“Công nghệsẽbiến đổi giáo dục” là nội dung một nghiên cứu mới nhất do các 
chuyên gia vềkinh tếvà giáo dục BộThương mại Mỹthực hiện nhằm giúp các nhà 
tuyển dụng hình dung được những tác động của các công nghệmới tới công tác giáo 
dục và đào tạo, trên cơsở đó xây dựng các kếhoạch cần thiết. Wiliam Stalley, Giáo 
sư, Giám đốc Phòng nghiên cứu lượng tửcủa Hãng Hewlett-Packard cho biết: “Tương 
lai của giáo dục = Công nghệ+Giáo viên”.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 1978 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Công nghệ sẽ biến đổi giáo dục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Công nghệ sẽ biến đổi giáo dục 
“Công nghệ sẽ biến đổi giáo dục” là nội dung một nghiên cứu mới nhất do các 
chuyên gia về kinh tế và giáo dục Bộ Thương mại Mỹ thực hiện nhằm giúp các nhà 
tuyển dụng hình dung được những tác động của các công nghệ mới tới công tác giáo 
dục và đào tạo, trên cơ sở đó xây dựng các kế hoạch cần thiết. Wiliam Stalley, Giáo 
sư, Giám đốc Phòng nghiên cứu lượng tử của Hãng Hewlett-Packard cho biết: “Tương 
lai của giáo dục = Công nghệ+Giáo viên”. 
1.Xu hướng thay đổi tất yếu 
Internet và IT đang làm thay đổi mọi mặt của cuộc sống. Nhờ có các công nghệ 
này, chúng ta đang sống, mua, bán, làm việc, quản lý và giao thiệp theo những phương 
thức mới. Các tổ chức đang nghiên cứu áp dụng những công nghệ Internet và IT để 
hợp lý hoá các quá trình tổ chức, tạo khả năng trao đổi thông tin kịp thời, mở rộng thị 
trường ra ngoài biên giới quốc gia và cung cấp các dịch vụ thích hợp với nhu cầu của 
người tiêu dùng. Những năng lực mới này không những giúp nâng cao hiệu quả của 
doanh nghiệp, mà còn buộc các chủ doanh nghiệp phải tư duy lại về thị trường, cải tổ 
lại cơ cấu và các quy trình hoạt động với mục tiêu mang lại những cải thiện đáng kể về 
chất lượng. 
Nhưng nhìn chung, các trường học vẫn nằm bên ngoài lề của cuộc cách mạng 
thông tin. Giáo dục là ngành duy nhất vẫn còn đang tranh luận về ích lợi của công 
nghệ. Đại bộ phận các trường học vẫn còn chưa thay đổi, cách thức tổ chức và phương 
pháp giảng dạy về cơ bản vẫn như cũ mặc dù đã tiến hành một số cuộc cải cách và 
tăng cường đầu tư vào mua sắm máy tính và kết nối mạng. 
Vấn đề không phải ở chỗ đặt quá nhiều kỳ vọng vào công nghệ trong giáo dục, 
mà ở chỗ việc áp dụng còn quá khiêm tốn. Nhiều trường học chỉ đơn giản áp dụng 
công nghệ vào các biện pháp giảng dạy truyền thống, chứ không tìm cách sáng tạo dựa 
theo những khả năng mà công nghệ cho phép. Do vậy, thành quả đạt được nếu có thì 
cũng còn rất hạn chế. 
“Tầm nhìn 2020” giúp hình dung ra cách thức mà công nghệ không những cải 
tiến được việc giảng dạy, mà còn thay đổi quan niệm của ta về giáo dục. Tầm nhìn này 
buộc mọi người phải xem xét lại những giả định truyền thống và mở rộng tầm tư duy 
về cách thức sử dụng công nghệ để đem lại nền giáo dục chất lượng cho từng học viên. 
