Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 - Sự kết hợp sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc với hậu phương tại chỗ ở miền Nam

TÓM TẮT Bài viết nhằm làm sáng rõ sự kết hợp sức mạnh từ hậu phương lớn miền Bắc và hậu phương tại chỗ ở miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nói chung và trong chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 nói riêng. Hậu phương miền Bắc có vai trò quyết định nhất còn hậu phương tại chỗ ở miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp trong thắng lợi vĩ đại đánh đuổi chủ nghĩa đế quốc, thống nhất đất nước của cách mạng Việt Nam.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 210 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 - Sự kết hợp sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc với hậu phương tại chỗ ở miền Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 3(28) - Thaùng 5/2015 76 CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN 1975 - SỰ KẾT HỢP SỨC MẠNH CỦA HẬU PHƯƠNG LỚN MIỀN BẮC VỚI HẬU PHƯƠNG TẠI CHỖ Ở MIỀN NAM TRẦN THỊ THANH VÂN(*) TÓM TẮT Bài viết nhằm làm sáng rõ sự kết hợp sức mạnh từ hậu phương lớn miền Bắc và hậu phương tại chỗ ở miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nói chung và trong chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 nói riêng. Hậu phương miền Bắc có vai trò quyết định nhất còn hậu phương tại chỗ ở miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp trong thắng lợi vĩ đại đánh đuổi chủ nghĩa đế quốc, thống nhất đất nước của cách mạng Việt Nam. Từ khóa: hậu phương chi viện kháng chiến chống chủ nghĩa đế quốc, hậu phương lớn miền Bắc, hậu phương tại chỗ ở miền Nam ABSTRACT The article aims to clarify the combination of power between the great rear in the Northern Vietnam and the spot rear in the Southern Vietnam during the war against the USA in general and The General offensive and uprising in the Spring of 1975 in particular. The Northern rear played the most decisive role while the Southern rear played the direct decisive role in the great victory over imperialism and for the national reunification of the Vietnamese revolution Keywords: rear assisted the front line against imperialism, great rear in the Northern Vietnam, spot rear in the Southern Vietnam . (*)Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã diễn ra thần tốc, “một ngày bằng 20 năm”. Chỉ trong vòng 55 ngày đêm, quân dân ta đã chiến thắng áp đảo bằng các đòn tiến công chiến lược giải phóng Tây Nguyên, giải phóng Huế - Đà Nẵng và kết thúc thắng lợi bằng đòn tiến công chiến lược giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Đúng như Đại hội IV của Đảng đã đánh giá “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là bước phát triển ở giai đoạn chín muồi trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; là kết quả hợp (*)TS, Trường Đại học Sài Gòn thành của tất cả những lực lượng, những yếu tố làm nên sức mạnh tất thắng của nhân dân ta trong cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại” [8;20]. Một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định tạo nên sức mạnh tất thắng đó chính là sự kết hợp giữa hậu phương lớn miền Bắc với hậu phương tại chỗ ở miền Nam. Theo quy luật của chiến tranh từ xưa đến nay, chiến thắng sẽ thuộc về bên nào có được sức mạnh tổng lực áp đảo. Sức mạnh đó phải có ở cả tiền tuyến lẫn hậu phương. Hậu phương được hiểu theo nghĩa hẹp là “nơi đối xứng với tiền tuyến, có sự phân biệt rạch ròi bằng yếu tố không gian, 77 là lãnh thổ ngoài vùng chiến sự, phía sau chiến tuyến, có dân cư và tiềm lực mọi mặt, nhất là về nhân lực, vật lực. Là nơi xây dựng và huy động sức người, sức của, đáp ứng nhu cầu của lực lượng vũ trang ngoài tiền tuyến” [7; 231]. Nếu hiểu rộng hơn, hậu phương là nơi cung cấp sức người, sức của cho chiến tranh, là chỗ dựa để tiến hành chiến tranh. Xây dựng hậu phương hùng mạnh, phát huy sức mạnh chi viện từ hậu phương là vấn đề có tính chất chiến lược và mang tính quyết định sống còn đối với một cuộc chiến. Lý luận cách mạng của các nhà tư tưởng lỗi lạc