Đặc điểm định danh xét từ góc độ nguồn gốc của nhóm từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin trong tiếng Việt (Đối chiếu với tiếng Anh)

Tóm t t: Phong tục cưới xin là phong tục có ở tất cả các dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên, giữa các dân tộc, phong tục này có sự khác biệt. Và không phải ai cũng có thể hiểu hết những ý nghĩa của phong tục đó. Vì thế, tìm hiểu về những từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin ở các dân tộc sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào ý nghĩa những nét văn hoá đặc trưng của các dân tộc đó. Sự phản ánh đặc trưng văn hóa-dân tộc có thể được thể hiện qua nhiều bình diện khác nhau như: trong ý nghĩa của từ, qua “bức tranh ngôn ngữ về thế giới”, trong cách biểu trưng và qua định danh ngôn ngữ. Bài viết này sẽ đi sâu tìm hiểu về đặc điểm định danh xét từ góc độ nguồn gốc của những từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin trong tiếng Việt đối chiếu với tiếng Anh.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 227 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm định danh xét từ góc độ nguồn gốc của nhóm từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin trong tiếng Việt (Đối chiếu với tiếng Anh), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 385 ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH XÉT TỪ GÓC ĐỘ NGUỒN GỐC CỦA NHÓM TỪ NGỮ BIỂU THỊ PHONG TỤC CƯỚI XIN TRONG TIẾNG VIỆT (ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG ANH) Vũ Linh Chi Trường Đại học Hà Nội Tóm t t: Phong tục cưới xin là phong tục có ở tất cả các dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên, giữa các dân tộc, phong tục này có sự khác biệt. Và không phải ai cũng có thể hiểu hết những ý nghĩa của phong tục đó. Vì thế, tìm hiểu về những từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin ở các dân tộc sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào ý nghĩa những nét văn hoá đặc trưng của các dân tộc đó. Sự phản ánh đặc trưng văn hóa-dân tộc có thể được thể hiện qua nhiều bình diện khác nhau như: trong ý nghĩa của từ, qua “bức tranh ngôn ngữ về thế giới”, trong cách biểu trưng và qua định danh ngôn ngữ. Bài viết này sẽ đi sâu tìm hiểu về đặc điểm định danh xét từ góc độ nguồn gốc của những từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin trong tiếng Việt đối chiếu với tiếng Anh. Abstract: Wedding customs exist in many nations all around the world. However, these customs differ across cultures around the world and not everybody can fully understand what is meant by these words. Thus, an understanding of words expressing wedding customs in nations will provide a better knowledge of their cultural characteristics. The cultural characteristics can express through many different aspects: semantic structure, “language picture of the world”, symbolic meanings and characteristics of nomination. This article will study deeply nominative characteristics about origin of words expressing wedding customs in Vietnamese (compared to English). Phong tục cùng với truyền thống, nghi lễ, nghệ thuật,... là những thành tố văn hoá mang đậm nhất sắc thái đặc trưng dân tộc. Có những phong tục chỉ có ở một dân tộc nhất định nào đó nhưng có những phong tục lại phổ biến cho nhiều tộc người. Cưới xin thuộc loại thứ hai. Phong tục cưới xin tồn tại ở tất cả các dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên, giữa các dân tộc, phong tục này có sự khác biệt. Và không phải ai cũng có thể hiểu hết những ý nghĩa của phong tục đó. Vì thế, tìm hiểu về những từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin trong tiếng Việt và tiếng Anh sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào ý nghĩa những nét văn hoá đặc trưng của hai dân tộc này. Điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho việc học ngoại ngữ. Ngoài ra, nó còn giúp ích trong công tác giảng dạy tiếng Việt. Sự phản ánh đặc trưng văn hóa - dân tộc có thể được thể hiện qua nhiều bình diện khác nhau như: trong