2. IT và giáo dục trong tương lai 
Tương lai của nền giáo dục sẽ thay đổi rất nhiều bởi những tiến bộ đang diễn ra 
của IT. Nhưng quan trọng hơn là nó sẽ bị tác động bởi cách thức các giáo viên và học 
viên sử dụng IT để chuẩn bị cho việc học tập suốt đời, nhằm đối phó với những thay 
đổi không ngừng diễn ra. Thiên niên kỷ trước, loài người cũng như các công cụ, tiến 
hoá rất chậm, nhưng bước vào kỷ nguyên này, những biến đổi mang tính cách mạng 
liên tiếp xảy ra chỉ cách nhau một thời gian ngắn. Điều này khiến chúng ta rất khó hình 
dung sau vài thập kỷ nữa những công nghệ nào sẽ ra đời, và các tổ chức còn gặp nhiều 
khó khăn hơn nữa trong việc dự kiến sử dụng chúng sao cho có hiệu quả. Những tiến 
bộ công nghệ tăng lên theo hàm số mũ đã gây ra nguy cơ lớn cho mọi người -đó là tình 
trạng dễ dàng bị gạt bỏ bởi dòng thác công nghệ mới và trở nên lạc hậu trước thời 
cuộc. Tuy nhiên, ở trong tay những giáo viên tài giỏi và tâm huyết, IT có tiềm năng rất 
lớn để cải thiện quá trình giáo dục. Mọi người ở bất kỳ lứa tuổi nào, nếu được tiếp cận 
với nó đều có thể học được cách thích ứng với hoàn cảnh thay đổi. Việc quyết định 
xem liệu công nghệ lấn át hay hỗ trợ những học viên tương lai thuộc trách nhiệm của 
tất cả mọi người chứ không chỉ dừng ở người phát triển hay tiếp thị sản phẩm. Hơn 
bao giờ hết, cần phải có những nỗ lực chung của những người làm công việc giảng dạy 
và các bậc phụ huynh để đảm bảo công nghệ được sử dụng đúng đắn ở lớp học, sao 
cho giáo dục trở thành một bộ phận cấu thành của cuộc sống. 
Những công cụ giáo dục trong tương lai 
Dựa vào những tiến bộ trong thời gian qua của ngành điện tử, ta có thể dự đoán 
sơ bộ một số công cụ sẽ ra đời 20 năm sau: 
- Những máy tính cầm tay (hoặc mang trên người) sẽ có khả năng tính toán 
nhanh gấp 10.000 lần so với những máy hiện nay và do vậy sẽ có năng lực xử lý dữ 
liệu ngang bằng với bộ não con người. Chúng sẽ là những trung tâm của các trợ tá số 
có khả năng lưu trữ lượng thông tin văn bản lớn hơn gấp 10 số lượng mà một người có 
thể đọc cả đời. Những trợ tá đó sẽ kết hợp các chức năng hiện nay của điện thoại, trình 
duyệt web, máy ghi và phát cả âm thanh, lẫn hình ảnh. Thông qua web vô tuyến, 
chúng có khả năng tải xuống các thông tin hình ảnh nhiều hơn khối lượng một người 
có thể xem trong cả đời. 
- Các trợ tá số có khả năng đàm thoại thực sự, đáp ứng được các yêu cầu bằng 
lời nói và khi chưa hiểu chúng sẽ đặt thêm câu hỏi. 
- Các công nghệ màn hình cũng có những tiến bộ vượt bậc. 20 năm nữa, ta có 
màn hình ở kính mắt để có thể thấy những hình ảnh ảo hoặc ghi được, mà người đeo sẽ 
lĩnh hội như một bức tranh tả thực 3 chiều rất rộng lớn. Những chiếc kính đó có khả 
năng gần như liên tục xếp chồng hoặc trộn lẫn những hình ảnh ảo, đo từ xa với thế giới 
thực. 
Viễn cảnh giáo dục tương lai 
Nếu chúng ta chấp nhận các dự báo này thì điều gì sẽ xảy ra với tương lai của 
giáo dục và học tập? Có 2 kịch bản đối lập nhau có thể dự đoán được từ những xu thế 
hiện nay. Kịch bản thứ nhất vẽ ra một bức tranh đen tối, nhưng hoàn toàn có khả năng 
xảy ra; còn kịch bản thứ 2 đề cập đến một tương lai tốt đẹp, trong đó giữa các giáo 
viên và công nghệ có sự phối hợp nhịp nhàng để giúp học sinh phát huy hết khả năng 
của mình. 
Viễn cảnh đen tối 
Việc áp dụng mù quáng và sử dụng không thông thạo IT ở lớp học có thể làm 
cho các thế hệ học sinh tương lai không có khả năng tương tác với nhau và khó đối 
phó với những sự việc bất ngờ xảy ra trong cuộc sống thường nhật. Suy luận từ cách 
thức sử dụng máy tính hiện nay ở các trường học, nơi các giáo viên không hiểu biết về 
công nghệ, hoặc bị nó đe doạ, ta dễ dàng thấy trước được một tương lai không mấy tốt 
đẹp, khi các giáo viên tiểu học lạm dụng công nghệ để bắt học sinh trật tự và ngoan 
ngoãn vâng lời. Bản thân học sinh cũng sẽ “nghiện” thế giới ảo mà chúng được tiếp 
xúc thường xuyên, thậm chí ưa thích thế giới đó hơn thế giới thực. Kịch bản này cho 
biết, trẻ em tương lai sẽ ít giao tiếp với nhau hơn, sự giao tiếp của chúng với thế giới 
cũng sẽ hạn hẹp hơn và chúng sẽ trở nên không còn thích hợp với xã hội. Điều này 
hoàn toàn không hề xa lạ, vì ngay bây giờ ta đã chứng kiến cảnh giới trẻ đi học về là 
chúi đầu vào các trò chơi điện tử hoặc tán gẫu trên mạng, chứ ít nô đùa với nhau ở các 
sân bãi. 
