Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta nửa cuối thế kỷ XIX

Sau các cuộc phát kiến địa lí lớn ở thế kỉ XV và XVI, chủ nghĩa Tư bản và các nước phương Tây được xác lập và đẩy mạnh các cuộc xâm lăng thuộc địa. Việc cướp đoạt châu Mỹ và phương Đông trong thế kỉ XVI đã làm cho Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha trở thành các quốc gia giầu mạnh nhất Sang thế kỉ XVII, Hà Lan mạnh lên, cũng đến Hội An (1636) và Phố Hiến lập thương điếm. Để gây thanh thế và ảnh hưởng ở Việt nam, Hà lan đã can thiệp vào cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn, giúp Trịnh đánh Nguyễn (1642-1643) nhưng việc không thành. Đầu thế kỉ XVIII người Anh có mặt ở Phố Hiến, Thăng Long. Đến đầu thế kỷ XIX (1802) Anh cho quân chiếm đảo Côn lôn, phái binh lính người Mã Lai (Ma-lai-xi-a) đến đóng giữ. Năm 1803, binh lính Mã Lai đã phối hợp với viên quan trấn thủ người Việt Nam nổi dậy tiêu diệt quân Anh, lấy lại đảo. Trong cuộc chạy đua sang phương Đông, tư bản Pháp ngày càng chú ý tới Việt nam thông qua các tài liệu của Hội truyền giáo hải ngoại Pháp cũng như của những giáo sĩ Pháp mà người tiêu biểu là A-lếch-xăng-đơ-Rốt (Alexndre de Rhodes). Đờ-Rốt đến Việt nam từ 1624, ở Việt Nam khoảng 17 năm, tích cực truyền bá đạo thiên chúa ở cả trong Nam lẫn ngoài Bắc: Sau thời kỳ phục vụ vua Bồ Đào Nha, năm 1645 A-lếch-xăng-đờ-Rốt mở cuộc vận động lập các tòa giám mục Pháp ở Viễn đông và hệ thống công giáo bản xứ. Năm 1664 Hội truyền giáo hải ngoại Pháp được thành lập ở Paris. Trong các năm tiếp theo, các giáo hội tích cực hoạt động, vừa truyền đạo, vừa buôn bán, vừa tích cực chuẩn bị lập một dự án xâm lăng Việt Nam. Sau chiến tranh 7 năm giữa Anh và Pháp (1756-1763), nước Pháp thua trận, phải nhường sự chiếm đoạt Ấn Độ cho Anh, Pháp chỉ còn được làm chủ một số thị trấn ven biển. Từ đó tư bản Pháp càng muốn có các thuộc địa ở Viễn đông, nhất là tại Việt nam, nơi mà các giáo sĩ của Hội truyền giáo hải ngoại Pháp và các thương gia của công ty Đông Ấn Pháp đã từng quen biết từ thế kỷ XVII

docx22 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4128 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta nửa cuối thế kỷ XIX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta nửa cuối thế kỷ XIX I.Âm mưu xâm lược Việt Nam của Pháp. Tình hình Việt Nam phong kiến giữa TK 19 1.1.1. Pháp âm mưu thôn tính Việt Nam từ lâu Sau các cuộc phát kiến địa lí lớn ở thế kỉ XV và XVI, chủ nghĩa Tư bản và các nước phương Tây được xác lập và đẩy mạnh các cuộc xâm lăng thuộc địa. Việc cướp đoạt châu Mỹ và phương Đông trong thế kỉ XVI đã làm cho Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha trở thành các quốc gia giầu mạnh nhất Sang thế kỉ XVII, Hà Lan mạnh lên, cũng đến Hội An (1636) và Phố Hiến lập thương điếm. Để gây thanh thế và ảnh hưởng ở Việt nam, Hà lan đã