Đặc điểm của thể ký trên tạp chí Tri Tân (1941-1946)

Tóm tắt. Bài viết giới thiệu khái quát về diện mạo của tạp chí Tri tân: từ các thể loại báo chí chuyên biệt đến các thể loại sáng tác văn học, trong đó quan tâm đến thể ký. Với những thống kê, khảo sát bước đầu, chúng tôi nhận thấy đặc điểm nổi bật của thể ký trên tờ tạp chí này là chất khảo cứu công phu quyện hòa với chất trữ tình đằm thắm. Đây là đặc điểm chủ đạo xuyên suốt các bài ký viết về danh tích, phong tục tập quán và nhân vật trên tạp chí Tri tân. Từ đó khẳng định giá trị của thể ký cũng như những đóng góp của các sáng tác văn học trên Tri tân tạp chí đối với đời sống văn học nửa đầu thế kỷ XX.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 216 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm của thể ký trên tạp chí Tri Tân (1941-1946), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci., 2012, Vol. 57, No. 6, pp. 42-49 ĐẶC ĐIỂM CỦA THỂ KÝ TRÊN TẠP CHÍ TRI TÂN (1941-1946) Nguyễn Thị Phương Lan Trường THPT Nguyễn Trãi – Ba Đình - Hà Nội E-mail: minhlan_0713@yahoo.com Tóm tắt. Bài viết giới thiệu khái quát về diện mạo của tạp chí Tri tân: từ các thể loại báo chí chuyên biệt đến các thể loại sáng tác văn học, trong đó quan tâm đến thể ký. Với những thống kê, khảo sát bước đầu, chúng tôi nhận thấy đặc điểm nổi bật của thể ký trên tờ tạp chí này là chất khảo cứu công phu quyện hòa với chất trữ tình đằm thắm. Đây là đặc điểm chủ đạo xuyên suốt các bài ký viết về danh tích, phong tục tập quán và nhân vật trên tạp chí Tri tân. Từ đó khẳng định giá trị của thể ký cũng như những đóng góp của các sáng tác văn học trên Tri tân tạp chí đối với đời sống văn học nửa đầu thế kỷ XX. Từ khóa: tạp chí Tri tân, đặc điểm, ký, khảo cứu, trữ tình. 1. Mở đầu Tạp chí Tri tân xuất hiện vào những năm 40 của thế kỷ XX, tuy chỉ tồn tại trong thời gian 5 năm (từ ngày 3/6/1941 đến ngày 16/7/1946) nhưng với 214 số ra đều đặn hàng tuần thì tự thân nó đã xác lập được vai trò vị trí của mình. Sinh tồn trong một thời điểm lịch sử gay cấn, bối cảnh chính trị phức tạp, đời sống văn hóa đầy thử thách nhưng Tri tân vẫn được coi là một tạp chí “chất lượng” và “trí tuệ”. Tôn chỉ, mục đích mà Tri tân hướng tới là “Ôn cũ biết mới. Nhằm cái đích ấy, Tri tân riêng đi vào con đường văn hóa với cặp kính khảo cứu”. Là loại tạp chí mang tính “bách khoa thư” (giống như kiểu tạp chí Nam phong), Tri tân đã tạo nên những ưu thế đặc biệt của loại hình báo chí mang tính tổng hợp. Tìm trên tờ tuần báo này, có thể thấy đủ các thể loại từ báo chí chuyên biệt (thời sự chính trị, khoa học kỹ thuật, thông tin văn hoá xã hội, quảng cáo. . . ) đến văn học nghệ thuật (thơ ca, truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, kịch. . . ) rồi đến các lĩnh vực khác như sử học, địa lý, kinh tế, dân tộc học, công nghệ, tôn giáo. . . Trong đó, riêng mảng sáng tác văn học được tạp chí dành một số lượng trang báo đáng kể để in ấn, giới thiệu đều đặn, cần mẫn trong suốt 5 năm tồn tại. Có thể thấy, ngoài các bài