Không thực hiện được đầy đủ âm mưu xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất, 
thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị tiến công ra Hà Nội lần thứ hai vào năm 
1882. Lấy cớ triều đình Pháp vi phạm hiệp ước 1874, chính phủ Pháp 
tăng cường quân đội cho Bắc kỳ. Chủ chương của thực dân Pháp lúc 
này là sự suy yếu của triều đình Huế để dùng lực lượng quân sự làm áp 
lực buộc phải công nhận nền bảo hộ Pháp trong cả nước.
Chủ trương của triều đình Huế lần này cũng không khác gì lần trước. 
Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu một mặt tích cực tổ chức phòng thủ, mặt 
khác cấp báo về Huế, xin tăng viện. Kết quả là triều đình không tán 
thành, cho phòng thủ như vậy là không phải lúc, địch sẽ lấy cớ gây sự
thêm.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1640 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Cuộc đấu tranh của hai phe chủ chiến - Chủ hòa và những tác động đối với cuộc đấu tranh chống pháp xâm lược (1858 – 1888), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HAI PHE CHỦ CHIẾN - CHỦ HÒA 
CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HAI PHE CHỦ CHIẾN - CHỦ HÒA 
VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH 
CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (1858 – 1888) 
Không thực hiện được đầy đủ âm mưu xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất, 
thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị tiến công ra Hà Nội lần thứ hai vào năm 
1882. Lấy cớ triều đình Pháp vi phạm hiệp ước 1874, chính phủ Pháp 
tăng cường quân đội cho Bắc kỳ. Chủ chương của thực dân Pháp lúc 
này là sự suy yếu của triều đình Huế để dùng lực lượng quân sự làm áp 
lực buộc phải công nhận nền bảo hộ Pháp trong cả nước. 
Chủ trương của triều đình Huế lần này cũng không khác gì lần trước. 
Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu một mặt tích cực tổ chức phòng thủ, mặt 
khác cấp báo về Huế, xin tăng viện. Kết quả là triều đình không tán 
thành, cho phòng thủ như vậy là không phải lúc, địch sẽ lấy cớ gây sự 
thêm. 
Sau khi chiếm thành Hà Nội lần thứ 2, thừa cơ triều đình Huế tự hãm 
mình trong thế bị động, thương thuyết, quân Pháp mở rộng đánh 
chiếm nhiều tỉnh vùng đồng bằng. Nhưng ngay từ ngày đầu đánh 
chiếm, quân Pháp gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của quân dân Hà 
Nội và khắp nơi ở Bắc Kỳ. Tiêu biểu là trận Cầu Giấy lần thứ 2 
(19/5/1883). Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ 2 làm cho quân dân cả nước 
vô cùng phấn khởi, sẵn sàng xông lên tiêu diệt địch. Nghĩa quân các nơi 
quy tụ ngày càng đông dưới ngọn cờ chống Pháp của các quan lại chủ 
chiến. Trong khi đó triều đình Huế vẫn tiếp tục hãm mình trong thế bị 
động thương thuyết, hạ lệnh triệt hết quân để tỏ rõ tín nghĩa với quân 
Pháp và với hoà ước Giáp Tuất (1874). 
Về phía Pháp, lợi dụng thời cơ thuận lợi nên đã đẩy mạnh ý đồ xâm 
chiếm toàn bộ nước ta. Giữa tháng 7/1883 Pháp tiến hành họp bàn kế 
hoạch đánh lên Huế. Muốn đánh Huế phải lấy pháo đài Thuận An. 
Thái độ và hành động của nhà Nguyễn đã thể hiện rõ sự suy yếu, mất 
lòng dân nhưng lại luôn ý thức đến quyền lợi của giai cấp mình. Do suy 
yếu mà sợ giặc mà mất lòng dân nên sợ cả dân. Có điều là sợ Pháp thì 
Nhà nước Nguyễn bắt tay hoà hoãn Pháp đi đến đầu hàng Pháp, phản 
bội quyền lợi dân tộc. Còn sợ dân thì nhà Nguyễn chống lại dân, từ bỏ 
vai trò lãnh đạo, bỏ rơi thậm chí ngăn cản, phá hoại phong trào đấu 
tranh chống Pháp của nhân dân. 
