Tóm tắt: Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh
con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và sinh vật. Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường
như đất, nước, không khí, sinh vật, hệ sinh thái, và các hình thái vật chất khác. Hoạt
động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp,
phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường,
khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường, khai thác, sử dụng
hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 364 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cộng đồng chung tay bảo vệ môi trường để bảo vệ nguồn tài nguyên nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 98
CỘNG ĐỒNG CHUNG TAY BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG ĐỂ BẢO VỆ
NGUỒN TÀI NGUYÊN NƢỚC
KS. Lê Đức Gia
Phó Trưởng Khoa Đào tạo Nghề, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh
con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và sinh vật. Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường
như đất, nước, không khí, sinh vật, hệ sinh thái, và các hình thái vật chất khác. Hoạt
động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp,
phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường,
khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường, khai thác, sử dụng
hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.
Từ khóa: Cộng đồng chung tay, bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên nước, sự
sống, thiếu nước, nước mặt, nước sông, nước ngầm, ô nhiễm, cạn kiệt, đốt rừng,
thủy điện, khai thác quá mức, quy hoạch, học tập.
Nước là sự sống là nguồn tài
nguyên quý giá, có khả năng tái tạo
nhưng không phải là vô tận.Việt Nam
không phải là quốc gia giàu nước và đang
cận kề một tương lai thiếu nước. Đó là
thông điệp được Bộ Tài nguyên và Môi
trường (TN&MT) đưa ra nhân ngày
Nước thế giới 22/3. Khai thác và sử
dụng hợp lý nguồn tài nguyên nước đem
lại cho đất nước ta những lợi ích kinh tế
- xã hội không nhỏ, phục vụ cho đời
sống của người dân, cộng đồng và sự
phát triển đất nước. Tài nguyên nước
bao gồm nước mưa, nước mặt, nước
dưới đất, nước biển Tài nguyên nước
mặt là nguồn vận động và tàng trữ trong
sông, suối, ao hồ, đầm phá, riêng nước
sông là rất quan trọng.
1. Các nguồn nƣớc ngọt
Vòng tuần hoàn nƣớc (The water
cycle): Vòng tuần hoàn nước là sự tồn tại
và vận động của nước trên mặt đất, trong
lòng đất và trong bầu khí quyển của trái
đất. Nước trái đất luôn vận động và
chuyển từ trạng thái này sang trạng thái
khác, từ thể lỏng sang thể hơi rồi thể rắn
và ngược lại. Vòng tuần hoàn nước đã và
đang diễn ra từ hàng tỉ năm và tất cả cuộc
sống trên trái đất đều phụ thuộc vào nó,
trái đất chắc chắn sẽ là một nơi không thể
sống được nếu không có nước.
Nƣớc mặt: Nước ngọt trên mặt
đất, một thành phần của chu trình nước,
yếu tố cần thiết cho mọi sự sống trên trái
đất. Nước mặt bao gồm nước trong các
dòng suối, sông, ao, hồ, hồ nhân tạo,
hoặc nước ngọt trong vùng đất ngập
nước. Nước mặt được bổ sung một cách
tự nhiên bởi giáng thủy (nước mưa) và
chúng mất đi khi chảy vào đại dương,
bốc hơi, thấm xuống đất.
Nƣớc ngầm: Nước ngầm hay còn
gọi là nước dưới đất, là nước ngọt được
chứa trong các lỗ rỗng của đất hoặc đá
dưới bề mặt. Nó cũng có thể là nước
chứa trong các tầng ngậm nước bên dưới
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 99
mực nước ngầm. Nước ngầm nông hoặc
nước ngầm sâu (nước ngầm tồn tại và di
chuyển trong lòng đất) chiếm một
lượng rất lớn. Nước ngầm đóng góp lớn
cho dòng chảy sông ngòi của nhiều con
sông nhờ thấm qua bờ sông, một phần
nước thấm sâu hơn, bổ sung cho các
tầng nước ngầm. Con người đã sử dụng
nước ngầm từ hàng ngàn năm nay và
vẫn đang tiếp tục sử dụng nó hàng
ngày, phần lớn nhu cầu nước sinh hoạt,
nước tưới phục vụ nông nghiệp, nước
sử dụng trong các ngành công nghiệp.
