Đông Nam Á
hiện nay”.
3.2. Cơ sở xác định nguồn gốc tiếng Việt
Chúng ta có thể nhận thấy tiếng Việt đã được các nhà nghiên cứu xếp vào nhiều họ
ngôn ngữ khác nhau. Điều này cho thấy các ngôn ngữ trong khu vực, trong quá
trình phát triển, có sự tiếp xúc và vay mượn của nhau rất nhiều. Cho nên, khi xác
định nguồn gốc tiếng Việt không thể không tính đến yếu tố Thái, yếu tố Nam Đảo
và đặc biệt là yếu tố Hán trong tiếng Việt.
Tuy nhiên chúng ta cần phải thấy rằng, hai vấn đề cơ bản và quan trọng nhất, vừa
là phương pháp, vừa là cơ sở trong việc xác định nguồn gốc tiếng Việt, là vấn đề từ
vựng cơ bản và vấn đề những biến đổi có quy luật của ngữ âm, cụ thể ở đây là quy
luật hình thành thanh điệu. Tuy nhiên, việc nhận diện đâu là từ vựng cơ bản và việc
xác định đâu là những từ mang tính nguồn gốc, đâu là những từ vay mượn là công
việc không đơn giản. Và bất kì việc làm chủ quan, thiếu cẩn trọng hay nhầm lẫn
nào cũng chắc chắn sẽ đưa ra những kết luận lệch lạc, sai lầm.