Cũng giống như thông tin trên môi trường Internet, hàng hóa hiện nay đang được 
luân chuyển khắp thế giới với mức hiệu quả ngày càng cao.  Tuy nhiên Paul 
Makillie đã chỉ ra những nguy hiểm tiềm ẩn trong chuỗi cung ứng hiện đại.
Louisville,  Kentucky vào  2  giờ sáng. Chiếc hãm động cơ phản lực đang gầm rú làm 
giảm dần tốc độ của máy bay phản lực MD-11 khi nó chạm bánh xuống đường băng để 
di chuyển về hướng những toà nhà sáng đèn nằm rải rác trong sân bay.  Vài giây sau 
khi dừng lại và kết nối với thang lên xuống,  những cảnh cửa lớn được mở ra và rất 
nhiều người chạy đi chạy lại với đủ loại thiết bị.  Tuy nhiên những người đó không phải 
đang thực hiện công việc đưa hàng trăm khách hàng xuống máy bay mà thay vì đó là 
nhiều container hàng hóa chứa đầy bên trong là các bưu kiện và bưu phẩm.  Ngay sau 
đó tất cả các bưu kiện sẽ được lấy ra và gia nhập vào 300.000 gói hàng đang được sắp 
xếp hàng giờ tại UPS Worldport.
Mỗi một kiện hàng sẽ được tự động chụp ảnh,  cân đo và thông tin của nó sẽ được lưu 
trên hệ thống siêu mã vạch để rồi sau đó được phân tích bởi các máy tính nhằm xác 
định đường đi của kiện hàng trong số 17.000 băng tải đang chạy.  Điều này đòi hỏi một 
năng lực điện toán vô cùng lớn: cứ mỗi 30 phút thì dữ liệu ở đây được xử lý nhiều hơn 
dữ liệu được xử lý của Sàn giao dịch chứng khoán New York trong cả ngày.  Sau cùng 
thì các kiện hàng sẽ tuột xuống theo một đường trượt để vào trong các túi hoặc các 
container bưu phẩm.  Và trước khi bình minh ló rạng,  tất cả các kiện hàng đã tiếp tục 
chuyến đi của mình trên một chiếc máy bay khác hoặc trên các chuyến xe vận tải
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 27 trang
27 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2288 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cung ứng hàng hoá trong thời đại Internet, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cung ứng hàng hoá trong thời đại Internet (phần I) 
Cũng giống như thông tin trên môi trường Internet, hàng hóa hiện nay đang được 
luân chuyển khắp thế giới với mức hiệu quả ngày càng cao. Tuy nhiên Paul 
Makillie đã chỉ ra những nguy hiểm tiềm ẩn trong chuỗi cung ứng hiện đại. 
Louisville, Kentucky vào 2 giờ sáng. Chiếc hãm động cơ phản lực đang gầm rú làm 
giảm dần tốc độ của máy bay phản lực MD-11 khi nó chạm bánh xuống đường băng để 
di chuyển về hướng những toà nhà sáng đèn nằm rải rác trong sân bay. Vài giây sau 
khi dừng lại và kết nối với thang lên xuống, những cảnh cửa lớn được mở ra và rất 
nhiều người chạy đi chạy lại với đủ loại thiết bị. Tuy nhiên những người đó không phải 
đang thực hiện công việc đưa hàng trăm khách hàng xuống máy bay mà thay vì đó là 
nhiều container hàng hóa chứa đầy bên trong là các bưu kiện và bưu phẩm. Ngay sau 
đó tất cả các bưu kiện sẽ được lấy ra và gia nhập vào 300.000 gói hàng đang được sắp 
xếp hàng giờ tại UPS Worldport. 
Mỗi một kiện hàng sẽ được tự động chụp ảnh, cân đo và thông tin của nó sẽ được lưu 
trên hệ thống siêu mã vạch để rồi sau đó được phân tích bởi các máy tính nhằm xác 
định đường đi của kiện hàng trong số 17.000 băng tải đang chạy. Điều này đòi hỏi một 
năng lực điện toán vô cùng lớn: cứ mỗi 30 phút thì dữ liệu ở đây được xử lý nhiều hơn 
dữ liệu được xử lý của Sàn giao dịch chứng khoán New York trong cả ngày. Sau cùng 
thì các kiện hàng sẽ tuột xuống theo một đường trượt để vào trong các túi hoặc các 
container bưu phẩm. Và trước khi bình minh ló rạng, tất cả các kiện hàng đã tiếp tục 
chuyến đi của mình trên một chiếc máy bay khác hoặc trên các chuyến xe vận tải. 