Cuộc sống trên trái đất phụ thuộc vào
nước ngầm cũng như nước mặt.
Việt Nam có nhiều con sông lớn
nhỏ chảy qua và người Việt có tập quán
cư trú và canh tác dọc theo hai bên bờ
sông. Nền kinh tế của Việt Nam hiện
nay phụ thuộc lớn vào đặc điểm tài
nguyên nước mà trong đó dòng chảy
sông ngòi đóng vai trò vô cùng quan
trọng. Cả nước có 2.732 con sông có
chiều dài từ 10 - 586 km với tổng lượng
chảy/ năm khoảng 830 - 840 tỷ mét khối
nước; lượng nước sinh ra trên đất Việt
Nam chiếm 38,5%, phần từ nước ngoài
chảy vào Việt Nam chiếm khoảng
61,5%. Lượng nước không đồng đều
giữa các hệ thống sông, hệ thống sông
MeKong (Cửu Long) chiếm 60,4%, hệ
thống sông Hồng chiếm 15,1% và các
con sông còn lại chiếm 24,5%.
Nước là tài nguyên đặc biệt quan
trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống
và môi trường. Nước không thể thiếu cho
sự tồn tại và phát triển của thế giới sinh
vật và nhân loại trên trái đất. Nước
quyết định sự tồn tại, phát triển bền
vững của đất nước; mặt khác nước cũng
có thể gây ra tai họa cho con người và
môi trường. Tài nguyên nước là nguồn
tài nguyên thiên nhiên có thể tái tạo
nhưng cũng có thể cạn kiệt tùy vào tốc
độ khai thác của con người và khả năng
tái tạo của môi trường.
2. Khai thác nguồn nƣớc quá mức d n
đến cạn kiệt và ô nhiễm nƣớc dƣới đất
Việt Nam hiện bị xếp vào nhóm
quốc gia thiếu nước do lượng nước mặt
bình quân đầu người ở nước ta đạt
khoảng 3.840m3/ người/ năm. Theo tiêu
chí của Hội Tài nguyên nước quốc tế
(IWRA). Thì ở thời điểm hiện nay Việt
Nam đã thuộc số quốc gia thiếu nước
trong tương lai gần. Suy thoái tài
nguyên nước trên các lưu vực sông sẽ
ảnh hưởng nghiêm trọng tới hàng chục
triệu người dân và hoạt động sản xuất.
Những hộ dân cư sống bằng nước giếng
khoan và những thành phố sử dụng
nước ngầm như Hà Nội, TP Hồ Chí
Minh sẽ phải đối mặt nguy cơ thiếu
nước sinh hoạt trầm trọng. Điều này
không chỉ ảnh hưởng lớn tới mục tiêu
phát triển kinh tế bền vững của Việt
Nam. Tài nuyên nước ở nước ta phân
bố không đều và biến đổi mạnh theo
thời gian. Theo khảo sát của UNICEF
và Bộ Y Tế, chỉ có 70% cư dân đô thị
được sử dụng nước sạch và con số này
ở nông thôn còn đáng báo động hơn, rõ
ràng câu chuyện an ninh nguồn nước
vẫn luôn là nỗi lo của mọi người. Vì
vậy cộng đồng chung tay trong công tác
bảo vệ môi trường để bảo vê nguồn tài
nguyên nước.
Thực trạng khai thác nước ngầm tại
TP Hồ Chí Minh đã và đang khiến mực
nước dưới đất tiếp tục giảm nhanh chóng.