khảo cứu về lịch sử, địa lý, văn hóa, xã hội, các bài nghiên cứu, phê bình, sưu tầm, dịch thuật văn học có giá trị. . . Tạp chí Tri tân còn đón nhận và đăng tải gần 500 sáng tác văn học, trong đó riêng các bài ký văn học là 104 bài. Một số lượng tuy còn khiêm tốn song cũng đủ để khái quát và chỉ ra được những đặc điểm riêng 42 Đặc điểm của thể ký trên tạp chí Tri tân (1941-1946) của thể loại văn học này trên Tri tân. Bài viết bước đầu khái quát về diện mạo và chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của thể ký trên tạp chí Tri tân qua việc khảo sát 104 tác phẩm ký được tờ tạp chí này đăng tải trong 5 năm tồn tại. Từ đó, chúng tôi khẳng định giá trị của các sáng tác văn học trên Tri tân tạp chí nói chung và thể ký nói riêng. Đồng thời cũng xác lập được vị trí, vai trò của báo chí như “một động lực của văn học”. Bởi: “Từ Tri tân cũng có thể hình dung được vai trò của báo chí đối với văn học đầu thế kỷ” [1;9]. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Diện mạo và đặc điểm của thể ký trên tạp chí Tri tân Ký là một thể loại văn học có lịch sử hình thành khá sớm. Nhưng thể ký thực sự phát triển khi: “Đời sống lịch sử của các dân tộc ngày càng phát triển theo hướng tăng tốc, khi kỹ nghệ in ấn và báo chí phát triển, văn học mở cửa, xé rào để thâm nhập vào các lĩnh vực hoạt động tinh thần khác, nhà văn ngày càng có ý thức tham gia trực tiếp vào những cuộc đấu tranh xã hội” [2;138]. Ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, đời sống lịch sử xã hội đã tạo ra những tiền đề thuận lợi cho thể ký có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Đặc điểm nổi bật của thể ký là chất tự do, phóng túng của ngòi bút, sự mãnh liệt trong cảm xúc của tác giả được sáng tạo trên nền hiện thực - kiểm chứng. Do đó, người viết ký phải là người nhạy bén với những điều mắt thấy tai nghe để qua lăng kính của mình chưng cất hiện thực cuộc sống thành một thứ hiện thực thẩm mĩ mà vẫn đảm bảo được tính xác thực, khách quan. Đồng thời, người viết ký bao giờ cũng là người có tinh thần nhập cuộc, có kiến thức sâu rộng, có tư duy tổng hợp vừa là của một nhà khảo cứu vừa là của một người sáng tạo nghệ thuật. Vì thế, ký là một thể loại khá năng động, linh hoạt và cởi mở, bởi nó: “Hàm chứa một nội diên có biên độ hết sức co dãn” [3;9]. Bản thân thể loại này lại có sự thâm nhập, cộng hưởng, giao thoa với các thể loại văn học khác. Song, ký vẫn là một thể loại văn học độc lập, bình đẳng, tồn tại ngang hàng với các thể loại văn học khác. . . Với 104 bài ký là những sáng tác văn học được thống kê, khảo sát trên tạp chí Tri tân có thể nhận thấy điểm nổi rõ của thể loại này là chất khảo cứu công phu quyện hòa với chất trữ tình đằm thắm. Các cây bút viết ký không chỉ là người có năng lực làm công việc khảo cứu mà còn có niềm say mê hứng thú trong các chuyến du ngoạn, có đức tính cần mẫn tỉ mỉ và hơn hết là có “sự hoạt động ráo riết của trí tuệ” để tìm hiểu, phân tích, lí giải những vấn đề của đời sống thực tại qua những trang viết