Giữa lúc thực dân Pháp chuẩn bị âm mưu đánh Huế thì ngày 17/7/1883 
vua Tự Đức băng hà sau 35 năm trị vì. Triều đình Huế đang đứng trước 
một thách thức mới: nội bộ rơi vào tình trạng lục đục, chia rẽ trong vấn 
đề tôn vương do Tự Đức không có con. Tình hình này đã tạo thêm cơ 
hội thuận lợi cho Pháp. 
Vậy, trong quá trình cầm quyền Tự Đức là người đứng đầu chèo lái con 
thuyền dân tộc chống chọi với cơn bão táp xâm lược của thực dân 
Pháp. Nhưng tàu nhỏ, sóng lớn nên con thuyền đó đã bị chìm, nhưng 
nhân dân thì không chìm giống nó mà vẫn hiên ngang bất khuất trước 
thách thức kẻ thù. Trong suốt thời gian cầm quyền, Tự Đức là người 
đứng đầu phe chủ hoà trong nội bộ Huế nên đã hoàn toàn lấn áp phái 
chủ chiến. Hành động của ông không ngoài gì khác là luôn tự hãm mình 
trong thế bị động thương thuyết với Pháp để chuộc lại đất sau khi đã 
cắt nhượng cho Pháp trong mỗi lần thua cũng như thắng. Kết quả là đã 
đẩy nước ta ngày càng lệ thuộc vào Pháp. 
2.2.2. Giai đoạn 1883 – 1888 từ sau khi Dục Đúc lên ngôi đến khi lãnh tụ 
phong trào Cần Vương bị bắt 
Chớp thời cơ thuận lợi, triều đình Huế đang rối ren khi vua Tự Đức qua 
đời, Pháp đánh thẳng vào Huế buộc triều đình đầu hàng. Sáng ngày 
18/8/1883, hạm đội Pháp do đô đốc Courbet (Cuốc bê) chỉ huy tiến vào 
cửa biển Thuận An đưa tối hậu thư buộc triều đình dao tất cả các pháo 
đài phòng thủ bờ biển cho chúng. Quân ta kháng cự quyết liệt. Cuộc 
đấu pháo kéo dài 3 ngày liền. Tối chiều ngày 20/8, quân Pháp mới đổ 
bộ lên được Thuận An. Được tin Thuận An mất vào tay Pháp, triều đình 
vội xin đình chiến. Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành đến tìm giám 
mục Caspard (Cố Lộc) làm trung gian để điều đình. Harmand (Hác 
măng) đòi các đồn phải giải giới từ cửa Thuận An lên Huế. Sau đó 
Harmand đi ngay Huế buộc triều đình ký vào bảng điều ước đã được 
thảo sẵn gồm 27 khoản rất nặng. ở ngôi vua lúc này là Hiệp Hoà. 
Công việc của Viện Cơ mật hầu như chỉ do hai đại thần Nguyễn Văn 
Tường, Tôn Thất Thuyết đảm nhận (phái chủ chiến), phụ chính Trần 
Tiễn Thành (phái chủ hoà) vì hai chân đau buốt khó đi lại nên xin miễn 
không phải vào chầu. Mọi việc của Viện Cơ mật đều do hai phụ chính 
(phe chủ chiến) quyết định. Hai ông này chủ trương lấy tấn công làm 
phòng thủ ở cửa Thuận An 
Khi Thuận An thất thủ, vua liền ngả hoàn toàn theo phái chủ hoà vì lo sợ 
giặc. Lúc này trong các quan của Viện Cơ mật và Bộ binh, người chiếm 
ưu thế lại chính là Trần Tiễn Thành và bên cạnh ông ta còn có một 
người mang nặng tư tưởng chủ hoà khác ấy là Thượng thư bộ lại 
Nguyễn Trọng Hợp, người mới được Hiệp Hoà bổ sung vào Viện Cơ 
mật. 
Hiệp ước Harmand được kí kết ngày 25/8/1883. Theo điều ước này, 
Nam triều chính thức công nhận chịu quyền bảo hộ của nước Pháp, 
công việc ngoại giao do công sứ Pháp chủ trương, nước Pháp đặt một 
chức công sứ ở Huế, một chức Khâm sứ. Vua và các đại quan cai trị dân 
như cũ. Khoản 5 của hiệp ước định rằng: Nam triều phải cho thi hành 
việc đình chỉ mọi hoạt động quân sự, gọi các quan ở Bắc Kỳ về làm việc 
như cũ. Thuế thương chính nước Pháp thu, nước Pháp còn giữ việc 
ngoại giao của nước Nam. 