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 100
Hiện mực nước ngầm đo đạc được ở độ
sâu -34,5m tại quận 12, -26,85m tại
huyện Bình Chánh và -19,63m đến -
21,5m tại huyện Hóc Môn Theo ông
Nguyễn Thanh Hùng, Viện Môi trường
và Tài nguyên, cho biết kết quả nghiên
cứu từ năm 2009 đến nay cho thấy, toàn
thành phố không còn khu vực nào có
nguồn nước ngọt sạch. Nồng độ các chất
ô xy hóa, vi sinh, kim loại nặng, chất thải
lơ lửng luôn vượt tiêu chuẩn loại B từ
vài lần đến vài chục lần. Đáng lo ngại
hơn, tình trạng khai thác nước ngầm
nhưng thiếu sự quản lý, kiểm soát đã và
đang tạo cơ hội cho nguồn nước ô nhiễm
xâm nhập sâu vào trong hệ thống nước
ngầm trên toàn thành phố. Kết quả quan
trắc chất lượng nước ngầm của thành phố
do sở Tài nguyên và Môi trường thực
hiện cho thấy, toàn bộ nguồn nước ngầm
tầng nông cách mặt đất khoảng 50m đều
có dấu hiệu ô nhiễm. Hiện ở TPHCM
mỗi ngày có hơn 600.000m3 nước ngầm
bị mất đi do khai thác quá mức. Đây là
con số dựa trên những doanh nghiệp có
đăng ký xin phép khai thác. Còn số
doanh nghiệp đang khai thác nhưng
không xin phép và hộ gia đình tự ý khoan
giếng nước ngầm rất nhiều không có cơ
sở nào để thống kê.
Nước ngầm ngoại thành Hà Nội ô
nhiễm nặng theo Trung tâm Nước sinh
hoạt và vệ sinh môi trường (Sở
NN&PTNT Hà Nội) đã lấy 1.640 mẫu
nước từ các giếng khoan hộ gia đình,
trường mầm non, trạm y tế và 187 trạm
cấp nước tập trung tại 420 xã, thị trấn
khu vực ngoại thành. Qua phân tích, kết
hợp với các tài liệu quan trắc cho thấy
nguồn nước ngầm bị nhiễm bẩn và đang
lan rộng ở nhiều nơi. Tại xã Chàng Sơn,
huyện Thạch Thất, Trung tâm Nước sinh
hoạt và Vệ sinh môi trường lấy 123 mẫu
nước ngầm để phân tích, kết quả có 86
mẫu bị nhiễm bẩn, trong đó có 4 mẫu có
độ đục cao gấp 5 lần quy định cho phép,
28 mẫu có hàm lượng amoni cao gấp
8,33 lần cho phép, 44 mẫu có chỉ số
coliforms, cao gấp 2,68 lần, 3 mẫu có chỉ
số ecoli cao gấp 1,3 lần cho phép.
Kênh mương bị ô nhiễm nặng Giếng dân tự đào không có nước
So sánh với kết quả phân tích
năm2012, nhiều chỉ số ô nhiễm đã vượt 7
- 8 lần như amoni và một số hàm lượng
kim loại nặng. Tương tự, tại huyện Phú
Xuyên, trung tâm đã lấy 61 mẫu tại 3 xã
có tới 35 mẫu bị nhiễm bẩn, trong đó có
25 mẫu có hàm lượng amoni cao gấp 8,3
lần quy chuẩn cho phép. Thời gian gần
đây hàng trăm hộ dân thôn Phú Mỹ, xã
Mỹ Đình, huyện Từ Liêm phát hiện ra
nguồn nước sinh hoạt sử dụng trong
nhiều năm nay bị nhiễm chất thạch tín
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 101
(asen) vượt gấp 43 lần mức cho phép
Theo số liệu nghiên cứu của Tổng cục
Thủy Lợi (Bộ NN&PTNT) về phân bố
asen trong đất và nước tại Hà Nội,
khoảng 1/4 số hộ gia đình sử dụng trực
tiếp nước ngầm không qua xử lý ở khu
vực ngoại thành bị ô nhiễm nặng, trong
đó nước có chứa asen, tập trung tại các
huyện Thanh Trì, Gia Lâm. Một kết quả
quan trắc khác của Trung tâm Quan trắc
và Dự báo tài nguyên nước (Bộ
TN&MT) cũng khẳng định, mực nước
ngầm tại Hà Nội đang suy giảm mạnh,
chất lượng nước ở nhiều nơi không đạt
quy chuẩn. Nguồn nước bị ô nhiễm nặng
nhất là gần lưu vực sông Nhuệ, sông
Đáy, cụm công nghiệp, làng nghề và
vùng Phú Xuyên, Ứng Hòa, Thanh Oai,
Thạch Thất, Thanh Trì, Hoài Đức, Từ
Liêm. Riêng nội thành Hà Nội tổng
lượng nước ngầm đang được khai thác
khoảng 750.000m3/ngày đêm. Riêng
công ty Kinh doanh Nước sạch Hà Nội
khai thác gần 500.000m3/ngày đêm. Tuy
nhiên các nhà khoa học đều có chung
nhận định và cảnh báo việc khoan giếng
kiểu UNICEP của các hộ dân “rất phổ
biến trên địa bàn thành phố”, ảnh hưởng
rất lớn đến nguồn nước ngầm, gây hiện
tượng suy soái nguồn nước, đặc biệt là
tạo ra các cửa sổ địa chất thủy văn để
nguồn nước nhiễm bẩn thấm xuống.
Theo thông tin của Trung tâm Quy
hoạch và Điều tra Tài nguyên Nước
Quốc gia - Bộ TN&MT đã thực hiện
quan trắc, điều tra tài nguyên nước dưới
đất tại khu vực Hà Nội đã thông báo diễn
biến tài nguyên nước dưới đất 6 tháng
đầu năm 2013 và dự báo xu thế diễn biến
tài nguyên nước dưới đất 3 tháng cuối
năm 2013 và 3 tháng đầu năm 2014 tại
một số vùng khai thác nước mạnh ở Hà
Nội, mực nước tầng chứa Pleistocene
có xu hướng giảm dần. Đặc biệt công
trình quan trắc “khu vực phường Mai
Dịch, quận Cầu Giấy, Trung Tự, Đống
Đa TP Hà Nội, mực nước đã hạ thấp
sâu vượt quá 50% mực nước hạ thấp
cho phép. Tốc độ hạ thấp trung bình
vào khoảng 0,35m/năm (tính từ năm
1992 - 2012”, mực nước hạ thấp nhất
06 tháng đầu năm 2013 là - 21,82m vào
tháng 2 và -18,46m vào tháng 4, dự báo
3 tháng đầu năm 2014 mực nước hạ
thấp là -23,83m -28,42m.
Tại thành phố Lạng Sơn, Thái
Nguyên, hệ thống giếng khoan khu vực
sông Kỳ Cùng, sông Cầu đang bị ô
nhiễm nặng. Tại Quảng Ninh, Hải
Phòng, hàng loạt giếng khoan đang bị
nhiễm mặn nặng nề do tốc độ khai thác
quá nhanh trên cùng một địa tầng. Ở
nội thành Hải phòng, nhiều giếng
khoan bị nhiễm mặn và mực nước tụt
sâu 1 - 2m.