K.Marx, F.Engels, V.I.Lenin đều đã khẳng định vấn đề này. F.Engels đã phân tích: “Toàn bộ việc tổ chức và phương thức chiến đấu của quân đội và do đó thắng lợi, thất bại đều tỏ ra là phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, (), nghĩa là vào chất lượng và số lượng của cư dân và của cả kĩ thuật” [4;242]. V.I.Lenin nhấn mạnh rằng: “Trong chiến tranh, ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn thì người đó thu được thắng lợi” [3;84]. “Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự phải có một hậu phương có tổ chức vững chắc” [3;497]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng chỉ rõ, hậu phương thắng lợi thì chắc chắn tiền phương sẽ thắng lợi; “khi có chiến tranh, phải huy động và tổ chức tất cả các lực lượng trong nước để chống giặc” [2;474]. Nắm vững lý luận cách mạng này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ động, sáng tạo, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa đánh giặc vừa xây dựng chế độ mới, chuẩn bị hậu phương cho chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc. Cách mạng Việt Nam dựa trên sức mạnh của ba tầng hậu phương: hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương tại chỗ ở miền Nam và hậu phương do bạn bè quốc tế viện trợ. 1. Ngay từ rất sớm, sau khi Hiệp định Genève được ký kết, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã chủ trương xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng, hậu phương lớn của cả nước; đồng thời cũng tiến hành xây dựng các vùng căn cứ, hậu phương tại chỗ ở miền Nam để từng bước thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền Nam - Bắc. Xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội không những đáp ứng yêu cầu phát triển khách quan của miền Bắc sau khi đã hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mà còn là một đòi hỏi tất yếu của cách mạng miền Nam lúc bấy giờ. Trong 10 năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1964) là khoảng thời gian hoà bình mà miền Bắc đã tận dụng để tập trung khôi phục và phát triển kinh tế. Những thành tựu cơ sở vật chất và kỹ thuật được tạo ra trong thời kỳ này cùng với những thành công của phong trào Hợp tác hoá đã tạo tiền đề và khả năng để miền Bắc thực hiện vai trò hậu phương của mình với tiền tuyến miền Nam. Nhiệm vụ chi viện trực tiếp cho cách mạng miền Nam được triển khai ngay từ khi có Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương (1959). Tuy vậy, phải đến tháng 1-1961, khi Bộ Chính trị ra Nghị quyết về “Phương hướng và công tác trước mắt của cách mạng miền Nam” thì công tác chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam mới được triển khai một cách đồng bộ và toàn diện theo hướng đáp ứng những yêu cầu cụ thể của các cơ quan, ban, ngành, đơn vị, địa phương ở miền Nam. Thời kỳ này, cùng với tuyến vận tải chiến lược trên bộ được xây dựng từ năm 1959, tuyến vận 78 tải trên biển cũng bắt đầu được hình thành để đáp ứng yêu cầu chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam đang tăng nhanh. Bộ Quốc Phòng triển khai thành lập các đơn vị đi “B” (B là tên gọi chiến trường miền Nam) và hình thành các trung tâm huấn luyện cho lực lượng này. Cho đến năm 1964, hậu phương lớn miền Bắc đã chi viện cho các chiến trường ở miền Nam trên 40.000 quân và 3.000 tấn vũ khí các loại [12;154]. Đầu năm 1965, sau thất bại của chiến lược Chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược Chiến tranh cục bộ, ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và quân Đồng minh vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, đồng thời leo thang chiến tranh ra phá hoại miền Bắc. Lúc này, miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, lại vừa phải dốc sức chi viện cho các chiến trường miền Nam. Mọi hoạt động tại hậu phương lớn miền Bắc đều được chuyển sang thời chiến theo tinh thần “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Nhân dân miền Bắc đã phải hai lần chuyển hướng, tiến hành động viên quy mô lớn về sức người và sức của để chi viện cho cách mạng miền Nam trong bối cảnh đang phải gồng mình chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh phá hoại tàn bạo của không quân và hải quân Mỹ. Trong khoảng 10 năm (1965 -1975), miền Bắc đã động viên hơn 2 triệu thanh niên tham gia lực lượng vũ trang, tổng số lao động ở miền Bắc được động viên chiếm tới 11% dân số. Thậm chí vào các năm 1968, 1972, 1975 số nhân lực được động viên còn vượt quá số lao động xã hội tăng lên hằng năm. Thời kỳ cao điểm (từ năm 1965 đến năm 1972), hậu phương miền Bắc đã chi viện cho cách mạng miền Nam trên 670.000 quân (chiếm 43% tổng số quân động viên ở hậu phương trong trong thời gian đó). Chỉ tính riêng trong năm 1968, miền Bắc đã đưa vào miền Nam 141.081 quân và cán bộ dân chính đảng cùng 72.499 tấn vũ khí và hàng hoá các loại. Liên tiếp trong ba năm sau đó (1969-1972), khi tình hình tại các chiến trường miền Nam đang gặp nhiều khó khăn, miền Bắc đã kịp thời chi viện tiếp 162.051 cán bộ, chiến sĩ và 111.045 tấn vật chất các loại [10;177]. Sự chi viện kịp thời và có hiệu quả này đã giúp cách mạng miền Nam nhanh chóng phục hồi, vượt qua được giai đoạn khó khăn sau Mậu Thân 1968. Trong 2 năm 1973 - 1974, miền Bắc đã huy động được 25 vạn thanh niên nhập ngũ thì 15 vạn trong số đó nhanh chóng được tổ chức huấn luyện và bổ sung tăng cường cho các chiến trường miền Nam cùng với 379.000 tấn vật chất (bằng 54% tổng khối lượng vật chất miền Bắc đưa vào miền Nam trong 16 năm trước đó) [10;178]. Trải qua hai cuộc chiến tranh phá hoại tàn khốc của không quân và hải quân Mỹ, hậu phương miền Bắc đã phải chịu tổn thất nặng nề. Mặc dầu vậy, trước khi quân và dân miền Nam mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, miền Bắc không những đã vượt qua được khó khăn thử thách tưởng chừng như không vượt qua nổi, mà còn nhanh chóng khôi phục nền kinh tế, tạo được sự phát triển đáng kể. So với năm 1965 thì tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân của miền Bắc năm 1974 đã tăng 1,3 lần; sản lượng lương thực tăng 75 vạn tấn, công nghiệp tăng 1,5 lần; năng lực vận tải tăng 1,5 lần Lúc này, miền Bắc tiếp tục động viên được trên 1 triệu tấn lương thực (chiếm 18% tổng sản lượng của năm 1974), huy động 60% năng lực vận tải hiện có để nhanh chóng đưa hàng vào các 79 chiến trường. Chỉ riêng 9 tháng đầu năm 1974, miền Bắc đã chuyển vào các chiến trường miền Nam trên 33 vạn tấn vật chất các loại. Sự chuyển biến mau lẹ của tình hình ở chiến trường miền Nam và khả năng động viên tối đa nguồn nhân tài, vật lực của hậu phương lớn miền Bắc là cơ sở để Bộ Chính trị hạ quyết tâm mở cuộc tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ (1974 - 1975), trong bối cảnh không còn nhiều nguồn viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa, để thực hiện quyết tâm của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, quân và dân miền Bắc đã dốc toàn bộ sức lực của mình chi viện cho các chiến trường miền Nam. Chỉ trong 4 tháng đầu năm 1975, từ hậu phương lớn miền Bắc đã có hơn 110.000 quân và 230.000 tấn vật chất các loại được đưa vào các chiến trường ở miền Nam. Để kịp thời đưa nguồn nhân lực và vật chất được động viên từ miền Bắc vào các chiến trường phục vụ tổng tiến công, ngoài 6.770 chiếc tô vận tải chuyên trách của quân đội, các địa phương, cơ quan, ban, ngành ở miền Bắc còn huy động tới 60% các phương tiện vận tải dân sự. Riêng về nhiên liệu, trong 2 năm 1973 - 1974, hệ thống đường ống xăng dầu Bắc - Nam đã đưa vào các chiến trường gần 303.000 tấn [1;1121]. Khối lượng lớn binh khí, kỹ thuật, nhiên liệu được miền Bắc động viên và kịp thời chi viện cho các hướng tiến công trên các chiến trường ở miền Nam đã giúp cho các binh đoàn chủ lực thực hiện cơ động thần tốc, hoàn thành các mục tiêu chiến lược đề ra. Những con số trên đây cho thấy rất rõ vai trò to lớn và có ý nghĩa quyết định của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nói chung và trong cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975 nói riêng. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu chiến lược quân sự Mỹ đều cho rằng: Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm cho Mỹ thua ở Việt Nam là do không triệt phá được tiềm lực của miền Bắc và sự chi viện cho miền Nam qua đường Hồ Chí Minh. 2. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là một cuộc tổng động viên sức mạnh của cả nước, là sự kết hợp sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc với hậu phương tại chỗ ở miền Nam. Ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Mỹ, song song với việc tập trung xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn của cả nước, Đảng ta cũng đã chủ trương xây dựng các vùng căn cứ, vùng giải phóng thành hậu phương tại chỗ cho chiến tranh cách mạng ở miền Nam. Cùng với sự phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hậu phương tại chỗ ở miền Nam không ngừng lớn mạnh và ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình. Hậu phương tại chỗ ở miền Nam vừa là nơi xây dựng thế trận chiến lược của chiến tranh nhân dân; vừa đáp ứng được yêu cầu của các chiến trường, giải quyết vấn đề hậu cần tại chỗ cho các lực lượng kháng chiến, nhất là tại những địa bàn xa xôi cách trở, sự chi viện của hậu phương miền Bắc thường vào chậm, hoặc vào rất hạn chế. Trong kháng chiến chống Mỹ, hệ thống căn cứ địa, vùng giải phóng ở miền Nam đan xen liên hoàn, nối từ miền Tây Trị - Thiên qua Tây Nguyên vào miền Đông và xuống tận miền Tây Nam Bộ. Sự đan xen liên hoàn đó đã tạo ra mạng lưới hậu phương tại chỗ rộng khắp. Thực tế ở các chiến trường cho thấy, bên cạnh nguồn 80 vật lực được chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc, nguồn hậu cần khai thác từ hậu phương tại chỗ ở miền Nam đã có những đóng góp cực kỳ quan trọng. Từ sau phong trào Đồng Khởi (1960) cho đến năm 1975, hậu phương tại chỗ ở miền Nam đã bảo đảm 22,5% nhu cầu vật chất cho các lực lượng vũ trang. Nếu tính cả nguồn chiến lợi phẩm và nguồn do bộ đội tăng gia sản xuất được thì tỷ lệ đó lên đến 35% [10;222]. Về nhân lực, chỉ riêng trong 2 năm (1973-1974), hậu phương tại chỗ đã động viên được 12.000 thanh niên gia nhập Quân giải phóng. Nếu như năm l973 hậu phương tại chỗ ở miền Nam chỉ mới huy động được 117.128 du kích thì năm 1975 đã huy động tới 296.184 người [6;34]. Trong Tổng tiến công mùa Xuân 1975, hậu phương tại chỗ ở Trị - Thiên, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ đã trở thành hậu phương trực tiếp cho các quân đoàn chủ lực. Chỉ riêng ở Tây Nguyên, cuối tháng 2-1975, các lực lượng vũ trang đã có lượng dự trữ 54.000 tấn vật chất các loại, trong đó có 7.286 tấn đạn, 28.600 tấn lương thực, thực phẩm. Nguồn dự trữ này đủ cho lực lượng vũ trang Tây Nguyên hoạt động trong cả năm 1975 [9;362]. Chuẩn bị cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, hậu phương tại chỗ đã huy động được gần 10.000 tấn lương thực, thực phẩm, bảo đảm hơn 50% nhu cầu của các cánh quân tham gia chiến dịch. Động viên hơn 10.000 người thành lập các tiểu đoàn cơ động; huy động gần 4.000 xe vận tải các loại, 656 thuyền máy, l.73 xe đạp thồ, 63.342 dân công phục vụ chiến dịch [11;219]. Nhìn vào những số liệu đã được tổng kết có thể thấy trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, trên các chiến trường miền Nam có hơn 80% quân, 81% vũ khí, 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% phương tiện vận tải cơ giới là do nguồn bổ sung từ hậu phương lớn miền Bắc; 77% lương thực, 90% thực phẩm, 61% quân trang là do hậu phương tại chỗ cung cấp [12;165]. 3. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử cho thấy sức mạnh áp đảo về thế và lực của cách mạng đối với thế và lực của đối phương. Có được sức mạnh đó chính là nhờ sự kết hợp được sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc với sức mạnh của hậu phương tại chỗ ở miền Nam. Mối quan hệ giữa hai hậu phương đã được hình thành, không ngừng phát triển, tác động và thúc đẩy lẫn nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Chúng ta không thể chỉ nhấn mạnh đến một phía, như lâu nay trong các nguồn tài liệu chủ yếu chỉ đề cập nhiều đến “hậu phương lớn miền Bắc” mà không đánh giá đúng mối quan hệ mật thiết giữa hai hậu phương. Xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương lớn của cả nước, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội không chỉ để đáp