đầy cảm xúc: “Hầu hết các tác giả viết trong thể tài này trên Tri tân đều đồng thời có năng lực làm các công việc khảo cứu. Họ không chỉ biết giương mục kỉnh nhìn vào các trang sách cổ mà còn tỏ ra rất hứng thú với công việc du khảo điền dã” [4;10]. Chỉ khi người viết bộc lộ một cách “trực diện nhất, rõ ràng nhất về bản thân mình” thì mới có tác phẩm ký - là sản phẩm sáng tạo nghệ thuật đích thực ra đời. 43 Nguyễn Thị Phương Lan Nếu như những bài ký xuất hiện trong những năm đầu của thế kỷ XX trên Đông Dương tạp chí và Nam phong tạp chí còn nặng về chất biên khảo, ghi chép thì các tác phẩm ký trên tạp chí Tri tân đã góp phần: “Cố gắng đẩy đến cùng khả năng cách tân thể loại truyền thống để xác lập một thể văn kết hợp mô tả, ghi chép sự thực với ký thác tâm sự” [5;377]. Có thể kể đến các cây bút viết ký già dặn như Nhật Nham Trịnh Như Tấu, Mãn Khánh Dương Kỵ, Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng, Biệt Lam Trần Huy Bá, Phạm Mạnh Phan, Vân Thạch. . . Với ưu thế của một thể loại năng động cho nên đối tượng mà thể ký hướng tới khá đa dạng, hình thức biểu hiện thì phong phú, không chịu sự câu thúc, gò ép, đóng khung trong bất cứ khuôn khổ nào. Thể loại ký trên tạp chí Tri tân cũng được chia thành nhiều tiểu loại từ phóng sự, tuỳ bút, bút ký, du ký, lữ ký... đến nhật ký, cảm xúc, cảm tưởng, ý nghĩ, ký ức. . . Có các bài phóng sự ngắn như: Một ngày ở xứ Chàm (Tam Lang), Đồng thiếp (Bảo Vân), Tết lánh nạn, Hai cảnh tết chiến tranh (Phạm Mạnh Phan). Cũng có các bài du ký, lữ ký dài kỳ như: Từ Hà Nội đến hồ Ba Bể (Nhật Nham), Indrapura (Đồng Dương), Thiên Y-a-na (Mãn Khánh Dương Kỵ), Buôn Mê Thuột, Hai tháng ở gò Óc Eo (Biệt Lam Trần Huy Bá), Bốn năm trên đảo Các Bà (Vân Đài). Có loại bài ký ức như: Một ngày tết của học sinh ta ở Lyon, Năm ấy ở Pháp (Lê Văn Ngôn), Ngày tết ăn yến, Một đêm giao thừa rùng rợn (Tiên Đàm). . . Ngoài ra là các bài cảm xúc cảm tưởng, ý nghĩ của Nguyễn Văn Tỵ (Vẻ đẹp xưa - vài ý nghĩ về phong cảnh tết), của Mộng Sơn (Cảm tưởng của phụ nữ với ngày xuân), hay tuỳ bútMùa thu với cuộc đời của Kiều Thanh Quế, bút ký Hát dưới trăng thu của Hoa Bằng, Sớm thu mưa gió. . . (hay là Vài ý nghĩ trong buổi sớm gió mưa) của Ngân Giang . . . Theo bước chân của các nhà du hành, các địa danh, thắng cảnh, các di tích lịch sử, các sự tích, truyền thuyết, các nhân vật... được các nhà du ký dày công tra cứu, tìm hiểu để lí giải tận ngọn nguồn gốc tích về lịch sử hình thành một vùng đất, khái quát về đặc điểm văn hóa riêng của từng miền, từng tộc người, chiêu tuyết những tấm gương trung thần nghĩa sĩ đã bị bỏ quên. . . Sản phẩm tinh thần từ những chuyến du khảo, điền dã ấy, lắng lại là tấm lòng đáu đáu của người viết đối với quê hương, đất nước, con người. 