Cổng làng việt

Một chiếc cổng bằng gỗ cũ kỹ đã tróc sơn, mọt cánh hay một chiếc cổng xây bằng gạch rêu phong đã mọc đầy là hình ảnh quen thuộc của làng quê Bắc bộ Việt Nam dù xu hướng đô thị hoá đã len lỏi nơi đây.

pdf16 trang | Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1525 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cổng làng việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cổng làng việt Một chiếc cổng bằng gỗ cũ kỹ đã tróc sơn, mọt cánh hay một chiếc cổng xây bằng gạch rêu phong đã mọc đầy là hình ảnh quen thuộc của làng quê Bắc bộ Việt Nam dù xu hướng đô thị hoá đã len lỏi nơi đây. Những chiếc cổng làng có vẻ như không còn hợp với những con đường bê tông mở rộng, với những xe công nông, ôtô tải ra vào phục vụ những nhu cầu thường nhật ngày càng lớn của người dân nông thôn. Nhưng trong một góc tâm thức nào đó của người dân, cổng làng vẫn tồn tại như một biểu tượng thân thương và đặc trưng của mỗi làng quê truyền thống. Hơn nữa, cổng làng là một trong những biểu tượng văn hoá, bản sắc văn hoá của làng quê ở châu thổ Bắc bộ Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám, ở mỗi làng châu thổ Bắc Bộ thường có một luỹ tre bao quanh khu thổ cư. Làng tương đối khép kín, chỉ để một hoặc hai lối ra vào và chỗ này thường dựng một cái cổng làng là giới hạn giao lưu liên làng và mở ra khu thổ canh. Buổi sáng, cổng làng mở, dân làng đi chợ búa, công việc, hoặc cùng với trâu bò đi ra đồng cày cấy, đến tối lặn mặt trời, sau khi dân làng và trâu bò về thôn rồi thì cổng làng được đóng lại, "nội bất xuất, ngoại bất nhập". Cổng làng không phải là biểu tượng duy nhất của một làng quê mà nó tồn tại cùng với cây đa, mái đình. Đối với những người xa xứ, khi về quê hương, còn cách khoảng 2, 3km là đã có thể nhìn thấy vòm cây đa và biết rằng mình đã sắp sửa về đến làng. Nhưng về tới gần hơn, qua cổng làng mới chính thức bước vào mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình, và coi như đã về tới nhà mình vì người trong một làng thường đối xử với nhau như trong một gia đình. Cổng làng Mông Phụ Qua hai cánh cổng làng đã bạc màu sương gió, nằm dưới bóng một cây đa khổng lồ đã 300 năm tuổi, là những ngõ xóm, đường làng, mái ngói, tường đá ong trong một không gian sinh hoạt cộng đồng mang đậm bản sắc của một làng thuần nông và dấu ấn của một nền văn minh lúa nước. Cổng làng hai bên có lũy tre, lại mở ra cánh đồng nhiều gió mát, dân làng thường đến ngồi chơi và nhiều khi cổng làng là nơi giao lưu tình cảm, trao đổi thông tin. Cổng làng thường tập trung nhiều ở vùng đồng bằng Bắc bộ như ở tỉnh Hà Bắc, Hà Tây, Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình, chủ yếu là những vùng trồng lúa và có văn hoá làng xã. Thực ra, cổng làng nào cũng vậy, đó là nơi thân thuộc với mỗi người dân. Đi xa nhớ ngày về sẽ có người đứng đợi ở cổng làng. Thương nhau cũng hò hẹn ở chốn cổng làng, rồi khi về làm dâu, bước qua cổng làng về nhà chồng, trở thành một thành viên trong cộng đồng dân cư... Giữ làng tức là giữ nước, ở nơi cổng làng không ít người con trai đã lấy thân mình để ngăn giặc. Kể từ khi định đô, lập quốc các triều đại phong kiến đều ra sức củng cố làng và làng luôn được coi trọng. Mỗi cái cổng làng đều có một nét văn hoá riêng, tùy theo đặc điểm làng đó. Có làng giàu, có làng khoa bảng, có làng nghề... tất cả những cái hay cái đẹp đều được các vị túc nho viết thành câu đối khắc trước cổng. Và đó là