Đối với các đô thị miền Trung,
nước ngầm được khai thác ở độ sâu nhỏ
“khoảng 10 - 25m”, lớp phủ bề mặt mỏng
nên dễ bị ô nhiễm. Qua khảo sát, phần
lớn các nguồn nước này đều bị nhiễm vi
sinh và một số chỉ tiêu vi lượng vượt
mức cho phép nhiều lần. Đáng quan ngại
là tình trạng xuất hiện hàm lượng thủy
ngân vượt quá giới hạn cho phép có
nguyên nhân từ quá trình khai khoáng,
sản xuất công nghiệp và phân bón
Các tỉnh Tây Nguyên do ảnh hưởng
của biến đổi khí hậu, mất cân bằng sinh
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 102
thái và quan trọng hơn là nạn khai thác,
sử dụng nước không tiết kiệm trên địa
bàn các tỉnh Tây Nguyên hiện nay nguồn
nước ngầm cũng như nước mặt ở đây kiệt
dần, không duy trì được yếu tố bền vững
nhằm phục vụ cho sinh hoạt và sản
xuất.Theo số liệu của phòng Tài nguyên
và Khí tượng Thủy văn (Sở Tài nguyên
& Môi trường Dak Lak) lượng khai thác
tài nguyên nước ngầm ở Dak Lak đã vượt
mức an toàn. Thông số đánh giá việc khai
thác, sử dụng nước ngầm ở mức cho
phép trên địa bàn Dak Lak đưa ra từ
những năm 2000 là khoảng 4 - 4,2 triệu
m
3/ngày, nay đã tăng lên rất nhiều. Đến
nay, dù chưa có con số thống kê chính
xác, nhưng qua đánh giá của các cơ quan
chức năng có thể lên tới gần 6 triệu m3/
ngày, trong đó lượng khai thác nước
ngầm vào những tháng mùa khô chiếm
khoảng 80%. Tình trạng này dẫn đến
điều tất yếu là mực nước ngầm tụt giảm.
Trước đây nhiều nông hộ trồng cà phê
đào một giếng (sâu từ 25 – 30m) có thể
tưới 2 – 3 ha cà phê trong vòng 10 giờ
liên tục, bây giờ chỉ tưới 01 ha là kiệt
nước, phải chờ nhiều giờ sau mới có
nước hồi phục. Còn ở tỉnh Kon Tum và
Gia Lai sử dụng nguồn nước tự chảy, ao
hồ chỉ chiếm 20%, còn lại 80% trong chờ
vào lượng mưa và nước ngầm. Theo Bộ
NN&PTNT, từ năm 2005 - 2012, bình
quân mỗi năm Tây Nguyên mất 25.737ha
rừng. Nếu không giữ được những cánh
rừng đầu nguồn và tiết kiệm nguồn nước
tưới, Tây Nguyên sẽ ngày càng cạn kiệt
nguồn nước ngầm.
Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
nguồn nước dưới đất đang có những dấu
hiệu cạn kiệt, ô nhiễm, nhiễm mặn. Mực
nước của các tầng chứa nước khai thác
bị hạ thấp liên tục theo thời gian. Điển
hình như Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu,
mực nước tầng chứa Pleistocene hạ thấp
với tốc độ là 1m/ năm Nước ngầm
mạch sâu 100 - 180m chất lượng nước
tương đối tốt để phục vụ cho sinh hoạt,
sản xuất công nghiệp, nước ngầm mạch
nông từ 5 - 30m thường bị nhiễm mặn.
Thực tế cho thấy, do ảnh hưởng của
biến đổi khí hậu, quá trình xâm nhập
mặn vào lục địa diễn ra ngày càng
nghiêm trọng hơn có năm vào sâu đến
30km chủ yếu theo sông Hậu và sông
Mỹ Thanh. Độ mặn từ 2,5%0 - 4,5%0.
3. Những nguyên nhân gây ra ô nhiễm,
cạn kiệt nguồn nƣớc mặt và nƣớc ngầm
- Mất rừng đầu nguồn do nhiều dự
án thủy điện được xây dựng ở thượng
nguồn các con sông, hiện tại ở Việt Nam
có khoảng 1200 dự án thủy điện vừa và
nhỏ. Theo tính toán cứ 1Kw phát điện làm
mất 20 ha rừng, theo báo cáo của Bộ
NN&PTNN, tính từ năm 2006 - 2012 có
gần 20.000 ha rừng tại 29 tỉnh, thành bị
chuyển đổi mục đích sử dụng để xây 160
dự án thủy điện. Theo quy định của Chính
phủ, chủ đầu tư công trình thủy điện phải
trồng bù lại diện tích rừng đã bị lấy mất.