2.2. Các loại ký trên tạp chí Tri tân Dựa trên sự khu biệt về đề tài, đối tượng, nội dung phản ánh cũng như tính chất của công việc du hành, khảo cứu và qua việc khảo sát, thống kê 104 bài ký trên tạp chí Tri tân, chúng tôi tạm phân thành ba loại sau: 2.2.1. Ký danh tích Đó là các bài viết về những “xứ sở xa lạ”, những danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử còn “ít người có dịp đi đến”. Loại ký này chiếm ưu thế hơn cả: trên 40% (46/104 bài). Hầu hết các bài ký được tạp chí Tri tân giới thiệu đều là sản phẩm hình thành từ những chuyến đi, những cuộc hành trình, du ngoạn trực tiếp của người viết. Thậm chí chất du ký thể hiện rõ ngay từ nhan đề của mỗi tác phẩm:Một cuộc hành hương (đi thăm Tức Mặc – 44 Đặc điểm của thể ký trên tạp chí Tri tân (1941-1946) quê cũ nhà Trần) của Lê Thanh và Trúc Khê (số 14), Thăm chùa Bà Đanh của Vân Thạch (số 36), Thăm cảnh Hoa Lư của Khái Sinh (số 41), Sau tám năm trở lại thăm Lao Kay của Nhật Nham (số 46-47), Thăm trại thanh niên Tương Mai của Minh Tuyền (số 57), Một cuộc hành hương đền thờ cụ Nguyễn Trãi, một vị đại anh hùng có công lớn giúp vua Lê trong cuộc bình Ngô của Vô Ngã (số 65), Một buổi đi thăm làng Dừa của Thi Nham (số 116-117), Đi thăm Đông Dương học xá của Cách Chi và Phạm Mạnh Phan (số 119). . . Có thể nói, “du hành” để ghi chép, thể hiện những cảm tưởng, nhận xét, suy nghĩ về các danh lam, thắng cảnh, các địa danh lịch sử trên chính quê hương đất nước mình là một đặc điểm nổi bật của thể ký trên tạp chí Tri tân. Cũng có những cuộc du hành vượt ra khỏi không gian của đất nước mình như: Tết bên Lào (Vũ Nhật), Nhân tết năm nào. . . Tôi đi đám cưới ở Thụy Sỹ, Năm ấy ở Pháp (Lê Văn Ngôn). . . Tuy nhiên, số lượng các bài này không nhiều và không phải là thành công của thể ký trên tạp chí Tri tân. Các tác giả say mê hứng thú với các địa danh còn xa lạ, với nơi cảnh đẹp trên khắp vùng miền của tổ quốc, với các di tích lịch sử in dấu những chiến công hiển hách của ông cha. Các danh lam, thắng cảnh, những tích thiêng từ Bắc vào Nam, từ rừng xuống biển được các nhà du ký say sưa khám phá và sáng tạo. Thiên du ký dài kỳ Từ Hà Nội đến hồ Ba Bể của Nhật Nham Trịnh Như Tấu được đăng tải trong 14 số (từ số 58 đến số 74) trên 28 trang báo đã ghi chép khá tỉ mỉ về nguồn gốc ra đời, lịch sử hình thành cũng như đặc điểm riêng về phong tục, tập quán, văn hóa của mỗi vùng miền mà lữ khách đi qua. Chẳng hạn như lịch sử hình thành vùng Bắc Cạn, lịch sử ra đời của hồ Ba Bể, những đặc điểm riêng về địa lý, con người, tập tục của các dân tộc Nùng, Khách, Kim, Mán Cóc, Mán Tiền. . . Đặc sắc của bài du ký là sự đan lồng yếu tố chuyện trong truyện. Để lí giải về sự hình thành hồ Ba Bể, tác giả khéo léo lồng trong đó nhiều câu chuyện khá hấp dẫn. Có câu chuyện gắn với sự tích gò Pò-Già-Mải, rồi chuyện ghi chép trong Lĩnh Nam chích quái, chuyện được kể theo truyền thuyết của người Thổ. . . Tác giả đã khám phá ra những điều mới mẻ và đưa ra những cứ liệu xác thực về sự tích – danh thắng Ba Bể đầy sức thuyết phục. Bên cạnh ba bể Pé Lù, Pé Lầm, Pé Leèng còn có hai bể Pé Vài và Pé Và cách xa 8 cây số nên: “Tới nay trên dư đồ Nam Việt chỉ nói đến cảnh hồ Ba Bể mà quên hẳn hai bể Bản Vài. Vậy du khách qua chơi miền Ba Bể cũng nhớ đến cảnh hai bể mới thưởng