Xứ bộ Nam triều đề nghị nhượng cả xứ Bắc kỳ, từ tỉnh Ninh Bình ra bắc 
cho nước Pháp thuộc địa để lại cho nước Nam từ tỉnh Thanh Hoá cho 
đến hết tỉnh Bình Thuận tự chủ như cũ. Harmand không nghe buộc 
Nam Triều phải chấp nhận ký hoà ước. 
Điều ước Harmand được ký kết chứng tỏ triều đình không còn sức 
kháng cự. Hiệp ước là một nỗi đau xót nhục nhã nhất trong các hoà ước 
thừa nhận sự bảo hộ của Pháp. Sau khi hiệp ước được ký kết triều đình 
cử Nguyễn Trọng Hợp khâm sai đại thần ra Bắc Kỳ nhận lại các tỉnh, 
thành, triệt bãi các quan thứ, hiểu dụ nhân dân để thi hành thoả thuận 
với Pháp. 
Trong khi phe chủ hoà sớm kí hoà ước bắt tay với Pháp thì phe chủ 
chiến vẫn ra sức hoạt động, chuẩn bị lực lượng để chờ ngày sống mái 
với kẻ thù. Dựa vào quyền lực của mình, Nguyễn Văn Tường và Tôn 
Thất Thuyết kiên quyết phế bỏ và trừ khử những ông vua và những thế 
lực thân Pháp. Chỉ trong vòng 6 tháng sau khi Tự Đức mất, liên tiếp có 3 
ông vua bị phế, lập, đó là các vua Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc. Những 
ông vua này đều sớm có tư tưởng thân Pháp làm cản trở phe chủ chiến 
và phong trào đấu tranh của nhân dân. Đồng thời đệ nhất phụ chính đại 
thần Trần Tiễn Thành, người đúng đầu phe chủ hoà cũng bị giết. 
Lợi dụng sự sơ hở của hiệp ước Harmand (25/8/1883) không có khoản 
nào nói tới vấn đề quân sự của triều đình, Tôn Thất Thuyết đã cho 
tuyển mộ binh lính, thành lập và củng cố các sơn phòng. Tại kinh đô, 
Tôn Thấy Thuyết cho tổ chức và đổi mới việc huấn luyện hai đội quân 
Phấn Nghĩa và Đoàn Kết. Đội quân này do Đề đốc kinh thành Trần Xuân 
Soạn chỉ huy. 
Như vậy, Tôn Thất Thuyết sớm có tinh thần chuẩn bị để sẵn sàng đối 
phó với thực dân Pháp. Hành động loại bỏ phái chủ hoà của phái chủ 
chiến đã cho thấy trong nội các Huế chỉ còn phái chủ chiến cầm quyền 
và đối lập với Pháp. 
Không chỉ dừng lại ở đó, phái chủ chiến còn có những hành động khiến 
người Pháp tức giận. Ngày 31/7/1884, Kiến Phúc bị phế, Ưng Lịch lên 
ngôi lấy hiệu là Hàm Nghi mà không thông qua người Pháp. Người Pháp 
vô cùng tức giận nhưng không làm được gì. Hàm Nghi vẫn lên ngôi vua 
theo thể thức nước Nam. Tuy vậy, thực dân Pháp bắt đầu muốn loại bỏ 
phái chủ chiến nhằm đưa phái chủ hoà lên thay. 
Thực dân Pháp đang trên đà thắng thế nên ép triều đình Huế ký thêm 
một hoà ước nhằm có lợi cho Pháp. Hiệp ước Patơnốt được ký kết ngày 
6/6/1884 gồm 19 khoản nhưng không nhẹ hơn hoà ước Harmand. Hoà 
ước này mở rộng quyền đóng quân của Pháp. Để bảo trợ Đại Nam 
Hoàng đế có trách nhiệm giữ lãnh thổ toàn hoả và dẹp hết các giặc, 
nước Pháp sẽ được đóng quân bất cứ chỗ nào nếu thấy xét là cần thiết. 
Hiệp ước Patơnốt đã đặt cở sở lâu dài và chủ yếu của Pháp ở Việt Nam. 
Đến đây giai cấp phong kiến Việt Nam đã hoàn toàn đầu hàng thực dân 
Pháp. Nhà nước phong kiến Việt Nam với tư cách là một nước độc lập 
có chủ quyền đã hoàn toàn sụp đổ. Nước Việt Nam đã trở thành thuộc 
địa của thực dân Pháp.