Thế nhưng cho đến nay việc trồng bù lại
rừng chỉ đạt khoảng 735ha.
- Khai thác gỗ trái phép, đốt nương
làm rẫy, cháy rừng, chuyển đổi rừng
nghèo để trồng cây công nghiệp, khai thác
khoáng sản tự phát, sức ép về di dân tự do
từ các tỉnh phía Bắc vào Tây nguyên, làm
mất rừng, mất cân bằng sinh thái.
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 103
Đốt rừng trồng cây công nghiệp Đồng bằng hạn hán về mùa khô
- Các dự án xây dựng khu công
nghiệp chưa đánh giá hết tác động đến
môi trường, chất thải rắn, khí thải, nước
thải chưa qua xử lý xả thẳng ra môi
trường, nhất là nhiều loại nước thải độc
hại chưa qua xử lý vẫn còn xả trực tiếp
xuống sông, ao hồ, kênh rạch gây ô
nhiễm ở mức độ đáng báo động. Bên
cạnh đó những bãi chôn lấp rác chưa hợp
chuẩn còn để nước rỉ của rác ngấm vào
đất, chảy ra ngoài môi trường ảnh hưởng
đến nguồn nước và gây ảnh hưởng đến
sức khỏe của cộng đồng dân cư, làm thiệt
hại lớn đến vấn đề phát triển kinh tế.
Theo Ngân hàng thế giới, mức thiệt hại
kinh tế do thiếu quy hoạch quản lý nước
thải và chất thải hợp lý đã chiếm mất
1,3%-1,5% thu nhập quốc dân (GDP) tại
các nước Châu Á.
Theo báo cáo của Viện Khoa học
Quản lý môi trường (Bộ TN&MT), chất
thải rắn trong sản xuất, sinh hoạt gây
nguy hại cho môi trường ở Việt Nam
phát sinh 28 triệu tấn/ năm tăng 10%/
năm. Trong đó có gần 7 triệu tấn từ sản
xuất công nghiệp thông thường, 19 triệu
tấn từ sinh hoạt, khoảng 2,12 triệu tấn từ
lĩnh vực y tế. Cũng theo báo cáo chất thải
rắn từ các đô thị chiếm khoảng 46%, từ
hoạt động sản xuất công nghiệp ở mức
17%, từ khu vực sản xuất nông nghiệp và
nông thôn, y tế chiếm 34%. Dự báo đến
năm 2015, tỷ trọng chất thải rắn phát sinh
từ các đô thị sẽ lên đến 51%, từ hoạt
động sản xuất công nghiệp vào khoảng
22%, nông thôn, y tế ở mức 27%.
- Do sức ép của quá trình đô thị
hóa, gia tăng dân số, di dân tập trung cao
tại các đô thị lớn đã gây tình trạng quá tải
về hạ tầng kỹ thuật, phát triển nhanh quy
hoạch khu dân cư chưa tính đến hệ thống
nước thải sinh hoạt tập trung, chất thải vệ
sinh được thiết kế dưới dạng hầm tự hoại,
sau đó được ngấm thẳng xuống đất.
- Các doanh nghiệp, hộ gia đình
nuôi trồng thủy sản sau khi thu hoạch sản
phẩm, nước thải chưa qua xử lý được xả
thẳng ra môi trường.