can thiệp vào cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn, giúp Trịnh đánh Nguyễn (1642-1643) nhưng việc không thành. Đầu thế kỉ XVIII người Anh có mặt ở Phố Hiến, Thăng Long. Đến đầu thế kỷ XIX (1802) Anh cho quân chiếm đảo Côn lôn, phái binh lính người Mã Lai (Ma-lai-xi-a) đến đóng giữ. Năm 1803, binh lính Mã Lai đã phối hợp với viên quan trấn thủ người Việt Nam nổi dậy tiêu diệt quân Anh, lấy lại đảo. Trong cuộc chạy đua sang phương Đông, tư bản Pháp ngày càng chú ý tới Việt nam thông qua các tài liệu của Hội truyền giáo hải ngoại Pháp cũng như của những giáo sĩ Pháp mà người tiêu biểu là A-lếch-xăng-đơ-Rốt (Alexndre de Rhodes). Đờ-Rốt đến Việt nam từ 1624, ở Việt Nam khoảng 17 năm, tích cực truyền bá đạo thiên chúa ở cả trong Nam lẫn ngoài Bắc: Sau thời kỳ phục vụ vua Bồ Đào Nha, năm 1645 A-lếch-xăng-đờ-Rốt mở cuộc vận động lập các tòa giám mục Pháp ở Viễn đông và hệ thống công giáo bản xứ. Năm 1664 Hội truyền giáo hải ngoại Pháp được thành lập ở Paris. Trong các năm tiếp theo, các giáo hội tích cực hoạt động, vừa truyền đạo, vừa buôn bán, vừa tích cực chuẩn bị lập một dự án xâm lăng Việt Nam. Sau chiến tranh 7 năm giữa Anh và Pháp (1756-1763), nước Pháp thua trận, phải nhường sự chiếm đoạt Ấn Độ cho Anh, Pháp chỉ còn được làm chủ một số thị trấn ven biển. Từ đó tư bản Pháp càng muốn có các thuộc địa ở Viễn đông, nhất là tại Việt nam, nơi mà các giáo sĩ của Hội truyền giáo hải ngoại Pháp và các thương gia của công ty Đông Ấn Pháp đã từng quen biết từ thế kỷ XVII. Cho dù Công ty Đông ấn của Pháp sau đó bị giải thể, các tàu buôn Pháp không qua lại buôn bán nữa, song các giáo sĩ Pháp vẫn lén lút vào Việt Nam hoạt động. • Tại Đàng Ngoài một số giáo sĩ đội lốt thương gia ở lại Phố Hiến tiếp tục truyền giáo • Ở Đàng Trong, một số giáo sĩ dưới sự chỉ đạo của Bá đa lộc (Pignau de Béhaine), người đã từng phụ trách một chủng viện ở Hòn Đất (Kiên giang), vẫn lén ở lại miền Tây đất Gia Định. Nhờ vậy sau khi chúa Nguyễn bị phong trào nông dân Tây Sơn đánh đổ, giám mục Bá Đa Lộc đã nảy ra ý đồ giúp Nguyễn Phúc Ánh với hy vọng đi trước các nước châu Âu khác, chiếm lấy Việt Nam nhằm khuếch trương thế lực công giáo.  Về phần mình,sau khi đã cầu cứu phong kiến Xiêm, để cho quân Xiêm tàn phá đất Việt Nam từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Vĩnh Long rồi quân Xiêm bị Nguyễn Huệ tiêu diệt ở Rạch Gầm - Xoài Mút (Định Tường), năm 1785 Nguyễn Ánh đã quay sang cầu xin bọn thực dân Tây Âu giúp đỡ.Tại thời điểm đó, chẳng những Pháp mà còn cả Anh, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đều có phái nhân viên đến liên lạc với Nguyễn Ánh, đề nghị được ”viện trợ”. Bản thân Nguyễn Ánh cũng có ý định sang Batavia (In-đô-nê-xi-a) để cầu viện Hà Lan hoặc sang Goa (Ấn độ) cầu viện Bồ Đào Nha, nhưng cuối cùng do có mối quan hệ từ trước, ông ta quyết