ngoạn được hết cái đẹp của ngũ hồ Việt Nam, để liên tưởng đến cái thiên nhiên xảo diệu của ngũ hồ Trung Quốc”. Bài du ký còn hấp dẫn bởi những đoạn văn sử dụng nghệ thuật so sánh khá tinh tế và những trang văn miêu tả thiên nhiên đầy ấn tượng. Đến vùng Đầm Hồng, du khách say sưa ngắm nhìn những “Dãy núi lơ lửng có nhà của người Mèo làm cạnh những miếng nương như chiếu dải. Thỉnh thoảng tiếng nước trong các khe ầm ầm kêu réo như có thiên binh vạn mã rầm rộ kéo đến giục mình theo gương quân sĩ mau bước trên đường chiến đấu”. . . Thú vị hơn là thiên du ký được viết với cảm xúc tự do phóng túng, với ngòi bút linh 45 Nguyễn Thị Phương Lan hoạt và những liên tưởng bất ngờ. Chẳng hạn khi du khách thưởng ngoạn sản vật của hồ Ba Bể mà liên tưởng đến chuyện Tô Đông Pha đem rượu và cá đi chơi Xích Bích và lòng hồi hộp man mác đắm trong cảm giác của một không gian trữ tình: “Hồ mênh mông, nước bạc lẫn da trời một sắc, chim ngàn theo mây trắng cùng bay”. Cũng vì tính chất năng động của thể loại và chất tự do phóng túng của mạch cảm xúc mà bài du ký có cảm giác bị ngợp bởi quá nhiều thông tin, sự việc. Thậm chí mạch cảm xúc chảy tự nhiên theo bước chân người du hành nên khó tránh khỏi lòng vòng. Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan thì đây là một bài du ký có giá trị được Nhật Nham dày công khảo cứu đã sớm được Tri tân đón nhận và giới thiệu cùng độc giả. Tri tân còn dành hẳn chuyên mục "Dấu xưa vết cũ" để đăng tải những bài ký viết về các vùng miền gắn với dấu tích lịch sử của một thời đẹp đẽ huy hoàng mà theo thời gian năm tháng chỉ còn là nơi hoang phế, điêu tàn với niềm luyến tiếc ngậm ngùi như quê hương nhà Đinh, nhà Trần, nhà Lê, nhà Mạc. . . Những bài ký này thường cô đọng, súc tích, được trình bày trong khoảng một trang báo. Nếu như tạp chí Nam phong khá thành công với những bài ký viễn du thì Tri tân tạp chí lại thành công với mảng ký viết về các địa danh lịch sử, những tích thiêng, nơi cảnh đẹp. Chất du hành – khảo cứu của các bài ký viết về danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử trên tạp chí Tri tân là sự tiếp nối từ những bài du ký có “phong vị cổ kính” và “điệu trữ tình” trên tạp chí Nam Phong và ngày một hoàn thiện. Đồng thời những bài ký này cũng thể hiện khá rõ tư tưởng chủ đạo mà tạp chí hướng tới: tình yêu quê hương về đất nước, niềm tự hào về truyền thống lịch sử dân tộc. 2.2.2. Ký phong tục, tập quán, văn hóa Với 29 bài ký khảo cứu về phong tục, tập quán, văn hóa được tạp chí Tri tân giới thiệu tuy không nhiều nhưng cũng đủ để khái quát đặc điểm của thể tài này. Các nhà du ký vẫn say mê với hành trình “đi” và khám phá những điều mới lạ để cung cấp cho độc giả những tri thức mới. Những bài ký loại này thường ngắn gọn, đối tượng được phản ánh thường là một nét sinh hoạt, một tập tục, một thú vui tao nhã hay là nếp cảm nếp nghĩ trở thành một nét đẹp văn hóa của người Việt . . . Phóng sự Một ngày ở xứ Chàm của Tam Lang (số 1) mặc dù chỉ gói gọn trong một trang báo nhưng tác giả đã khái