Cuộc vận động tẩy chay khách trú ở Nam Kỳ năm 1919 trên báo Nông cổ mín đàm và lục tỉnh tân văn

TÓM TẮT Trong quá trình khai thác thuộc địa ở Nam Kỳ, chính quyền thực dân Pháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho các thương nhân Hoa kiều, giúp họ vươn lên và nắm quyền chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế ở Nam Kỳ, nhất là trong hoạt động thương mại. Trong bối cảnh đó, giới tư sản người Việt ở Nam Kỳ đã khởi xướng cuộc vận động góp vốn thành lập các cơ sở sản xuất, kinh doanh để cạnh tranh với các thế lực tư sản Hoa kiều. Cuộc vận động này đã khơi dậy những bức xúc của người Việt do tình trạng lũng đoạn kinh tế của các thương nhân Hoa kiều (Khách trú) dẫn đến sự bùng nổ của phong trào tẩy chay Khách trú ở Nam Kỳ vào cuối năm 1919. Hoạt động chính của phong trào là kêu gọi cộng đồng người Việt góp vốn mở cửa tiệm, lập công ty để kinh doanh, cạnh tranh với Khách trú, tẩy chay hàng hóa của Hoa kiều, chỉ sử dụng hàng hóa và dịch vụ của người Việt.

pdf10 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 96 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cuộc vận động tẩy chay khách trú ở Nam Kỳ năm 1919 trên báo Nông cổ mín đàm và lục tỉnh tân văn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 67 (01/2020) No. 67 (01/2020) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: 31 CUỘC VẬN ĐỘNG TẨY CHAY KHÁCH TRÚ Ở NAM KỲ NĂM 1919 TRÊN BÁO NÔNG CỔ MÍN ĐÀM VÀ LỤC TỈNH TÂN VĂN The Chinese “Khach tru” (Guest residents) movement in Cochinchine in 1919 on the “Nong co min dam” and “Luc tinh tan van” newspapers TS. Phạm Phúc Vĩnh Trường Đại học Sài Gòn TÓM TẮT Trong quá trình khai thác thuộc địa ở Nam Kỳ, chính quyền thực dân Pháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho các thương nhân Hoa kiều, giúp họ vươn lên và nắm quyền chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế ở Nam Kỳ, nhất là trong hoạt động thương mại. Trong bối cảnh đó, giới tư sản người Việt ở Nam Kỳ đã khởi xướng cuộc vận động góp vốn thành lập các cơ sở sản xuất, kinh doanh để cạnh tranh với các thế lực tư sản Hoa kiều. Cuộc vận động này đã khơi dậy những bức xúc của người Việt do tình trạng lũng đoạn kinh tế của các thương nhân Hoa kiều (Khách trú) dẫn đến sự bùng nổ của phong trào tẩy chay Khách trú ở Nam Kỳ vào cuối năm 1919. Hoạt động chính của phong trào là kêu gọi cộng đồng người Việt góp vốn mở cửa tiệm, lập công ty để kinh doanh, cạnh tranh với Khách trú, tẩy chay hàng hóa của Hoa kiều, chỉ sử dụng hàng hóa và dịch vụ của người Việt. Từ khóa: Khách trú, Nam Kỳ, thương nhân Hoa kiều, Việt Nam ABSTRACT During colonial exploitation process in Cochinchine, the French colonial government created favorable conditions for Chinese merchants, helping them to rise up and take control of many economic sectors in Cochinchine, especially in commercial activities. In that situation, the Vietnamese bourgeoisie in Cochinchine initiated a campaign of capital