định nhờ vả người Pháp. Cuối năm 1784, được sự ủy nhiệm của Nguyễn Ánh, Pi nhô đờ Bê hen (Bá đa lộc) đã đem theo ấn tín và người con trai của Ánh là Nguyễn Phúc Cảnh (hoàng Tử Cảnh) lúc đó mới 6 tuổi đi cầu viện Pháp. Trong một tài liệu nói về cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa Bá Đa Lộc và Nguyễn Ánh, được trích trong một bức thư do Bá Đa Lộc viết vào tháng 12/1784 có một đoạn như sau: ”Sau khi sửa chữa xong thuyền... chúng tôi giong buồm về đảo Pulo Punjan (Phú Quốc) để từ đó vượt qua vịnh Xiêm-la. Ở đây một lần nữa chúng tôi đã gặp nhà vua Đàng trong; ông kể lại cho nghe lí do vì sao ông đã sang Xiêm. Họ mượn cớ giúp ông trở lại ngôi vua và lợi dụng danh nghĩa ông để cướp bóc dân chúng. Chính vào thời điểm này, nhà vua đã giao cho tôi chăm sóc người con trai mới lên 6 tuổi mà tôi hiện đem theo đây... sau đó chúng tôi vượt vịnh Xiêm La đến Malaque ngày 19 tháng 12”. Ngày 28/11/1787 giữa Pi-nhô-đờ-Bê-hen đại diện cho Nguyễn Ánh và Bá tước Mông-mô-ranh, đại diện cho Hoàng đế Pháp Lu-i XVI đã kí kết một bản hiệp ước mang tên ”Hiệp ước tương trợ tấn công và phòng thủ” tại Véc-Xây, trong đó người Pháp cam kết gửi binh lính, lương thực, tầu bè, súng đạn sang giúp Nguyễn Ánh khôi phục lại quyền bính. Đổi lại, Pháp được sở hữu Đà Nẵng, đảo Côn Lôn và được độc quyền buôn bán tại Việt nam. Hiệp ước 1787 đã không được thực hiện bởi lẽ ngay sau đó, vào năm 1789 cách mạng Pháp bùng nổ,người Pháp bỏ lỡ cơ hội can thiệp ngay vào Việt nam. Tuy nhiên chúng vẫn không từ bỏ âm mưu của mình và âm mưu đó đã được coi là “quốc sách” để rồi hết chính phủ này đến chính phủ khác ở Pháp thay nhau theo đuổi. Tuy chính phủ Pháp bỏ lỡ cơ hội để thâm nhập vàoViệt nam sau khi ký hiệp ước 1787 nhưng bọn tư bản Pháp ở Ấn Độ Dương vẫn ra sức ủng hộ kế hoạch của Pi-nhô-đờ-Bê-hen, bởi kế hoạch này nếu được thực hiện sẽ đem lại nhiều quyền lợi cho giới tư bản tài phiệt. Chúng đã gửi tàu chiến, sĩ quan, kĩ sư, binh lính, vũ khí đạn dược sang giúp Nguyễn ánh lấy lại đất Gia Định. Bản thân Pi-nhô-đờ-Bê-hen cũng tham gia chinh chiến trong đội quân của Nguyễn Ánh chống Tây Sơn từ Gia Định bến Bình Định cho đến chết như một viên tham mưu trưởng. Sau khi đánh thắng Tây Sơn, năm 1802 Nguyễn Ánh tái lập vương triều Nguyễn. Tuy vậy, nguy cơ bị Pháp nhòm ngó vẫn chưa hết. Sau cách mạng Pháp và chiến tranh châu Âu kéo dài từ 1792 đến 1814 tình hình nước Pháp trở lại yên tĩnh. Giai cấp tư sản Pháp đã lớn mạnh, chúng tiếp tục tìm cách xâm nhập Việt Nam. Năm 1812 Na-pô-lê-ông Bô-na-pac sau khi xem các giác thư của bọn thực dân hoạt động tại Viễn Đông đã ra lệnh nghiên cứu lại hiệp ước Véc-xây (1787). Song ngay năm sau, Hoàng đế Na-pô-lê-ông đệ nhất bị đổ - âm mưu xâm lăng Việt nam của Pháp vì thế chưa thực hiện được. 1.1.2. Bối cảnh thế giới và tình hình nước Việt Nam phong kiến giữa thế kỷ XIX Thế kỉ XVIII và XIX là thế kỉ có đầy rầy những biến động đối với thế giới và khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt nam. Ở phương Tây, giai cấp tư sản các nước lần lượt nắm chính quyền. Công thương phát triển mạnh, khoa học kỹ thuật trong thế kỉ ánh sáng gặt hái được nhiều thành công. Vào những năm 60-70 của thê kỉ XVIII cách mạng Anh đã nổ ra. Cuộc chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ thành công đã đưa giai cấp tư sản lên địa vị thống trị Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Hàng hoá của tư bản các nước ùn ùn được chở ra nước ngoài và cũng tới tấp chở về những vàng, bạc châu báu, hương liệu và các sản vật quý hiếm. Khi thị trường thương mãi đã trở nên chật hẹp, các nước tư bản phương Tây bắt đầu đua nhau kéo sang phương Đông, vừa để bán sản phẩm của nền công nghiệp, vừa đầu tư vốn để kiếm lời trong các ngành kinh doanh, khai thác nguyên liệu và nguồn nhân công rẻ mạt. Vận mạng của các dân tộc bị chủ nghĩa tư bản thực dân phương Tây đe doạ. Giữa lúc đó, trật tự phong kiến ở các nước châu Á đang lung lay trước mâu thuẫn không thể điều hoà giữa giai cấp phong kiến nắm quyền và nông dân trong nước. Cuộc chạy đua xâm chiếm các nước phương Đông làm thuộc địa đã dần dẫn xác lập vị trí của thực dân Anh và Pháp ở vùng này. Cuộc chạy đua xâm chiếm các nước phương Đông làm thuộc địa đã dần dẫn xác lập vị trí của thực dân Anh và Pháp ở vùng này. Tại Trung quốc từ giữa thế kỷ XVII giai cấp thống trị Hán tộc đã phải khuất phục trước sự thống trị của phong kiến ngoại tộc. Nhà Mãn Thanh lên cầm quyền. Trước nguy cơ bị phương Tây xâm lược, phong kiến Trung Quốc vẫn khư khư ôm lấy mớ lý thuyết sáo rỗng cũ kĩ, cho Trung Quốc là trung tâm của nền văn minh thế giới. Đối nội thì ra sức củng cố chế độ chuyên chế độc tài, đối ngoại thì bành trướng và bế quan toả cảng. Trong khi đó thì nước Việt Nam cũng không có gì khá hơn, cũng lại lăn theo vết xe đổ Trung Quốc, dập theo kinh nghiệm Trung quốc để chìm đắm trong giấc ngủ phong kiến ngàn năm.  Về chính trị luật pháp: Sau khi lên ngôi, Gia Long cho củng cố chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền. Trên hết có hoàng đế, nắm tất cả quyền bính; có Cơ mật viện bàn quốc sự lớn lao, nhưng ý kiến quyết định cuối cùng vẫn là ý kiến của nhà vua. Hoàng đế tự xưng là Thiên tử - Con trời, thay trời trị dân. Vua có uy quyền tuyệt đối, cho ai sống thì được sống, bắt ai chết thì kẻ đó phải chết. Ý vua là phép nước và nước là nước của vua. Trong thực tế, vua là một địa chủ lớn nhất, có toàn quyền quyết định trong việc sử dụng ngân khố nhà nước, có quyền tước đoạt bất kì caí gì, của bất cứ ai nếu nhà vua muốn. Lúc đầu thời Gia Long, ở Bắc kì và Nam Kì có đặt chức khâm sai tổng trấn thay mặt vua trông nom, về sau triều đình trực tiếp với tay xuống các địa phương. Các hàng quan đầu