quát được những nét riêng về phong tục tập quán bất di, bất dịch của người phụ nữ Chàm. Họ chính là điểm tựa, là linh hồn của mỗi gia đình. Họ không chỉ là lao động chính đảm nhiệm nuôi nấng gia đình mà họ còn vươn lên làm phái mạnh để che chở, bao bọc cho chồng (đánh đuổi rắn). Người đàn ông trong xã hội Chàm lại trở thành phái yếu: suốt ngày họ chỉ ăn, rồi lại nằm, trở thành những kẻ ươn hèn, chân yếu tay mềm. Người phụ nữ Chàm dưới ngòi bút của Tam Lang hiện lên với những nét hồn nhiên, nhẫn nại chịu đựng và giàu đức hi sinh. Đức tính nhường nhịn của họ lâu ngày cũng trở thành tục lệ: họ ăn bốc bằng tay còn đũa để nhường cho chồng. Nhu cầu đi và tìm hiểu tra cứu đã trở thành niềm hứng thú, say mê của các tác giả. 46 Đặc điểm của thể ký trên tạp chí Tri tân (1941-1946) Anh Ngẫu trong bài Tục hát trống quân giữa giai Xuân Cầu, gái Khúc Lộng (số 19) đã tìm hiểu về một “lối chơi thanh nhã” của mảnh đất quan họ Bắc Ninh: đó là tục hát trống quân giữa con trai làng Xuân Cầu và con gái làng Khúc Lộng vào những đêm trăng thu đẹp đẽ. Hát trống quân thực ra là lối hát đối đáp giao duyên. Các chàng trai, cô gái đất quan họ say sưa ca hát thâu đêm. Họ hát để cho tinh thần phấn chấn, tình cảm trong sạch. Tục hát trống quân chính là nét đẹp truyền thống của dân ca quan họ Bắc Ninh nói riêng và văn hóa dân gian Việt Nam nói chung. Để khảo cứu một cổ tục của người Thổ (Tục hoả táng của người Thổ, số 97), Đỗ Hoàng Lạc đã trèo đèo lội suối để tận mắt chứng thực tục thiêu người chết của họ: “Người chết tức là giải thoát chốn hồng trần. Nhưng nếu thể xác vẫn nằm dưới lớp đất đen thì linh hồn vẫn chưa được siêu thăng lên cõi Nát Bàn thượng giới. Cần phải thiêu sạch cả thể chất cấu tạo bởi tục phàm mới mong đưa linh hồn về nơi cực lạc theo ngọn lửa thiêng”. Vì vậy dù giàu có hay sang hèn họ đều theo tục ấy. Bởi như thế họ mới hoàn thành chữ hiếu với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Nhưng để thực hiện tập tục đó cần một khoản tiền không nhỏ, không phải ai cũng làm được. Cay đắng cho những kẻ nghèo khó, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc phải ngậm ngùi tủi phận vùi chôn thi thể ông bà, cha mẹ dưới lớp đất đá để những mong có ngày ăn nên làm nổi có tiền lại moi đống xương tàn đó lên để thực hiện tục hỏa thiêu. Như thế người thân của họ mới được cứu rỗi linh hồn về nơi đức Phật từ bi. Khi mục kích tận mắt một đám thiêu tươi xác chết, tác giả mới nhận thấy đó là một cổ tục thật ghê tởm, kinh dị, xác chết bị ngọn lửa thiêu làm cho rút gân co rúm lại. Đặc biệt ở loại ký này còn có chùm bài khảo cứu khá hẫp dẫn về các tập tục trong ngày tết, tục thờ cúng tổ tiên, tục dâng hương, trai cung. . . , về thú chơi tao nhã: chơi hoa, chơi cây cảnh, câu đối trong ngày tết, họa thơ. . . Nhìn chung, các bài ký về phong tục tập quán văn hóa trên tạp chí Tri tân đậm đà phong vị phương Đông đặc biệt in rõ dấu ấn của loại ký khảo cứu. Sức hẫp dẫn của loại bài này là bởi sự quyện hoà giữa trí tuệ uyên bác và cảm xúc tự nhiên mãnh