contribution to the establishment of production and businesses to compete with the bourgeois powers of the Chinese. This campaign stimulated the frustration of the Vietnamese people due to the economic manipulation of the Chinese merchants (Guest Residents), which led to the outbreak of the boycott of Cochinchine in late 1919. The main activity of the movement is to call on the Vietnamese community to contribute capital to open shops, set up companies to compete with Guest Residents, boycott Chinese goods, and use the Vietnamese goods and services only. Keywords: Guest Residents, Cochinchine, Chinese merchants, Vietnam 1. Nguồn gốc dẫn đến sự bùng nổ của phong trào “Tẩy chay khách trú” 1.1. Vị thế của thương nhân Hoa kiều ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc Trong quá trình xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp chiếm đóng đến đâu là thiết lập bộ máy kiểm soát đến đó. Sau Hiệp ước năm 1862, bộ máy cai trị của Pháp chính thức được thiết lập ở ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa). Sau khi Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ năm 1867 (Vĩnh Long, Email: phamphucvinh@sgu.edu.vn SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 67 (01/2020) 32 An Giang và Hà Tiên), Nam Kỳ về cơ bản trở thành thuộc địa của Pháp, do Pháp trực tiếp quản lý về mọi phương diện, nhà Nguyễn về cơ bản không còn quyền hành gì ở Nam Kỳ nữa(1). Sau khi hoàn thành xâm lược và tổ chức bộ máy quản lý Nam Kỳ, thực dân Pháp bắt tay vào việc đầu tư khai thác. Sự đầu tư của chính quyền thực dân và hoạt động xuất khẩu tư bản của Pháp vào Nam Kỳ đã thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, các đồn điền, nhà máy, một số công trình hạ tầng giao thông và liên lạc quan trọng ở Nam Kỳ ra đời. Đặc biệt, hoạt động thương mại ở Nam Kỳ được chính quyền thuộc địa rất chú trọng phát triển, nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu lúa gạo. Ngay sau khi Pháp đánh chiếm miền Đông Nam Kỳ, cảng Sài Gòn được Pháp tuyên bố là một cảng mở cho tất cả thuyền buôn của mọi quốc gia và khuyến khích ngoại thương(2). Ngày 30/9/1868, Thống đốc Nam Kỳ ký nghị định thành lập phòng Thương mại Sài Gòn để tư vấn, quản lý và hỗ trợ cho hoạt động thương mại ở đây. Việc buôn bán hàng hóa hai chiều giữa Pháp với Nam Kỳ nói riêng và Đông Dương nói chung tăng lên nhanh chóng. Bên cạnh việc xuất khẩu gạo, từ năm 1902 trở đi, Nam Kỳ đã có thêm các sản phẩm khác như thuốc lá, cà phê, xi măng, đồ thêu, xà phòng (Nguyễn Đình Tư, 2016, tr. 256). Trong quá trình thúc đẩy hoạt động thương mại ở Nam Kỳ, thực dân Pháp đã sử dụng lực lượng tư sản người Hoa làm trợ thủ đắc lực để lũng đoạn thị trường nội địa và hoạt động xuất khẩu, “tư bản Trung Hoa có đại diện rất mạnh trong việc buôn bán gạo, trong việc nhập khẩu vải bông và một phần khá lớn việc buôn bán lẻ ở Nam Kỳ tập trung trong tay người Trung Hoa” (Lê Hữu Phước, 2013, tr. 143). Nhờ vậy, lực lượng thương nhân Hoa Kiều ở