ứng nhu cầu phát triển về mọi mặt của nhân dân miền Bắc, mà trong đó còn bao hàm nội dung vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngược lại, tiến hành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam (trong đó có nội dung xây dựng hậu phương tại chỗ) ngoài mục đích để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước thì quá trình thực hiện cuộc cách mạng này ở miền Nam cũng chính là góp phần quan trọng vào công cuộc bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Những số liệu trên cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng mang tính quyết định của hậu phương lớn miền Bắc và hậu phương tại chỗ ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ nói chung và trong Tổng tiến 81 công và nổi dậy mùa Xuân 1975 nói riêng. Điều này càng chứng minh cho sự sáng suốt và tầm nhìn chiến lược của Đảng Lao động Việt Nam 21 năm về trước khi xác định xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn của cả nước, đồng thời xây dựng các vùng căn cứ ở miền Nam thành hậu phương tại chỗ. Miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc và bè lũ tay sai hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân [5]. Thắng lợi vĩ đại và vẻ vang của cuộc Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả của chặng đường đấu tranh đầy gian nan và thử thách của dân tộc Việt Nam, với những hy sinh mất mát to lớn, đã phải chiến đấu và chiến thắng kẻ thù bằng bản lĩnh, trí tuệ và văn hóa giữ nước mang đậm bản sắc Việt. Thắng lợi đó được hội tụ, kết tinh bởi nhiều nhân tố, trong đó đặc biệt là tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” đã được phát triển lên một tầm cao mới và trở thành biểu tượng của cuộc Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó là sức mạnh của đoàn kết toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại để đưa dân tộc tiến tới “độc lập, tự do, hạnh phúc”. Đó là sự thống nhất giữa ý Đảng và lòng dân; sự đoàn kết quân - dân; đoàn kết Bắc - Nam, đoàn kết các lực lượng yêu nước và tiến bộ cả ở trong và ngoài nước. Trong suốt cuộc kháng chiến này, cả dân tộc vừa thể hiện quyết tâm đánh đuổi quân xâm xâm lược; vừa có cả tín tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, của Bác Hồ; tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng. Cả hậu phương lớn miền Bắc ngày đêm đau đáu hướng về miền Nam, dốc sức người, của cải vật chất cho sự nghiệp giải phóng miền Nam. Quân và dân miền Nam luôn hướng về miền Bắc với niềm tin mãnh liệt vào Đảng, Bác Hồ, vào công cuộc xây dựng hậu phương miền Bắc; luôn coi miền Bắc là chỗ dựa, là đầu não của cách mạng và kháng chiến. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Quốc Phòng – Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2000), Đại thắng Mùa Xuân 1975 – sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Nxb Quân đội nhân dân, HN. 2. Hồ Chí Minh toàn tập (1996), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 3. Lênin toàn tập, tập 30, Nxb Sự thật, HN. 4. Mác – Ănghen (1977), Về mối quan hệ giữa kinh tế hậu phương, chiến tranh và quân đội, Nxb Quân đội nhân dân, HN. 5. Nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ 7 (khoá II), tháng 3-1955. 6. Nguyễn Huy Thục (1995), “Tổng động viên sức mạnh cả nước giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số (1), tr.34. 7. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1998), tập 1, Nxb Từ điển, HN. 82 8. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 4 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sự thật, HN. 9. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1995), Đại thắng mùa Xuân 1975 - Nguyên nhân và bài học, Nxb Quân đội nhân dân, HN. 10. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, HN. 11. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1991), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb Quân đội nhân dân, tập 2, HN. 12. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1990), Trận quyết chiến lịch sử Xuân 1975, Nxb Quân đội nhân dân, HN. * Ngày nhận bài: 30/3/2015. Biên tập xong: 24/4/2015. Duyệt đăng: 04/5/2015.
Tài liệu liên quan