một phần của văn hóa làng. Mỗi một cổng làng Việt Nam đều có những nét kiến trúc riêng làm tâm điểm trong cái bố cục hài hòa với không gian của con đường làng, lũy tre xanh, cây đa, giếng nước, ao làng và những cánh đồng lúa chín. Kiến trúc cổng làng xưa không cầu kỳ, phô trương, mà chỉ nhằm khẳng định chỗ đứng của mình trong khoảng không gian làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ, vốn "nửa kín, nửa hở", mà giới hạn của nó chỉ mang tính chất tượng trưng. Vẻ đẹp của cổng làng được gắn liền với nền văn minh lúa nước, mang tính phác họa gợi nên những ước vọng của cộng đồng từ đời này qua đời khác, nơi như có dáng đứng của cha, có vòng tay của mẹ, nơi tâm điểm để cho ta lượng đo sức mình khi đi xa và ngược lại nó cũng là nơi hút về những nỗi nhớ, những hoài niệm về quê hương. Cổng làng trong Hà thành Cổng làng thường là một tam quan xây gạch, không to lắm cũng không lớn lắm. Cầu kỳ thì đắp ngói với một vài họa tiết dân gian. Con đường đi qua cổng làng, để lại theo nǎm tháng những lớp bụi quê vô thường, vô thức chứng kiến không biết bao nhiêu sự kiện lớn của làng. Những đám rước, đám hội, những buổi tiễn đưa hay hò hẹn như đều được bắt đầu hay kết thúc ở đây. Nhìn cái vẻ cũ kỹ, quê mùa của nó người quê có thể đọc được khối chuyện. Có cả niềm hân hoan, nỗi bịn rịn ươn ướt trên mi, quệt vào vách cổng, sướt trên cột cổng. Có ai mỗi khi xa quê không ngoái nhìn lại, nhìn lần cuối tam quan làng mình. Tam quan cổng làng được dùng như một qui ước không gian hơn là một giới hạn địa lý của làng. Nó chẳng ngǎn che được gì về vật lý lẫn thị giác. Vậy mà làng không cổng chẳng khác gì nhà không cửa. Nó như một dấu hiệu đánh mốc trong và ngoài của không gian làng. Cái kiểu đánh dấu này vẫn tồn tại trong tâm thức người Việt hiện đại. Một buổi giao lưu trong thiên nhiên, một đám hội hè, hễ có nhiều quần thể khác nhau thì thế nào cũng dựng cổng, định vị "xác định chủ quyền" dẫu thực tế chẳng có gì ngǎn cách. Cổng làng như một nghi thức trong cấu trúc môi trường làng. Có cổng thì ở sát rìa làng, có cổng thì ở tít đầu đường, chỗ giao với cái quan (đường cái) và làng. Vị trí địa lý, vị trí qui ước cũng chỉ làm cái việc đánh mốc không gian làng. Tính mập mờ nước đôi dựa trên cái vô hình, hàm nghĩa hợp với lối tư duy của làng dễ giải thích các hiện tượng thiên nhiên và xã hội của làng. Nắng mưa, may rủi, được mất, hên xui dễ được chấp nhận hay bằng lòng với lối nghĩ này. Cổng làng Yên Phụ Bộ mặt những làng quê Bắc bộ ngày nay đã biến đổi nhiều trước sự xâm thực của làn sóng đô thị hóa ồ ạt. Nhà tầng với nhiều kiểu cách xây dựng pha tạp đã mọc lên giữa những làng quê bao đời mộc mạc, bình dị, phá vỡ ít nhiều cái cảnh quan đã là đặc trưng của nông thôn Bắc bộ suốt mấy trăm năm. Dẫu vậy, nếu có dịp làm một chuyến nhàn du qua các làng quê miền Bắc ta vẫn còn ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của những kiến trúc cổ, những chùa, đình, đền và lǎng miếu, cả những con đường làng nhỏ, quanh co tịch mịch màu rêu như thể thời gian đã bám chặt vào những lớp vôi vữa, những hàng gạch xây, đặc biệt là những cổng làng mỗi nơi một vẻ, có cái đã tồn tại hàng thế kỷ. Cổng làng Bắc bộ như một lời mời chào thành thật nhất để ta bước vào với đời sống làng quê. Đến lúc nào đó, sẽ chỉ còn những cổng nhà Từ con đê xuống, từ cánh đồng vào, qua cổng là ta bước vào thế giới làng, chằng chịt bởi ngõ ngách, đầy ắp bởi nhà, người và những mối