tỉnh đều do Nhà nước bổ nhiệm, thông qua thi cử. Ở vùng thượng du, triều đình không có khả năng trực trị thì thông qua các tù trưởng để nắm quyền. Từ Minh Mạng trở đi, tính tập quyền ngày càng cao. Nhà vua tự mình”châu phê", soạn thảo các văn bản, và sắp đặt mọi việc. "Vua sáng suốt về việc chính trị, những tờ sớ dâng lên, vua đều xem hết và trước mặt chỉ bảo cho; hễ việc gì quan trọng tâu lên thì phần nhiều là vua tự nghị soạn lấy, hoặc bảo ra rồi giao phó cho, hoặc châu phê vào. Bản châu phê bắt đầu từ đấy mới có".  Để cai trị những vùng thôn quê rộng lớn, nhà Nguyễn chú trọng tận dụng tầng lớp địa chủ phú hào và chuyển bộ phận này thành công cụ thừa hành đắc lực của quan lại từ cấp tri huyện trở lên và được coi là ”dân quan". Và như vậy, trong khi đám quan lại ở triều đình tự biến mình thành gia nhân trung thành của nhà Nguyễn, thì đám quan lại ở địa phương đã trở thành những kẻ ”cuớp ngày", được dung dưỡng, bợ đỡ, tha hồ đục khoét nhân dân. Năm 1828, Nguyễn Công Trứ tâu rằng: "Quan lại nhũng tệ chỉ mới hai ba phần, còn điêu hào làm hại đến bảy tám phần; cuớp của giết người, giết vợ cuớp con mà trên vẫn không biết, vẫn không tội vạ gì". Việc cai trị trong các làng thì nhất nhất ở tay ban hội tề, hương chức. Ban hương chức có nhiều quyền hành trong làng. Ngoài việc thu thuế, bắt sưu, bắt lính còn đảm đương việc chia công điền, công thổ. Họ đuợc quyền cho mướn công điền để thu tô; lập sổ bộ người và đất, đề ra lệ làng... hình thành cơ chế “tự trị” với những luật kệ hà khắc, phức tạp. Nói cách khác, dưới các thôn xã, quyền bính nằm trong tay bộ phận phú hào, cả về kinh tế, cai trị, giáo dục. Vận mạng của dân làng phụ thuộc vào các tổng lí, kì dịch. Bộ luật Gia Long (còn gọi là Hoàng Việt luật lệ) nói là đã tham khảo bộ luật Hồng Đức thời Lê nhưng thực chất đã gạt bỏ những điều tiến bộ của luật Hồng Đức, sao chép gần hết bộ luật của triều Mãn Thanh, một quốc gia phong kiến phản động nhất châu Á. Trong tổng số 328 điều thì có tới 166 điều là luật hình, 58 điều luật quân sự. Để áp dụng có hiệu lực bộ luật trên, nhà Nguyễn lập ra một tổ chức chuyên trách về tư pháp ở cấp tỉnh gọi là Ty Niết. Quần chúng nhân dân bị áp bức thậm tệ. Ngoài thuế khóa, sưu dịch họ còn phải chịu vô số luật lệ quái gở ví dụ:dù có tiền cũng không được xây nhà lầu. Nhà dân không được làm theo kiểu ”Nội công ngoại quốc”... Dân thường không được ăn vận quần áo có các mầu vàng, lam, tím... chỉ được dùng màu đen, nâu. Không được đi giày... Về kinh tế xã hội: Thời Nguyễn, chế độ sở hữu ruộng đất công đã suy yếu nhiều. Nạn chấp chiếm ruộng đất của địa chủ ngày càng trầm trọng. Sách Minh Mạng chính yếu cho biết vào năm 1840 tại tỉnh Gia Định ”không có ruộng công, các nhà giàu đã bao chiếm ruộng tư đến ngàn trăm mẫu,dân nghèo không được nhờ cậy”. Cũng theo sử cũ, vào năm 1852 trong 31 tỉnh của toàn quốc