Nam Kỳ đóng vai trò rất lớn trong việc xuất nhập khẩu và tiêu thụ nội địa, góp phần đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế Nam Kỳ thời Pháp thuộc. Các thương nhân Hoa kiều(3) chiếm vị trí số một trong việc thu gom, xay giã và xuất khẩu lúa gạo ở Nam Kỳ, mà trung tâm là Chợ Lớn, nơi quy tụ nguồn lúa gạo của toàn đồng bằng Nam Bộ. Theo Nguyễn Đức Hiệp (2014), người Hoa ở Chợ Lớn hầu như nắm hết các đầu mối thu mua lúa từ các tỉnh miền Tây Nam Kỳ, chủ các nhà máy xay xát lúa và buôn bán gạo trong nước cũng như xuất khẩu đi các nước, từ cuối thế kỷ XIX đến thập niên 1930, không có ai cạnh tranh lại được với họ (Nguyễn Đức Hiệp, 2014, tr. 50). Không chỉ nắm vai trò chi phối trong lĩnh vực buôn bán lúa gạo ở Nam Kỳ, trong thời gian đầu cai trị, chính quyền thực dân Pháp còn khoán cả việc sản xuất và phân phối thuốc phiện cho người Hoa để gia tăng ngân sách(4). Sau này, khi chính quyền thực dân đã thiết lập hệ thống hành chính và ổn định tình hình ở Nam Kỳ, người Pháp mới quyết định độc quyền kinh tế (Régies) trong sản xuất, buôn bán muối, rượu và thuốc phiện (Nguyễn Đức Hiệp, 2014, tr. 52). Hoạt động sản xuất theo phương thức tư bản chủ nghĩa của người Việt ở Nam Kỳ trong cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX còn khá mờ nhạt, trong Niên giám Đông Dương phát hành năm 1910, chính quyền thực dân nhìn nhận thực trạng các nghề thủ công truyền thống ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: “Nghề thủ công bản xứ chẳng có gì đáng kể. Người bản xứ chỉ chế tác một ít đồ kim hoàn, các vật dụng PHẠM PHÚC VĨNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 33 đan bằng mây tre, chiếu và các loại túi cói Kỹ nghệ bản xứ hiện đang tồn tại thoi thóp Hiện nay, người ta chỉ đang tập trung vào những ngành kỹ nghệ của người Hoa hoặc người Pháp vừa nhập vào Nam Kỳ. Các nghề thủ công bản xứ nổi tiếng một thời thì đang suy thoái hoặc biến mất dần” (Lê Hữu Phước, 2013, tr. 142). Tình trạng các thương nhân Hoa kiều (Khách trú) trở thành lực lượng nắm giữ và chi phối hoạt động thương mại Nam Kỳ đã làm cho những người Việt cảm thấy bị thua thiệt trên chính quê hương bản xứ của mình. Trong thập niên đầu thế kỉ XX, lực lượng tư sản người Việt ở Nam Kỳ mới hình thành vốn nhỏ yếu về kinh tế đã vấp phải sự cạnh tranh, chèn ép gay gắt của các thế lực thương nhân Hoa kiều, từ đó họ nảy sinh tâm lí đố kị, bức xúc với lực lượng này. Thực tế này đã thể hiện khá rõ nét trong cuộc vận động tranh thương trên các tờ báo Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn ngay từ khi mới xuất bản. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp đã góp phần làm cho lực lượng tư sản bản xứ phát triển và những mâu thuẫn này được khoét sâu thêm, biến nó thành một cuộc xung đột lợi ích thực sự trên thực tế. 1.2. Cuộc vận động người Việt phát triển kinh doanh và tranh thương trên báo chí Trước sự cạnh tranh gay gắt của các thế lực thương nhân Hoa kiều (Khách trú), nhất là trên lĩnh vực mua bán, xay xát lúa gạo, tín dụng(5), giới tư sản người Việt ở Nam Kỳ đã thể hiện tinh thần đoàn kết trong việc góp vốn phát triển kinh doanh và tranh thương với các thế lực Khách trú. Trong những năm 20 của thế kỷ XX, trên báo Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, nhiều nhà báo có tinh thần dân tộc đã đăng bài vận động người Việt hùn vốn lập tiệm buôn, lập trường học, mở trường nghề, lập các hội tương tế nông nghiệp và công nghệ, nhà in, xây dựng nhà máy xay lúa, mở tiệm cà phê, mở lò bánh, lò đường, lò ươm tơ dệt lụa, lò nấu xà bông để cạnh tranh buôn bán với các thương nhân Ấn kiều (Chà), Hoa kiều (Chệc). Thứ nhất, trên báo Nông cổ mín đàm, chủ bút Nguyễn Chánh Sắt viết và đăng nhiều bài báo(6) kêu gọi mọi người chấn chỉnh nghề nông, phải biết phát huy lợi thế nông nghiệp của Nam Kỳ, đoàn kết và hỗ trợ nhau để phát triển nông nghiệp. Trong bài “Bàn về nông thương kỹ nghệ nước ta” đăng trên Nông cổ mín đàm số 112 (1919), ông viết: “trong Nam Kỳ dân ít mà đất đã tốt lại nhiều, thì tất nhiên dân chẳng cần phải lo làm nghề chi khác nữa, chỉ chuyên lấy một nghề nông thì cũng đủ mà kinh dinh sự nghiệp. Xưa nay người Nam Kỳ không lo thương mãi và công nghệ là bởi cớ đó” (Lưu Hồng Sơn, 2011, tr. 8). Trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, Nguyễn Chánh Sắt tiếp tục cuộc vận động người Việt đoàn kết, hùn vốn để mở công ty sản xuất kinh doanh(7). Đặc biệt, trong bài Nông thương thiệt luận đăng trên Nông cổ mín đàm số 2 (1917), ông cho rằng, người Việt Nam “muốn cho nghề thương tấn bộ mà tranh cạnh cùng người thì quốc dân ta phải ráng lo học hành những phương thiệt nghiệp, ngõ hầu chế tạo ra những đồ vật của ta thường dùng hằng ngày đây, cho khỏi mua đồ của các nước, rồi lần lần ta lại học qua nhiều nghề khác nữa ()” (Lưu Hồng Sơn, 2011, tr. 10). Tư tưởng này của ông đã khởi đầu cho cuộc vận động tranh thương giữa tư sản người Việt với người Hoa tạo thành làn sóng tẩy SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 67 (01/2020) 34 chay Khách trú diễn ra ở Nam Kỳ và nhiều nơi trong cả nước sau này. Thứ hai, cùng với báo Nông cổ mín đàm, báo Lục tỉnh tân văn cũng cho đăng tải một số bài viết thể hiện tinh thần cải cách, phê phán những hạn chế trong tư tưởng kinh tế của người Việt và kêu gọi người Việt phát triển công thương. Lục tỉnh tân văn số 531 (ngày 09/5/1918) đăng bài Thương mãi luận cho rằng người Việt nên đầu tư học kiến thức kinh doanh và ngoại ngữ để phục vụ cho việc kinh doanh buôn bán. Lục tỉnh tân văn số 610 (ngày 27/3/1919) đăng bài Chớ nên để bọn kiều thương khinh dễ, chỉ ra những hạn chế của người Việt ở Nam Kỳ trong lĩnh vực công thương: “Người Nam Kỳ trên cõi thương thường, công nghệ còn khuyết điểm nhiều Nhắm lại bổn xứ ta đây, nói về thương trường thì chẳng có nhà nào gọi là nhà cự thương, nói đến công nghệ thì chẳng có người nào gọi là người tinh nghệ Than ôi! Một sợi tơ, một tấc vải, một chút lửa, một cái đinh, vật nhỏ mọn như thế