Khoảng vài trăm dặm về hướng Tây Nam ở Memphis, Tennessee, còn có nhiều hơn 
các chuyến bay đang bay trên bầu trời đêm. Đây chính là trục vận tải toàn cầu của 
FedEx. Và trong vài tiếng đồng hồ tới đây, cứ mỗi 90 giây sẽ lại có một chiếc máy bay 
hạ cánh. Mỗi một chiếc máy bay sẽ có một lôgô công ty riêng được sơn trên đuôi máy 
bay. ở khắp các nơi, các đầu kéo lấy hàng trong container và những xe chở hàng chạy 
đi chạy lại. Các tài liệu văn bản được sắp xếp vào một mê cung các loại thiết bị. Trong 
một toà nhà khổng lồ có tên là “ma trận”, các bưu kiện được trải dài tới 300 dặm trên 
các băng tải. Và trước bình minh, các bưu kiện này cũng sẽ lại xuất phát đến địa điểm 
mới. 
Và khi màn đêm tiếp tục phủ xuống phía Tây bán cầu, cảnh tượng tương tự cũng diễn 
ra tại các sân bay Manila, Đài Bắc, Hồng Kông, Mumbai, Quảng Châu, Dubai, Côlônhơ, 
Paris và Anchorage. Hàng hóa được vận chuyển thông qua các trục vận tải này bao 
gồm đủ loại từ những thứ được mua trên eBay cho đến phụ tùng thiết bị, hoa tươi, 
sách, máy tính, tế bào cấy ghép - bất kỳ thứ gì có thể tưởng tưởng được. Thậm chí cá 
voi sống cũng đã từng được chuyển bằng FedEx. Và khi màn đêm tràn đến Hoa Kỳ một 
lần nữa, những ánh đèn hạ cánh máy bay lại tiếp tục sáng lên trên bầu trời Louisville và 
Memphis. 
Những chiếc thuyền buồm của thế kỷ 21 
Giám đốc điều hành Fredrick Smith của FedEx đã từng 
so sánh những chiếc phi cơ vận tải của công ty mình 
như những chiếc thuyền buồm đã từng chuyên chở rất 
nhiều hàng hóa bằng sức gió như trước đây. Ông 
Smith là người tiên phong trong thập kỷ 70 thực hiện 
công việc chuyển phát nhanh vài trăm kiện hàng bằng 
đường không trong thời gian một đêm đến một vài 
thành phố tại Mỹ bằng các phi cơ Falcon với kích cỡ của các phản lực hạng doanh 
nhân. Tại sân bay Memphis lúc đó, các kiện hàng được sắp xếp trên một chiếc bàn. 
Rất nhiều người vào thời điểm đó đã cho rằng Smith là người điên: sẽ không có một ai 
trả tiền chỉ để gửi một kiện hàng bằng đường không. Lúc đó Smith đã gần như phá sản. 
Tuy nhiên thì mới đây FedEx đã đặt hàng nhiều hạm đội máy bay hai khoang A380 để 
giải quyết nhu cầu to lớn. Đối thủ của FedEx là UPS cũng đặt hàng những chiếc Airbus 
khổng lồ. Không một công ty nào sếp bất kỳ một ghế hành khách nào trên các chuyến 
bay của họ. Tất cả chỗ trống đều được giành để chở hàng. Nếu như FedEx và UPS là 
những hãng vận tải hàng không chở khách thì có lẽ họ sẽ đứng vào hàng ngũ những 
hãng hàng không lớn nhất thế giới hiện nay. 
Trong một nỗ lực định dạng lại thương hiệu, UPS đã sơn câu khẩu hiệu “Nhất thể hóa 
thế giới thương mại” lên 
hơn 270 chiếc máy bay và 
90,000 phương tiện vận tải 
của mình, kể cả những 
chiếc xe tải có màu nâu 
xám đặc trưng của UPS. 