liên quan, dây mơ rễ má. Thế giới làng, một thời quây kín bởi lũy tre - tường thành, mở đóng bởi những cái cổng khởi đầu cho con đường làng, dẫn tới sân đình, cổng ngõ và cổng nhà. Sau cái cổng nhà là sân gạch, nếp nhà, cái ao và mảnh vườn,- không gian trú ngụ cho những kiếp người, đã và đang sống. Hệt như Thượng đế tạo tác cơ thể con người, xã hội phong kiến sắp xếp ngôi làng Việt, ngăn nắp dến mức khó bề xê dịch, khó bề cựa quậy. Cuộc đời ngôi làng cứ như thể đặt lên cỗ máy, sàng cho những gì là tinh hoa lọt xuống cái nia thời gian, kết hồ thành một thể thuần và quyện, cả phần xác lẫn phần hồn. Xã hội phong kiến thể chế hóa cấu trúc không gian và kiến trúc của làng. Nó định hình luôn cả quy cách lẫn diện mạo, lấy cái lớn làm cái chung, giành cái nhỏ cho cái riêng. Giàu thì xây đề huề,nghèo thì dựng đơn sơ. Làng nào cũng sở hữu đủ một bộ: đình , chùa, am, miếu, nghè, quán, điếm canh, cổng làng, cổng ngõ... Cổng làng Thổ Hà Cổng làng không chỉ là cột mốc, không chỉ là anh lính canh. Cổng làng còn là cái sự xưng danh, là cái "tôi" của mỗi làng. Ngày xưa, các cụ hay nép, hay né mình trước thiên hạ là thế, song cũng ngấm ngầm hãnh diện bởi cái cổng bề thế, bởi cái đường làng lát gạch, bởi cái giếng khơi kè đá ong và cái đình to tát. Là cổng, làm cái nơi ra vào,song cổng làng Việt hình như hướng "vào" nhiều hơn hướng "ra". Nó đảm nhiệm phận sự gìn giữ. Chẳng thế mà, nghe kể, làng Hồ và làng Bưởi ở Hà Thành xưa, cách nhau có cái vách tường, mà tiếng nói khang khác. Chẳng thế mà dân làng này kháo dân làng nọ có những tập tục lạ. Cổng làng, chiếm giữ vị trí tiền tiêu, canh giữ những dị biệt trong nếp sống và trong lời ăn tiếng nói của mỗi làng. Dị biệt tạo nên sức sống, sức đề kháng của làng, của từng vùng đất, của văn hóa Việt. ...Mấy chục năm nay tôi quan sát một cái cổng làng trên đất Thuận Thành, ở Bắc Ninh. Nó đường bệ hơn cả cổng đền, cổng chùa. Đường dẫn tới cái cổng ấy hai bên mọc những cây bàng, nghiêng vào nhau, như theo lệnh. Một bên cổng là cây đa trăm tuổi, đằng sau là những tán nhãn cổ thụ. Sau nữa là cây gạo cao vút, nhoẻn những nụ cười bởi những đóa hoa to ngô nghê mỗi dạo cuối xuân. Thế rồi, vài năm nay, đằng sau cổng làng chồng chất lên những nhà hộp theo kiểu chia lô. Thế rồi, đằng trước hai dẫy bàng bị đẵn đi, bên đường xây lèn sát nhau toàn những cái nhà xây hình hộp, cộc lốc. Cổng làng Cự Đà Cái cổng làng xưa lâm vào thế định mệnh: Nó không thụt lùi, không dấn lên, không né sang bên được. Nó lọt thỏm và lạc lõng ở chính cái nơi nó ngự trị cả trăm năm. Vôi vữa long lở, cửa tò vò bị mài mòn và sứt sẹo, si và cỏ dại mặc sức mọc trên tầng , trên mái. " Bô lão " cổng, bởi sức nặng của bản thân và thời gian, thấp lùn dần,- nó mọc ngược xuống đất. Cái cổng trở thành vật cản, thành cái người đời tránh né. Cái gì cao và to,-tránh sang hai bên. Người đi qua, tự dưng khom khom. Sợ cộc đầu. Thời đại quá cỡ không còn chui lọt cổng làng. Nó đã là tàn dư. Con người cũng vậy, một khi không lùi cũng không tiến kịp thời gian, đành nhận ra mình đã là tàn dư. Ngày nay người ta thường nói đến di tích, tới di sản. Liệu bao nhiêu làng cổ, bao nhiêu cổng làng trên đất Việt sẽ được liệt vào danh sách bảo tồn ? Cơ man những cơ thể làng già nua, cơ man những cổng làng xưa cũ sẽ phải cam chịu thân phận tàn dư. Đời là vậy ! Thế nhưng lòng ta cứ nao nao, khắc khoải : Đã là tàn dư, hẳn đi vào hư vô. Còn lại gì đây? Nỗi hoài niệm khôn nguôi.