liệt của người viết. 2.2.3. Ký nhân vật Là những bài ký viết về con người, có thể là người thật việc thật, là nhân vật lịch sử hoặc là nhân vật trong các truyền thuyết, sự tích. . . Viết về các nhân vật lịch sử, nhà du ký phải có sự am hiểu sâu sắc về lịch sử văn hóa, phải cần mẫn tra cứu trong sử sách, trong chuyện kể dân gian, phải dày công đối chiếu so sánh để tạo ra những câu chuyện “thật” và hấp dẫn thuyết phục độc giả. . . Bà Lương giết giặc Minh hạ thành Cổ Lộng của Chu Thiên là bài ký sự ngắn mà đặc sắc. Đến thăm thành Cổ Lộng vào một buổi sáng đầu xuân, trước cảnh làm màu của dân quê, tác giả không khỏi bùi ngùi nhớ về cảnh cũ, người xưa: nơi đây là chiến địa oanh liệt của ta, cũng là nơi hàng vạn giặc Minh đã từng làm mưa làm gió. . . Từ đó, tác giả khảo cứu về tên thành, vị trí địa lý của thành, mục đích xây đắp thành và đặc biệt lại lồng 47 Nguyễn Thị Phương Lan trong đó yếu tố truyện để kể về bà Kiến quốc phu nhân mưu trí, dũng cảm diệt giặc, hạ thành mà Việt sử bỏ quên. Viết bài này, tác giả tỏ bày tâm niệm thành kính của hậu sinh với một vị cứu quốc nữ anh hùng mà ít người biết đến. Ngôi mả hoang của Kiều Thanh Quế là ký sự viết về cuộc viếng thăm của tác giả đến nơi yên nghỉ ngàn thu của bậc tài danh Cử Trị (cử nhân Phan Văn Trị), một bậc danh nho tiết tháo, bậc trung thần nghĩa sĩ của Bản triều hồi Pháp Nam (Nam chỉ Nam Kỳ) sơ giao, một thi tài lỗi lạc đã để lại hơn 500 bài thơ giai tác mà giờ đây chỉ còn lại nắm xương tàn vùi chôn dưới ngôi mộ hoang phế: “Không mộ bia, không tam cấp đá, không có gò đất đắp vun lên, chỉ bằng phẳng một thảm cỏ khâu xanh rì”. Chứng kiến ngôi mộ phế hoang của một bậc hiền tài tiết nghĩa, tác giả không khỏi bùi ngùi xúc động, gợi nhớ lại cả một giai đoạn lịch sử thời Pháp và Nam thương thuyết bất thành mà dẫn đến cảnh giao tranh. . . Đối với nhân vật trong truyền thuyết có thể kể đến du ký Thiên Y-a-na qua ngòi bút khảo cứu đầy hấp dẫn của Mãn Khánh Dương Kỵ. Tác giả du hành đến điện thờ tại hòn Chén ở Huế để viết về vị nữ thần Pô-Ino-Nogar. Trong khung cảnh thiên nhiên mơ màng kì diệu, tượng vị nữ thần gợi nhớ đến câu chuyện trong truyền thuyết của người Việt về vị tiên nữ lưu chốn hạ giới, hiển linh giúp dân làng làm việc thiện, trừ tai ác... Không chỉ dừng lại ở đó, con mắt tìm tòi khám phá của nhà khảo cứu đã giúp tác giả tìm hiểu về truyền thuyết của người Chàm để thấy được những quan niệm khác nhau giữa các dân tộc cũng như sự phong phú trong kho tàng văn hóa dân gian. Đặc biệt Tri tân dành riêng chuyên mục “Thăm dấu người xưa” để viết về các nhân vật lịch sử tên tuổi như: Lê Thái Hậu, Lê Hiển Tông, Lê Quýnh, các vị danh nho khí tiết thanh cao như Chu Văn An, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi. . . Sức hẫp dẫn của những bài ký sự, phóng sự về người thật việc thật chính là cách thuyết phục của người viết khi đứng trước một hiện thực khách quan. Người viết ngoài sự nhạy cảm của trái tim, sự rung động của tâm hồn thì rất cần đến sự hoạt động của khối óc để