mà ta cũng chẳng khỏi dụng của nước người, chẳng Tây thời Chệc, chẳng Chệc thời Chà; xứ ta nào ai có lưu tâm xét đến nỗi ấy, mà kịp khuyên nhau nỗ lực ra học đường chế tạo mau mau” (Lục tỉnh tân văn, 1919a). Từ đó, bài báo kết thúc bằng lời kêu gọi: “Xin khuyên đồng ban, ai nấy có tử đệ, khá toan lẹ công nghệ làm đầu; mai sau thành nghệ thành tài, thì nào ai dám khinh khi, bĩ bạc; tiếng người cười vẫn có, ta đừng ganh gỗ, ta hãy tự hối lấy ta” (Lục tỉnh tân văn, 1919a). Lục tỉnh tân văn số 616 (ngày 17/4/1919) đăng trên mục “Tự do diễn đàn” bài viết của Nguyễn Thị Minh gửi cho chủ bút Lê Hoằng Mưu. Bài viết nêu ý kiến phê phán hạn chế của đàn ông Nam Kỳ trong việc kinh thương: “Tôi đọc nhựt báo Lục tỉnh tân văn, thấy có ấn hành mấy câu của Huê kiều báo khỉ thị bọn nam nhi Annam, đem lòng giận mà làm bài này. Cái bọn đàn bà tôi đây, thường chuyện vãn với nhau hoài mà nực cười cho bọn nam nhi rồng rồng cả mấy triệu mà không thấy làm một cái nhà buôn gì cho xứng đáng, cho ngoại quốc dòm vô gọi là cái hãng buôn Annam, được biết kêu rên om sòm trong nhựt báo mà không biết cách làm sao mà làm cho được. Thiệt có một việc lúa gạo là nguồn mạch của Annam, huê lợi rất lớn, mà không biết cách làm sao mà thâu huê lợi ấy, để cho Chệc thâu ráo, rồi cứ kêu rên hoài, còn lợi thì cho chúng hưởng. Vì cớ sao mà Chệc làm được còn Annam làm không được?” (Lục tỉnh tân văn, 1919b). Ngoài ra, trong năm 1919, báo Lục tỉnh tân văn còn đăng nhiều bài hướng dẫn kỹ thuật canh nông như cách lập vườn trồng trà (số 610, ngày 27/3/1919), cách lập vườn trồng cau (số 613, ngày 06/4/1919), trồng cà phê (số 619, ngày 27/4/1919) Cuộc vận động phát triển kinh tế công thương và tranh thương với các thế lược ngoại bang trên báo Nông cổ mín đàm của Nguyễn Chánh Sắt và trên báo Lục tỉnh tân văn của Mộng Huê Lầu (tức Lê Hoằng Mưu) và một số cây bút khác có tinh thần dân tộc trong những năm 1918 và 1919 đã một lần nữa khơi dậy tinh thần yêu nước và ý thức tự cường dân tộc, dẫn đến sự bùng nổ của phong trào Tẩy chay Khách trú ở Nam Kỳ, sau đó lan rộng ra khắp cả nước vào cuối năm 1919. 2. Hoạt động “tẩy chay Khách trú” trên báo Nông cổ mín đàm và Lục tỉnh tân văn Trong bối cảnh tồn tại nhiều bức xúc PHẠM PHÚC VĨNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 35 giữa giới tư sản người Việt với thương nhân Hoa Kiều như trên, tháng 8/1919, nhân có vụ một số cửa hàng cà phê của Hoa kiều ở Sài Gòn tự ý tăng giá và có thái độ miệt thị đối với khách hàng người Việt, hành động đó đã làm bùng nổ phong trào “Tẩy chay Khách trú” ở Nam Kỳ. Trong thời gian đầu, giới thương nhân người Việt phản ứng bằng cách tự mở quán cà phê và hô hào người Việt Nam không vào các quán của Hoa kiều, sau đó, phong trào lan rộng ra nhiều lĩnh vực khác, hô hào không tiêu thụ hàng hóa của Hoa kiều, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế của người Việt. Ngày 11/8/1919, báo Lục tỉnh tân văn số 658 đăng bài “Khách trú khi ta” của Đoàn Vô Cậng, bài