Mặc dù khẩu hiểu này nghe 
không được kêu nhưng nó 
lại là một sự miêu tả hết 
sức khéo léo lĩnh vực kinh 
doanh đang vượt ra khỏi 
giới hạn đơn thuần chỉ là 
vận chuyển mọi thứ. Ngày 
nay, các công ty bao gồm 
từ các hãng xe tải cho đến 
các công ty giao nhận, các 
hãng tàu, các hãng vận 
chuyển hàng không và các 
bưu điện đều thiên về sử dụng từ “hậu cần” để mô tả hoạt động kinh doanh vận chuyển 
của mình. 
Hậu cần về mặt gốc gác là một thuật ngữ quân sự. Các vị tướng đều hiểu rằng bất kỳ 
cuộc chiến nào đều có thể thắng hay thua bởi vấn đề hậu cần. Ngày nay các công ty 
ngày càng quan tâm nhiều hơn đến việc hoạch định chiến lược hậu cần cho riêng 
mình. Dưới áp lực liên tục phải giảm chi phí và tăng doanh thu trên toàn thế giới, các 
công ty đang tiến hành ký hợp đồng liên kết để chuyển các hoạt động kinh doanh của 
mình cho các thầu phụ, những công ty có khả năng thực hiện công việc tốt hơn và rẻ 
hơn, đồng thời đưa hoạt động sản xuất kinh doanh đến những quốc gia có chi phí sản 
xuất thấp. 
Toàn cầu hóa đòi hỏi phải có sự kết hợp ngày càng lớn giữa các loại hình vận tải 
đường bộ, đường không, đường biển, đường sắt, và hiện tại thêm nữa là một loại hình 
hoàn toàn mới: Internet. Điều này khiến cho hoạt động hậu cần trở nên cực kỳ phức 
tạp. Công việc đảm bảo cho tất cả các loại hình trên kết hợp hoạt động với nhau được 
gọi là quản lý chuỗi cung ứng. Thomas Freese, một chuyên gia tư vấn người Mỹ trong 
lĩnh vực này, đã lý giải: “Quản lý chuỗi cung ứng là một bước tiến hóa của hoạt động 
hậu cần. Hậu cần mang tính chiến thuật trong khi quản lý chuỗi cung ứng lại mang tính 
chiến lược”. 
Các chuỗi cung ứng đang không chỉ ngày càng dài ra mà ngày càng trở nên phức tạp 
hơn. Quản lý chuỗi cung ứng ngày nay bao gồm bất kỳ thứ gì bao gồm từ mua nguyên 
liệu thô cho đến quản lý nhà cung ứng, kho hàng, điều hành các hạm đội vận tải, nhận 
đơn hàng, thu tiền thanh toán, sửa chữa sản phẩm hay thậm chí trả lời điện thoại tại 
các trung tâm điện thoại. Các công ty ngày nay cũng liên kết chuyển giao các dịch vụ 
quản lý chuỗi cung ứng này ra bên ngoài. 
Tuy vậy thì 
quản lý chuỗi cung ứng không đơn thuần chỉ là cắt giảm chi phí kinh doanh. Nó cũng có 
thể được áp dụng để tăng doanh số và lợi nhuận mà không cần phải cắt giảm chi phí. 
Thậm chí một số công ty đã thiết kế lại chuỗi cung ứng của mình để nhằm có được một 
năng lực cạnh tranh lớn. Điều gì đã giúp cho Wal-Mart vượt lên trên Sears trong cuộc 
chiến bán lẻ, giúp cho Dell vượt lên trên Hewlett-Packard trong lĩnh vực kinh doanh 
máy tính cá nhân và Zara vượt xa Marks & Spencer trong ngành thời trang? Theo như 
lời của Yossi Shefi, Giám đốc trung tâm công nghệ vận tải và hậu cần Massachusettts, 
đã giải thích rằng những công ty dẫn đầu thị trường đó tất cả đều có một chuỗi cung 
ứng có khả năng phản ứng đối với nhu cầu khách hàng hiệu quả và nhạy bén hơn. 