thì chỉ có hai tỉnh là Thừa Thiên và Quảng Trị là có số ruộng công nhiều hơn ruộng tư. 01 tỉnh là Quảng Bình có ruộng công và ruộng tư bằng nhau, còn lại 28 tỉnh khác ruộng tư nhiều hơn ruộng công, trong đó, phần ruộng tốt thì cường hào chiếm cả, thừa ra thì hương lí bao chiếm. Dân chỉ được phần ruộng xấu, cằn cỗi, xác màu. Nạn cường hào nhũng nhiễu đã nhiều lúc làm cho triều đình Huế lo ngại. Song vì đây là bộ phận riềng cột của chế độ, cho nên dù có biết vậy mà triều đình đành phải làm ngơ. Vì không còn ruộng công để phong cấp cho quan lại như trước, mà lại cần nhiều tiền để chi dùng, nhà nước Nguyễn không có cách nào khác là phải vơ vét bóc lột nhân dân bằng mọi mánh khóe, thủ đoạn. Vì không còn ruộng công để phong cấp cho quan lại như trước, mà lại cần nhiều tiền để chi dùng, nhà nước Nguyễn không có cách nào khác là phải vơ vét bóc lột nhân dân bằng mọi mánh khóe, thủ đoạn. Do bị áp bức trăm đường, không chịu nổi nên nhiều nông dân đã phải bỏ làng mà đi. Có năm tại trấn Hải Dương, trong tổng số 13 huyện, dân phiêu tán mất 108 thôn xã. Để giải quyết tình trạng khó khăn về kinh tế, tài chính, nhà Nguyễn cho thực hiện chính sách khai hoang. Từ 1802 đến 1855 nhà nước ban hành 25 quyết định về khai hoang, trong đó có 16 quyết định cho áp dụng ở Lục tỉnh, 2 ở Bắc thành,1 ở vùng Kinh kì và 6 đối với toàn quốc. Trong Nam cũng như ngoài Bắc, hình thức chủ yếu là chiêu mộ dân lưu tán để khai hoang lập ấp. Đồn điền phát triển mạnh ở Lục tỉnh, theo hình thức: hoặc Nhà nước giao cho binh lính hay tù nhân bị lưu đày khai hoang, hoặc cho tư nhân chiêu mộ dân khai thác. Một số quan lại tổ chức tốt việc khai hoang như Nguyễn Công Trứ lập ra hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải và một số tổng ở Nam Định; Nguyễn Văn Thoại đào sông Núi Sập Thoại Hà, kênh Vĩnh Tế và khẩn hoang vùng Châu Đốc (An Giang); Trương Minh Giảng lập được 25 thôn ở vùng biên giới Việt Nam- Căm Pu Chia; Nguyễn Tri Phương lập được 21 cơ đồn điền và tổ chức 124 ấp ở Lục tỉnh. Diện tích đất nông nghiệp nhờ thế mà đã tăng nhanh so với trước. Theo thống kê vào năm 1820 có 3.076.300 mẫu; năm 1840:4.063.892 mẫu và năm 1847 tăng lên 4.278.013 mẫu. Tuy diện tích canh tác có tăng nhưng tình trạng dân lưu tán vẫn tiếp tục xảy ra vì số đất khai hoang được chỉ một thời gian sau đã lại rơi vào tay giai cấp địa chủ phong kiến. Tình trạng của nông nghiệp đã như vậy, thì công thương nghiệp lại càng bi đát. Dưới thời Nguyễn, nhà nước vẫn duy trì chế độ công tượng cũ. Việc lùng bắt các thợ giỏi đưa về kinh đô phục vụ cuộc sống cung đình khiến cho thủ công dân gian ngày thêm tàn lụi. Thêm vào đó là chính sách ngăn sông cấm chợ, tục giấu nghề và các quy định ngặt nghèo vô lý của nhà nước như cấm buôn bán đồ sắt, cấm khai thác mỏ ở một số vùng; tư nhân không được giao thương với nước ngoài... đã khiến cho các trung tâm thương mại trở nên thưa thớt, công thương nghiệp tiêu điều. Những người thợ khéo tay nhiều khi chỉ được sử dụng vào việc làm thỏa mãn tính hiếu kì của các bậc vương giả... đã khiến cho nền công nghiệp chân chính không thể ra đời.  