báo viết: “Cuộc thương mãi ở xứ ta xưa nay Chệc, Chà nó choán hết, Từ ngày Âu châu nổi cơn khói lửa cho đến nay, Chệc cứ lấy nể đó mà tăng giá hàng hóa lên hoài, Annam cứ cong lưng chịu mãi, chớ biết làm sao Như mới đầu tháng Tám tây đây, khi không nó rủ nhau tăng giá cà phê bằng hai khi trước. Vậy thì ta phải làm sao cho Chệc biết ta ngày nay đã có đoàn thể nhau cho khỏi nó áp chế nữa hãy đồng lòng nhau noi gương Chệc tẩy chay hàng Nhựt-bổn, mà tẩy chay Chệc một món đồ ăn điểm tâm là cà-phê, cháo, bánh, thử coi có đặng không??? Nếu đồng bang ta đồng lòng nhau làm như vậy ít lâu thì sẽ thấy tiệm chúng ta nổi lên buôn bán thua gì của Khách trú, nhưng mà cần nhất bây giờ đây hãy tẩy chay cà-phê của Chệc như mấy thầy làm việc Ty Thiết lộ đã làm rồi đó. Từ hôm 1er Aout [1er Août = 1/8/2019] đến nay chẳng có một người đến tiệm cà-phê của Chệc” (Lục tỉnh tân văn, 1919c). Tiếp tục trên Lục tỉnh tân văn số 559 (ngày 13/8/1919) đăng bài “Khách trú thị nhục ta - đồng bang mau thức dậy” của Mộng Huê Lầu phân tích: “Khách trú từ xưa đến nay qua kí ngụ trong xứ ta, xứ của người Annam, thuộc địa của Lang sa, làm ăn thong thả, buôn bán thạnh thời, nhờ ta thuận cho mà ở an, ta hòa cho mà thủ lợi, đã chẳng ơn ấy mà kính trọng ta, lại trở mà khi thị ta là người Annam, nhục mạ dòng giống ta là dòng giống Annam, buông nhiều lời nặng nề thới quá. Cũng vì Khách trú dòm thấy đàng thương mãi của ta còn bơ thờ, nghĩ cho ta không mua bán với nó thì mua bán với ai, nên mới dám đuổi xua ta, bạc đãi ta, có của muốn mua mà nó thị tuồng như tới xin của nó. Vì biết thẹn chung, hổ chung bởi lời Khách trú ở đậu với ta mà khinh khi ta, nên mấy ngày sau đây, Annam phần nhiều đã tẩy chay Khách trú; không thèm uống cà phê của Khách trú nữa. Cái tiếng “Annam tẩy chay Khách trú” nghe đã rùm thành phố Sài Gòn rồi, nếu Annam không chịu đồng nhục đồng tâm với nhau, làm không nên việc gì, để cho hư thì cái danh giá chủng tộc của ta, chủng tộc người Annam, từ đây kể bỏ” (Lục tỉnh tân văn, 1919d). Từ đó, Mộng Huê Lầu đưa ra lời kêu gọi: “Nầy anh lớn, em nhỏ, sáng rồi thức dậy nà, mê giấc chi mà trễ. Dậy, hãy ngồi dậy, giúp, mở lòng giúp, đưa tay giúp, giúp anh em ta, đồng bang ta, tẩy chay đám cụt đuôi này, mà vớt danh giá ta, nòi giống ta, chớ để nó khi cả xứ ta, cả nước ta là đoàn con nít Tẩy chay nó đi cho nó cười! SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 67 (01/2020) 36 Chẳng những tẩy chay một món cà phê của nó mà thôi, hễ món nào Annam có bán, Annam có làm, thì tẩy chay Khách trú Hãy tẩy chay Khách trú đi đồng bang, đồng lòng nhau, hiệp ý nhau, làm cho nên chớ có làm mưa mứa mà mang điều, mang tiếng cười chê, cười ta, chê ta, nhục nòi giống ta, nước Đông hải rửa nhơ không sạch” (Lục tỉnh tân văn, 1919d). Cùng với những bài kêu gọi tẩy chay Khách trú trên Lục tỉnh tân văn, báo Nông cổ mín đàm cũng đăng nhiều bài vận động tẩy chay Khách trú. Trên Nông cổ mín đàm số 125 (1919), trong bài Cách buôn bán phải làm thế