Một bức tranh khác cũng hoàn toàn có thể xảy ra là các học sinh tương lai sẽ có 
quá ít kinh nghiệm với thực tiễn. Nếu chúng thường xuyên được hưởng các kịch bản 
đã được xây dựng sẵn và các mô hình ảo thì chúng không được chuẩn bị các kỹ năng 
để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh. Một mô hình chỉ có thể đưa vào được những 
hành vi mà mọi người đã hiểu và đã từng có kinh nghiệm, tuy nhiên cuộc sống bao giờ 
cũng phức tạp và đầy rẫy những điều mà người lập trình dù giỏi đến đâu cũng không 
lường hết được. Bởi vậy, người học sinh nếu được dạy dỗ bằng những giải pháp có sẵn 
cho từng vấn đề thì sẽ trở nên rất máy móc trong cách ứng xử. 
Hơn thế nữa, nếu phần mềm giáo dục lại chỉ như một sự mở rộng thêm của các 
trò chơi trên máy tính hiện nay, thì học sinh sẽ có những nền tảng kiến thức đồng nhất 
và sẽ có những phản ứng giống nhau đối với cùng một tác động (kích thích). Cách 
thức sử dụng công nghệ như vậy có thể phá hoại trí sáng tạo của giới trẻ và biến chúng 
thành những cỗ máy chỉ biết phản ứng với những kích thích đã được chuẩn bị sẵn, 
chẳng hạn như những chương trình quảng cáo hoặc tuyên truyền chính trị. 
Liệu điều đó có nghĩa là phải cấm trẻ em sử dụng máy tính, giống như không 
được hút thuốc lá hay không? Không cần như vậy và cũng không thực tế. Những máy 
tính năng lực cao có thể và cần phải được sử dụng để khuyến khích và nâng cao trí 
sáng tạo của mọi người. Tuy nhiên, các giáo viên cần phải cân nhắc kỹ lưỡng cách 
thức áp dụng và xây dựng các giai đoạn học tập với máy tính như một cấu phần trong 
công tác giáo dục. 
Kịch bản lạc quan 
Ở kịch bản lạc quan, khi biết cách sử dụng đúng đắn các công nghệ mới ở lớp 
học, chúng có tiềm năng khuyến khích sự khác biệt và óc sáng tạo. Rất ít người có khả 
năng dùng bút vẽ để tạo ra các bức tranh lớn hoặc dùng dụng cụ âm nhạc để tấu lên 
những bản giao hưởng, nhưng nếu có công nghệ và phần mềm thích hợp, mọi người 
lại có thể dùng kỹ thuật số để tạo nên những bức tranh và âm thanh theo trí tưởng 
tượng của mình. Điểm này giúp mở rộng phạm vi công việc mà mỗi người có thể đảm 
nhận để thể hiện các khả năng của bản thân. Mấu chốt ở đây là sử dụng công nghệ như 
một công cụ tăng sức sáng tạo, chứ không phải là những hạn chế cứng nhắc. 
Tương lai này dựa trên giả định mọi người đều có ý thức trách nhiệm xã hội 
cao, tham dự vào việc tạo ra phần mềm và môi trường phục vụ học tập. Để làm được 
điều này, mỗi người phải hiểu biết tốt hơn về công nghệ và sử dụng kiến thức đó vào 
việc thiết kế các công cụ để có được phương pháp sư phạm đúng đắn. 
Có một câu ngạn ngữ nói rằng: “Nếu có tầm nhìn mà không có một kế hoạch đi 
kèm thì vẫn chỉ là mơ ước còn nếu có kế hoạch, nhưng lại không có tầm nhìn thì công 
việc sẽ cực nhọc, còn khi vừa có cả tầm nhìn lẫn kế hoạch thì có thể thay đổi thế giới.” 
Những tầm nhìn này sẽ được dùng để định hướng cho kế hoạch công nghệ giáo dục 
trong tương lai.