Các yếu tố như vận tải, mua vào và kho hàng thường chỉ được coi là chi phí kinh doanh 
và quản lý như là những thực thể độc lập. Tuy nhiên hiện nay các vấn đề này lại trở 
thành các câu chuyện chiến lược trên chương trình nghị sự của các giám đốc điều 
hành. Lý giải vấn đề này, Rick Blasgen, người từng làm việc cho một tập đoàn thức ăn 
lớn của Mỹ và hiện đang phụ chính Hội đồng chuyên gia quản lý chuỗi cung ứng, đã 
nói: “Những người phụ trách chuỗi cung ứng hiểu rất rõ một công ty được vận hành ra 
sao vì họ phải giải quyết rất nhiều vấn đề trong hoạt động hàng ngày của công ty”. 
Tuy nhiên chuyên đề nghiên cứu này cũng sẽ chỉ ra rằng chuỗi cung ứng cũng tiềm ẩn 
trong nó những mỗi nguy và việc quản lý rủi ro đang ngày càng trở thành một vấn đề 
cấp bách. Một số hồi chuông cảnh báo trên thực tế đã vang lên. Hầu hết các công ty 
hiện nay tổ chức hoạt động hậu cần theo cánh làm cho nó gọn nhẹ hơn. Nhiều công ty 
đang thực hiên chính sách hàng tồn kho ít thậm chí không có hàng tồn kho để nhằm 
giảm chi phí. Thậm chí đôi lúc cái gọi là hàng tồn kho tại các công ty này chính là hàng 
hóa đang trên đường dịch chuyển trực tiếp từ công ty đến người tiêu dùng trên các xe 
tải hoặc trên máy bay. Nếu như có một trục trặc nào đó xảy ra - và thường là như vậy - 
thì mô hình này có thể sẽ khiến hoạt động kinh doanh hoàn toàn bị đình trệ lại. 
Các chuyên gia đang lo ngại rằng một số công ty không hiểu thấu đáo được những rủi 
ro có thể xảy ra đối với việc vận hành một chuỗi cung ứng quốc tế quá gọn nhẹ - hay 
các công ty này quyết định tảng lờ các rủi ro đó vì sức ép từ phí điối thủ cạnh tranh. 
Đơn cử một ví dụ, các công ty thường mua các đầu vào quyết định từ một nhà cung 
cấp đơn lẻ nhằm tăng quyền của người mua. Tuy nhiên, trên thực tế một số công ty lại 
không biết ai là nhà cung cấp cho thầu phụ của mình - hoặc thậm chí không biết trụ sở 
chính nhà thầu phụ của mình đặt ở đâu. 
Những ví dụ sinh động 
Cách thức mà ba công ty lớn và thành công hiện nay sử dụng chuỗi cung ứng 
như là một vũ khí cạnh tranh 
Các công ty hiện tại đang cải tổ hệ thống hậu cần để đem lại sự linh hoạt phòng khi có 
trục trặc xảy ra. Ví dụ, thay vì đặt toàn bộ cơ sở sản xuất tại các vùng có chi phí thấp, 
các công ty có thể đặt một phần cơ sở của mình - có thể là một kho hàng phản ứng 
nhanh hay một nhà máy thứ hai - gần với hoặc thậm chí ngay trong thị trường tiêu dùng 
lớn của Mỹ hoặc Châu Âu. Điều này sẽ làm tăng chi phí nhưng lại đáng giá vì nó đem 
lại cho công ty năng lực phản ứng nhanh đối với thị trường và là một biện pháp bảo 
hiểm rủi ro. Những bước đi như vậy trong kinh doanh thậm chí đóng vai trò phanh hãm 
cho quá trình toàn cầu hóa, mặc dù luồng luân chuyển thương mại - đặc biệt là đến, đi 
và trong nội bộ Châu á - có khả năng sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. 
Hầu hết các chuyên gia đều đánh giá chuỗi cung ứng của Dell là một trong những chuỗi 
cung ứng chất lượng hàng đầu bất chấp việc công ty máy tính này đang phải đối mặt 
với sự cạnh tranh ngày càng tăng. Thay vì thiết kế các hệ thống máy tính căn cứ vào 
những dự báo về doanh thu rồi để cho các công ty khác thực hiện việc bán hàng, Dell 
bán trực tiếp sản phẩm của mình thông qua trang web và các trung tâm bán lẻ của 
mình và sau đó thiết kế các hệ thống máy tính theo đơn đặt hàng. Cách này không chỉ 
loại bỏ các nhà phân phối và bán lẻ ra khỏi chuỗi cung ứng mà còn thu trực tiếp tiền 
bán hàng ngay từ đầu. Dell chỉ đặt hàng các linh kiện máy tính khi bản thân đã nhận 
được đơn hàng. 