nào cho bền vững, Nguyễn Chánh Sắt viết: “nay chúng ta mới phấn khích chen chúc ra giữa đám thương trường mà tranh đua quyền lợi. Mà ta có tranh đua thì tranh đua với Khách; chớ không phải tranh đua với ta. Vậy hổm rày đồng bào ta ở tại Sài Gòn đây đã lập ra nhiều quán cà phê mà vãn hồi quyền lợi được chút đỉnh rồi. Nhưng cũng chưa gọi làm đủ, phải lập thêm đôi ba chục tiệm nữa thì mới đủ cho thiên hạ dụng” (Lưu Hồng Sơn, 2011, tr. 9) và kêu gọi: “hễ ta chẳng làm thì thôi, nếu đã làm rồi thì cứ việc xông lướt cho đến cùng, đừng sè sụt mà họ nhạo cười, hổ lắm đa các ông à!” (Lưu Hồng Sơn, 2011, tr. 9). Trên Nông cổ mín đàm số 127 (1919), Nguyễn Chánh Sắt phân tích: “nếu nay mà chúng ta muốn làm cho cái cơ sở của Khách trú lung lay, cho họ hết khinh dễ ta, hết hân hủi ta; mà lại phải chìu lụy lại ta, kinh tâm tán đởm với ta, thì chỉ có ba cái vấn đề rất quan trọng hơn hết là (phải lập cho được 3 công ty): 1. Nam Kỳ nông nghiệp tương tế tổng cuộc (hãng lúa); 2. Nam Việt ngân hàng (hãng bạc); 3. Nam Việt luân thoàn công ty (hãng tàu)”(Lưu Hồng Sơn, 2011, tr. 12) để mua hết lúa gạo của Nam Kỳ gom về một mối, hỗ trợ vốn cho những đại thương gia và điền chủ, mua sắm tàu vận tải hàng hóa và hành khách, từ đó giành được quyền chủ động trên thương trường, xóa bỏ thế độc quyền của thế lực Khách trú. Trong khi phong trào Tẩy chay Khách trú đang lên cao, ngày 30/8/1919, tờ Tribune Indigène (Diễn đàn bản xứ) xuất bản ở Sài Gòn đăng bức thư của một thương nhân Hoa kiều ký tên là Lý Thiên gửi các báo ở Nam Kỳ sỉ nhục người Việt Nam và thách đố phong trào tẩy chay. Bức thư đã gây ra sự phẫn nộ dữ dội trong cộng đồng người Việt ở Nam Kỳ. Ngay trong ngày bài báo trên được đăng, trong một cuộc diễn thuyết ở Sài Gòn, Nguyễn Chánh Sắt, chủ bút tờ Nông cổ mín đàm đã lên tiếng hô hào người Việt Nam hùn vốn để thành lập “Annam Thương cuộc Công ty” nhằm thực hiện ý tưởng đầu tư xây dựng các kho hàng, lập ngân hàng, mua sắm các phương tiện vận tải, cơ sở xay xát,... để cạnh tranh với tư sản Hoa kiều trong việc thu mua và xuất cảng lúa gạo, hoạt động vận tải, mà xưa nay tư sản Hoa kiều lũng đoạn. Theo biên bản của Nhóm sáng lập Annam Thương cuộc Công ty ngày 01/9/1919 đăng trên Lục tỉnh tân văn số 670 (ngày 10/9/1919), công ty dự kiến huy động 100.000 đồng với mục đích tổ chức kinh doanh và cạnh tranh với thế lực Khách trú. Hội trưởng là ông Nguyễn Phú Khai, Hội phó gồm có Trần Quang Nghiêm và Nguyễn Chánh Sắt; Trần Văn Chim và Nguyễn Văn Hội làm Thủ bổn, Huỳnh Văn Nhung làm Phó Thủ bổn và năm phái viên là Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Hữu Sanh, Bùi Văn Gio, Hồ Văn Lang và Nguyễn PHẠM PHÚC VĨNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 37 Kim Đính. Nhóm vận động thành lập Annam thương cuộc công ty bắt đầu đăng lời kêu gọi góp vốn trên Lục tỉnh Tân văn số 674 (ngày 19/9/1919). Cùng với cuộc vận động thành lập Annam thương cuộc công ty của Nguyễn Chánh Sắt, còn có cuộc vận động thành