Chính sách ”bế quan tỏa cảng” khước từ mọi quan hệ thông thương với bên ngoài đã làm cho Việt Nam bị tách biệt với các nước. Chính sách thuế ngặt nghèo lại giáng tiếp đòn nặng nề vào công thương nghiệp làm cho nó không sao phát triển được; công nghiệp cũng không có điều kiện để trở thành một ngành riêng, ngược lại, nó có xu hướng bị hòa tan vào nền kinh tế tự cung tự cấp của xã hội phong kiến lạc hậu. Ách áp bức nặng nề cùng với những chính sách đối nội, đối ngoại thiển cận của Nhà nước phong kiến Nguyễn đã trở thành nguyên nhân của hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài suốt từ thời Gia Long đến thời Tự Đức, trong đó có những cuộc khởi nghĩa lớn kéo dài nhiều năm thu hút hàng ngàn người tham gia, khiến cho mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Trong suốt 18 năm thời Gia Long (1802-1820) có 73 cuộc khởi nghĩa nông dân. Từ thời Minh Mạng trở về sau, cho đến năm 1858, các cuộc khởi nghĩa nổ ra ngày càng nhiều hơn, quy mô ngày càng lớn hơn. Năm 1821 có cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành ở vùng Nam Định (kéo dài tới tận năm 1827). Năm 1833 có khởi nghĩa của Lê Duy Lương ở Ninh Bình, Lê văn Khôi ở Gia Định, Nông văn Vân ở Tuyên Quang. Năm 1854 nổ ra cuộc khởi nghĩa của Cao Bá Quát ở Bắc Ninh...  Trong vòng 7 năm ở ngôi của Thiệu Trị, đã có tới 56 cuộc khởi nghĩa nông dân. Thời Tự Đức, cao trào nông dân khởi nghiã đã làm cho nền tảng chế độ phong kiến lung lay muốn đổ. Đáng chú ý nhất là các cuộc khởi nghĩa của Hoàng Phan Thái, khởi nghĩa của cai tổng Vàng (ở Bắc Ninh) và cuộc khởi nghĩa năm 1854 ở vùng Sơn Tây (giặc Châu chấu) do Cao Bá Quát, một nhà thơ và nhà tư tưởng bậc nhất thế kỉ 19 lãnh đạo. Theo thống kê chưa đầy đủ chỉ từ năm 1848 khi Tự Đức lên ngôi đến năm 1862 là năm thực dân Pháp cuớp trắng ba tỉnh miền Đông Nam Kì đã có 40 cuộc khởi nghĩa và nếu tính đễn năm 1883, khi nhà Nguyễn ký điều ước Hác măng, thừa nhận sự chiếm đóng của Pháp trên toàn cõi Việt nam thì các cuộc khởi nghĩa chống triều đình đã lên tới con số 103. Phong trào nông dân khởi nghĩa nói trên đã khẳng định rằng, vào lúc thực dân Pháp chuẩn bị nổ súng xâm lược nước ta là lúc mâu thuẫn giữa nông dân với phong kiến đã trở nên hết sức sâu sắc. Tuy nhiên nông dân bao giờ cũng là một lực lượng yêu nước quan trọng. Họ tỏ ra hết sức tỉnh táo và nhậy bén trước thời cuộc và có sức sống, sức quật khởi trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Chính quần chúng nhân dân, trong đó chủ yếu là nông dân, chứ không phải là ai khác đã trở thành chỗ dựa của các sĩ phu yêu nước, làm tách một bộ phận phong kiến tiến bộ ra khỏi triều đình phong kiến đầu hàng, tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh chống xâm lăng của dân tộc ta ở giai đoạn sau. II.Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Cuộc kháng chiến ở Đà Nẵng và Gia Định (1858-1859) 2.1. Âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của Pháp Nguyễn Ánh, sau khi lên ngôi (1802) lấy hiệu Gia Long đã có các chỉ dụ đặc biệt ưu ái đối với các giáo sĩ người Pháp. Tuy vậy, sự hoạt động ráo riết của các thế lực theo đạo thiên chúa và các cố đạo người Âu đã khiến Gia long lo ngại, cảnh giác và đề phòng. Năm 1817. Gia long đã cự tuyệt việc yết kiến của phái bộ Pháp do Lu-i XVIII cử đến, đồng thời cũng cự tuyệt luôn ý đồ của người Pháp muốn thương thuyết trên cơ sở hiệp ước Véc xây. Nhưng rồi nước Pháp ngày càng bị tụt hậu so với Anh về vấn đề thuộc địa, nhất là khi người Anh đã có mặt tại Sinhgapo (1819) rồi đang ráo riết mở các cuộc tấn công vào nội địa Trung quốc - điều đó càng khiến cho Pháp phải nhanh tay hành động, nhằm tìm cách đứng chân ở một căn cứ nào đó gần bể Trung Quốc và sau đó tìm cách chiếm lấy một thuộc địa ở gần Trung Quốc để có thể tham gia vào việc tranh chấp miếng mồi béo bở, đầy hấp dẫn này. Dưới thời Minh Mạng (1820-1840) đã mấy lần Pháp cử lãnh sự cùng Sứ giả sang Việt Nam yêu cầu thông thương nhưng đã bị từ chối. Lấy cớ triều đình Việt nam cự tuyệt bang giao và giết giáo sĩ, giáo dân, chính phủ Pháp quyết định dùng vũ lực để thực hiện tham vọng của mình. Về phía Việt nam thì từ năm 1840 khi Miên Tôn (Thiệu Trị) nối ngôi Phúc Đảm (Minh Mạng), việc cấm đạo tuy có nới tay hơn, nhưng Pháp không vì thế mà ngừng ý đồ xâm lược. Vốn đã có dã tâm can thiệp vào công việc nội bộ Việt nam từ lâu và đã từng thị phi về vấn đề kế vị Gia long(1), từng kích động sự chống đối của Lê Văn Duyệt với Minh Mạng(2), nay Pháp lại tiếp tục sử dụng con bài công giáo để gây dư luận. Sau năm 1840, Tạp chí Truyền giáo (Les Annales de la Propagation de la foi) của Hội truyền giáo nước ngoài Paris đã đem những việc sát hại giáo sĩ và giáo đồ ra tuyên truyền, khiến cho một bộ phận thuộc phái hữu xôn xao.Họ yêu cầu chính phủ Pháp phải hành động ngay bằng vũ lực để bảo vệ giáo sĩ và giáo dân Việt Nam. Ngoài các chiến dịch tuyên truyền tại Pháp, Hội truyền giáo hải ngoại Pháp còn kích động những phần tử bất hảo trong số gần 50 vạn giáo dân, liên tiếp gây ra các vụ rắc rối, gây hận thù lương - giáo, vi phạm luật lệ triều đình... cố làm mục ruỗng xã hội Việt nam bằng cách chia rẽ nội bộ dân tộc ta, đi tới thủ tiêu tinh thần kháng chiến cũng như sức đề kháng của nhân dân ta trước quân xâm lược. Tiến thêm một bước, ngày 25/2/1843 tàu chiến Pháp Heroine vào Đà nẵng. Hạm trưởng Favin Lơvêque xin tha cho 5 giáo sĩ bị kết án tử hình đang còn bị giam ở Phú Xuân...  Năm 1845 thiếu tướng hải quân Cé