Để có thể cạnh tranh thành công với các đối thủ có chi phí thấp, Dell phải có một 
chuỗi cung ứng đủ khả năng đưa máy tính đến với khách hàng chỉ trong thời gian 
vài ngày. Công ty đã ký hợp tác đưa ra ngoài một số hoạt động như sản xuất linh kiện 
và chuyển phát nhanh, nhưng vẫn giữ lại các dây chuyền lắp ráp tại Mỹ, Ireland, 
Malaysia, Trung Quốc và Brazil. Năm ngoái công ty này đã mở thêm một nhà máy lắp 
ráp máy tính thứ ba tại Winston-Salem, Bắc Carolina, Hoa Kỳ. Nhà máy này cứ mỗi 
năm giây có thể lắp ráp một bộ máy tính. Dell đã quyết định mở rộng sản xuất tại Mỹ 
nhằm thu hẹp khoảng cách với khách hàng, tuy nhiên thì công ty này cũng vấn tiếp tục 
tăng trưởng tại Châu á. 
Đối với vấn đề tốc độ đưa sản phẩm ra thị trường, Dell có rất nhiều điểm tương đồng 
với Zara, một công ty thời trang ngắn ngày thuộc tập đoàn Inditex của Tây Ban Nha. 
Thời trang là một ngành có chu kỳ sản phẩm rất ngắn, dễ bị tác động bởi những thứ 
mới nhất được thấy trên các sàn diễn thời trang hoặc tại các buổi lễ. Các thiết kế viên 
của Zara theo rất sát những xu hướng thời trang đó. Tuy nhiên trong khi một công ty 
quần áo tiêu biểu có cở sở sản xuất tại Châu á phải mất tới 6 tháng để đưa một thiết kế 
mới ra thị trường thì Zara chỉ mất có khoảng 5 tuần. Zara mua một số vải và nguyên 
liệu từ Châu á, thường là bán thành phẩm hoặc chưa qua nhuộm, tuy nhiên phân nửa 
số sản phẩm của Zara được sản xuất trong các cơ sở của công ty này tại La Coruna 
thuộc Tây Bắc Tây Ban Nha, hoặc bởi một số lượng nhỏ các nhà thầu phụ cũng đóng 
tại vùng này. Sản phẩm sau đó sẽ được đưa đến Châu Âu bằng xe tải hoặc bằng hàng 
không đến các cửa hiệu đang được Zara mở trên toàn thế giới. 
Zara không áp dụng phương pháp sản xuất hàng loạt. Mặc dầu một số loại sản 
phẩm có thể được làm thêm, hầu hết các sản phẩm của Zara cho cả nam và nữ đều chỉ 
được sản xuất thành từng số lượng nhỏ. Điều này góp phần tạo ra giá trị khan hiếm: 
nên mua ngay nếu không ngày mai sẽ không còn để mà mua. Phương pháp này cũng 
góp phần giúp cho các cửa hàng trông luôn tươi mới hạn chế việc giảm giá. Tại Zara, 
số lượng các sản phẩm phải giảm giá chỉ chiếm 50% mức trung bình của ngành. 
Cung ứng hàng hoá trong thời đại Internet (phần 2) 
Đằng sau sự thành công của các công ty là một chuỗi cung ứng thành công. 
Thậm chí những người có sự am hiểu về hậu cần hiện nay là những người đang 
điều hành doanh nghiệp. Lee Scott, giám đốc điều hành của Wal-Mart, là người đi 
lên từ bộ phận vận tải và hậu cần của công ty. Và tại Toyota, người lĩnh tiên 
phong của phương pháp sản xuất gọn nhẹ, Katsuaki Watanabe, đã trở thành chủ 
tịch của hãng xe Nhật Bản này vào năm ngoái với danh tiếng là người đã cắt giảm 
khoảng 10 tỷ chi phí cho chuỗi cung ứng của Toyota. 