4. Một số giải pháp giảm thiểu gây ô
nhiễm môi trƣờng và tài nguyên nƣớc
Luật Tài nguyên Nước và Bảo vệ
Môi trường đưa vào giảng dạy ở các cấp
học trong hệ thống giáo dục của Việt
Nam; phổ biến rộng rãi đến các tầng lớp
nhân dân, các doanh nghiệp trong nước
cũng như doanh nghiệp nước ngoài đầu
tư 100% vốn vào các khu công nghiệp
trong cả nước để họ hiểu biết và chấp
hành tốt hơn. Các hành vi làm tổn hại
đến môi trường và nguồn nước phải được
chế tài bằng công cụ luật pháp đủ mạnh,
cần phải thường xuyên giáo dục nâng cao
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 104
ý thức cộng đồng trong việc giữ gìn môi
trường, bảo vệ rừng, sử dụng tiết kiệm
nước và chống các biểu hiện làm suy
thoái nguồn nước.
- Để xử lý vấn đề vệ sinh môi
trường bảo vệ nguồn tài nguyên nước
trước hết cần phải phối hợp đồng bộ giữa
các bộ ngành liên quan như: Bộ Tài
chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ
Khoa học và Công nghệ, Bộ Xây dựng,
để giải quyết bài toán rác thải, nước thải.
Cần quy hoạch hệ thống hạ tầng kỹ thuật
đồng bộ và quy hoạch xây dựng phát
triển đô thị xứng tầm với các nước trong
khu vực và tiên tiến trên thế giới, cần xây
dựng chiến lược ngành trong dài hạn
Ngày Nước Thế Giới năm 2013 Không gian công cộng Thành phố
- Trong công tác quản lý nguồn
nước, các tỉnh cần phối hợp giữa các
vùng có dòng sông đi qua địa phương
mình. Khu vực dân cư sinh sống có ao
hồ, kênh rạch, đầm lầy, chính quyền địa
phương, các tổ chức đoàn thể vận động
nhân dân ký cam kết không xả nước
thải, chất thải chưa qua xử lý xuống
sông, ao hồ, kênh rạch, đầm lầy để giữ
gìn vệ sinh môi trường và bảo vệ nguồn
nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt.
Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã
quyết định lựa chọn năm 2013 là Năm
Quốc tế về hợp tác về nước
(International Year of Water
Cooperation) và Ngày Nước thế giới
22/03/2013 (World of Day). Chương
trình của Liên hợp quốc UN - Water và
UNESCO đã kêu gọi sự hợp tác về
nguồn nước trên toàn thế giới, đặc biệt là
cách tiếp cận đa ngành, trong đó pha
trộn giữa các ngành khoa học tự nhiên
và xã hội, giáo dục, văn hóa và truyền
thống. Do tính chất nội tại và phổ biến
rộng khắp của nước, vì vậy chính quyền
địa phương, các tổ chức xã hội cần tuyên
truyền về thông điệp của ngày nước trên
thế giới “Nếu tất cả chúng ta cùng chia
sẻ, ai cũng sẽ có cơ hội sử dụng nƣớc”.
Tại các trụ sở cơ quan đơn vị, trường
học, khu công cộng, nơi đông người qua
lại để vận động cộng đồng tham gia bảo
vệ tài nguyên nước.
Tại Việt Nam ngày 12/6/2009,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 27 về
một số giải pháp cấp bách trong công tác
quản lý nhà nước về tài nguyên và môi
trường, qua đó an ninh đối với tài
nguyên nước được đánh giá tương tự
như đối với an ninh lương thực. Đồng
thời triển khai Luật Tài nguyên nước
năm 2012 đã được Quốc hội thông qua.
Đặc biệt chính phủ Việt Nam hưởng ứng
Ngày nước thế giới 22/3 hàng năm, năm
2013 với chủ đề “Hợp tác về nước” với
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 105
thông điệp “Nếu tất cả chúng ta cùng
nhau chia sẻ, ai cũng sẽ có cơ hội dùng
nước”. Chiến dịch Làm cho thế giới sạch
hơn “Clean Up the World” từ ngày 20-
22/9 hàng năm, năm 2013 với chủ đề:
“Nơi sinh sống của chúng ta Hành
tinh của chúng ta Trách nhiệm của
chúng ta” và Ngày du lịch thế giới
ngày 27/9 hàng năm, năm 2013 với chủ