Tuy nhiên việc mua rẻ hơn từ các nhà cung cấp không phải là cách duy nhất để 
đạt được việc cắt giảm chi phí. Một công việc hấp dẫn khác đó là cắt giảm hàng tồn 
kho. Lý do chủ yếu cho việc lưu giữ hàng tồn kho là làm thông suốt các “máy bơm” cho 
chuỗi cung ứng. Hau Lee, giáo sư về hoạt động, thông tin và công nghệ tại đại học 
Stanford, đã chỉ ra một trong những nguyên nhân lớn nhất gây ra sự không hiệu 
quả trong hoạt động hậu cần. Lee gọi đây là “hiệu ứng roi da”, khi một chiếc roi 
da được quất lên, biên độ dao động của đầu roi tăng dần theo chiều dài của chiêc 
roi. 
Procter & Gamble (P&G), người khổng lồ hàng tiêu dùng, đã phát hiện ra hiệu 
ứng này cách đây một thập kỷ. Công ty này đã phát hiện thấy một hiện tượng kỳ lạ 
xảy đến với Pampers, sản phẩm tã trẻ em dùng một lần nổi tiếng của công ty: bất chấp 
việc số lượng em bé và nhu cầu cho tã khá ổn định, đơn đặt hàng cho sản phẩm 
Pampers vẫn dao động rất mạnh. Điều này xảy ra là do thông tin về nhu cầu sản phẩm 
bị bóp méo tăng dần khi nó được truyền đi trong chuỗi cung ứng. Đơn cử một ví dụ, 
một nhà bán lẻ có thể nhận thấy mức tăng nhẹ trong nhu cầu tã, do đó nhà bán lẻ này 
đã tăng số lượng đặt hàng đối với một nhà bán buôn. Nhà bán buôn sau đó sẽ tăng 
doanh số ước tính của mình lên, làm cho nhà sản xuất phải tăng số lượng sản xuất ra. 
Tuy nhiên nhu cầu tăng lên hóa ra chỉ là không đang kể, và thế là chuỗi cung ứng bị 
thừa hàng tồn kho và đơn đặt hàng lại bị cắt giảm. 
Một dòng thông tin đáng tin cậy hơn có thể làm giảm bớt những biến động kiểu này. 
Một trong những biện pháp đó là sáp nhập chuỗi cung ứng, như P&G đã làm đối với 
Wal-Mart, với các nhà bán lẻ lớn. ý tưởng này là nhằm sắp xếp mọi thứ để đảm bảo 
thông tin bán hàng từ quầy hàng bán lẻ sẽ tự động điều chỉnh số lượng hàng tồn kho 
cần thiết để lưu giữ. 
Đối với một công ty như Wal-Mart, với 60.000 nhà cung ứng chỉ riêng tại Mỹ, việc đảm 
bảo thông tin cho tất cả mọi người có ý nghĩa sống còn. Công ty đã thực hiện điều này 
thông qua hệ thống Retail Link, cho phép các nhà cung ứng liên kết vào mạng nhờ 
kết nối internet bảo mật. Các nhà cung ứng có thể kiểm tra mức độ hàng tồn kho 
và doanh số cho từng quầy hàng đơn lẻ. Có thể Wal-Mart nổi tiếng về sự cắt giảm 
chi phí một cách thô bạo, nhưng việc công ty này đầu tư vào hệ thống thôn tin như vậy 
đã góp phần rất lớn vào việc xây dựng nên một chuỗi cung ứng hiệu quả hàng đầu thế 
giới, có khả năng xử lý hơn 300 tỷ đôla doanh số mỗi năm. 
Theo như lời của Martin Christopher, giám đốc Trung tâm hậu cần và quản lý chuỗi 
cung ứng tại Trường quản lý kinh doanh Cranfield của Anh, thì có một mối liên hệ trực 
tiếp giữa hàng tồn kho và thông tin. Một công ty càng có nhiều thông tin về các nhà 
cung ứng và khách hàng của mình, thì công ty đó càng có nhiều năng lực hoạch định 
chính sách. Việc hiểu rõ hơn từng mắt xích trong chuỗi cung ứng cũng có thể làm tăng 
hiệu quả và giảm bớt rủi ro. Điều này sẽ đem lại mức độ hợp tác cao hơn, theo như lời 
của Patrick Ducasse, giám đốc toàn cầu về hành vi tiêu dùng của Tập đoàn tư vấn 
Boston. Cũng theo ông Christopher, trong tương lai sẽ là các chuỗi cung ứng cạnh 
tranh với nhau chứ không phải là các công ty đơn lẻ cạnh tranh với nhau. 
Các thành viên trong một chuỗi cung ứng luôn hợp tác với nhau thông qua mạng 
internet. Bản thân bạn có thể biết làm cách nào để gửi một sản phẩm, ví dụ từ 
Bangladesh đến Barbados, tuy nhiên công việc này có thể để cho một công ty giao 
nhận hoặc một công ty chuyển phát nhanh thực hiện. Ngày càng nhiều những dịch vụ 
kiểu như thế được cung cấp trực tuyến. Các công ty như INTTRA hay GT NEXUS của 
Mỹ, hiện nay cung cấp hai nền tảng web chuyên nghiệp có khả năng thực hiện rất 
nhiều công việc của các giám độc hậu cần sử dụng phương pháp vận tải bằng đường 
biển. Internet chính là môi trường lý tưởng cho mục đích này, theo như nhận định của 
Greg Johnsen thuộc GT NEXUS: “nó mang tính toàn cầu, nó luôn được bật lên và bạn 
có thể sử dụng nó từ bất kỳ đâu.” Dịch vụ của công ty này, hiện đang cung cấp theo 
yêu cầu phần mềm hậu cần có thể kết nối vào các ứng dụng office đang được sử dụng 
rộng rãi, hiện nay có hơn 40,000 người dùng thường xuyên. 
Các giám đốc hậu cần chuyển hàng hóa của mình thông qua một hệ thống trục-và-nan 
hoa biểu thị cho những người tham gia bằng internet, có điều ở đây tất cả đều vô hình. 
nếu bạn nhìn vào những điểm giao dịch internet lớn nằm rải rác trên thế giới, bạn có 
thể thấy rất nhiều nguồn thông tin, tất cả đề được đề địa chỉ, có thể đọc được, có thể tái 
liên kết và luân chuyển trên đường đi, mà trục vận chuyển hàng hóa vật thể giữa 
Louisville và Memphis là biểu thị tương đương. Và khi mà các hệ thống máy tính đang 
trở nên nhanh hơn và hiệu quả hơn, hàng hóa luân chuyển trong thế giới vật thể cũng 
đang được luân chuyển giống như vậy. 
Mối phức tạp của sản xuất 
Khi mà sự phân biệt giữa quyền sở hữu và điều khiển đang trở nên nhạt nhòa, các 
chuỗi cung ứng ngày các xoắn kết hơn 
Tại Cisco Systems, bất kỳ khi 
nào có một sản phẩm hay linh 
kiện nào thất bại khi kiểm tra, dù 
điều này xảy ra ở đâu trên thế 
giới đối với bất kỳ nhà máy nào, 
công ty này đều nắm rõ. Điều 
này có được nhà nhờ công ty 
sản xuất thiết bị mạng lớn nhất 
thế giới để tăng sức mạnh cho 
internet dã kết nối tất cả máy 
móc thiết bị của các nhà máy 
sản xuất của mình, và kết quả thử nghiệm vì thế có thể được chuyển ngay lập tức đến 
trụ sở chính của Cisco tại San Jose, California. Nếu các kỹ sư của công ty cảm thấy 
không hài lòng với những gì họ nhận được, từ xa họ có thể dừng một dây chuyền sản 
xuất hoặc một trung tâm phân phối cho đến khi vấn đề được xử lý. 
Mức độ minh bạch hóa trong hoạt động sản xuất toàn cầu của Cisco thật đáng nể - bạn 
thậm chí sẽ còn thán phục hơn khi biết rằng công ty này, có khả năng đạt được doanh 
thu 28 tỷ đôla trong năm nay, không sở hữu phần lớn các nhà máy sản xuất ra các sản 
phẩm của Cisco. Cisco tin tưởng rằng việc chuyển hoạt động kinh doanh sang bên 
ngoài sẽ cho phép công ty tăng trưởng nhanh hơn là so với khi tự mình vận hành các 
nhà máy lắp ráp. Tuy nhiên phương pháp này cũng có một vài vấn đề nảy sinh trong 
quá trình thực hiện. 
Trong năm 2000, Cisco đã trở thành công ty có giá nhất thế giới khi mà giá cổ phiếu 
các công ty công nghệ tăng vọt đáng kinh ngạc. Một số khách hàng đã