ý nghĩa của từ, qua “bức tranh ngôn ngữ về thế giới”, trong cách biểu trưng và qua định danh ngôn ngữ. Bài viết này sẽ đi sâu tìm hiểu về đặc điểm định danh xét từ góc độ nguồn gốc của những từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin trong tiếng Việt đối chiếu với tiếng Anh. Về thuật ngữ “định danh” có rất nhiều cách hiểu khác nhau. Nhưng quan niệm sau của T.V.Kolshansky được chúng tôi chấp thuận và lấy làm cơ sở để nghiên cứu: “Định danh (nomination) là gắn cho một kí hiệu ngôn ngữ một khái niệm - biểu niệm (signifikat) phản ánh những đặc trưng nhất định của một biểu vật (denotat) - các thuộc tính, phẩm chất và quan hệ của các đối tượng và quá trình thuộc phạm vi vật chất và tinh thần, nhờ đó các đơn vị ngôn ngữ tạo thành những yếu tố nội dung của giao tiếp ngôn từ” (dẫn theo [21, 33]). Nói ngắn gọn, định danh là cách đặt tên gọi cho một sự vật, hiện tượng, tính chất... Và để thuận tiện cho việc nghiên cứu, chúng tôi chia nhóm từ ngữ biểu thị phong tục cưới xin thành 3 tiểu trường: + Thành phần tham gia/Con người và quan hệ Ti u ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài 386 + Lễ vật/Sính lễ + Nghi lễ/Nghi thức 1. Phong tục tập quán cưới xin ở người Việt và vấn đề định danh trong tiếng Việt 1.1. Từ xa xưa, người Việt có lệ tảo hôn. Con trai mới khoảng hơn 10 tuổi, bố mẹ đã nghĩ đến lấy vợ cho con và thường không phải là chọn con dâu bằng tuổi mà lớn tuổi hơn rất nhiều. Thêm được một nhân lực, dù mới chỉ là 15, 16 tuổi, gia đình cũng giải quyết được khá nhiều công việc, từ xay lúa, giã gạo đến thổi cơm, nấu nước mang ra đồng cho thợ gặt, thợ cấy ăn, Xã hội nông nghiệp đã làm nảy sinh ra cái tục lệ này. Trong ca dao còn ghi lại rõ nét hình ảnh chênh lệch tuổi tác đó. Bồng bồng cõng chồng đi chơi Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng... Mặt khác, tâm lí xã hội cũng cần phải kể đến. Người xưa quan niệm cần lấy vợ sớm cho con, dù có thể còn quá sớm, nhưng sau đó vài năm biết đâu chúng chẳng đẻ con. Như thế là việc nối dõi tông đường được đảm bảo chắc chắn. Đó là chưa kể càng lâu sau sức sinh sản càng tăng. Đông con nhiều cháu đó là Phúc của gia đình. Quy cho cùng vẫn là vấn đề nhân lực, một yêu cầu tất yếu của nền sản xuất nông nghiệp. Và đứng trước yêu cầu ấy, người ta đã làm tất cả những gì có thể làm được bất chấp khoa học về sinh lí lứa tuổi, mà nói cho đúng hơn là điều này người ta chưa hề biết tới. Mãi đến khi người Pháp tới bảo hộ mới qui định lứa tuổi lấy vợ, lấy chồng. Theo quy định năm 1888 thì con gái phải 14 tuổi, con trai 16 tuổi mới được phép làm lễ cưới. Quy định này tỏ ra vẫn phải nhân nhượng với phong tục của người bản xứ. Về thủ tục cưới xin ở người Việt dưới thời Pháp thuộc đã bắt đầu thay đổi, nhất là trong mấy chục năm gần đây, ở các nơi đô thị có nhiều điều Âu hóa rõ rệt. Vì vậy, khi xem xét vấn đề cần phải nhận định cho rõ đâu là truyền thống, đâu là lai căng. Nói chung, ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa khá sâu đậm. Ta không theo tuyệt đối như họ nghĩa là đủ 6 lễ như trong sách Văn công gia lễ (1) trong việc cưới xin, nhưng những công việc ta vẫn làm cho tới nay trong cưới xin thì nội dung có thể nói là tương tự. Sự khác biệt ở chỗ việc xem ngày sinh tháng đẻ, hay chọn ngày lành tháng tốt, cũng như việc thách cưới người Việt vẫn làm nhưng không thành lễ. Đối với người Việt, việc cưới xin, theo truyền thống chỉ trải qua 3 lễ là Lễ chạm ngõ, Lễ ăn hỏi và Lễ đón dâu. Trong lễ ăn hỏi, nhà trai dẫn đồ lễ theo yêu cầu của nhà gái và nhà gái đem phân phối cho họ hàng, người thân với ý nghĩa công bố chính thức cho mọi người biết là thủ tục cưới đã bắt đầu. Còn lễ chạm ngõ thì đơn giản, chỉ có một cơi trầu và ý nghĩa của nó chỉ là những lời ngỏ ý, không mang tính ràng buộc gì. Chẳng thế mà người ta vẫn thường nói “Cơi trầu chạm ngõ là cơi trầu bỏ đi”. Các nghi thức trên cũng có luật lệ qui định rõ ràng. Năm 1477 dưới triều Lê đã có quy định sau: “Phàm người lấy vợ, trước hết phải mượn người mối đi lại bàn định, rồi sau mới định lễ cầu thân. Lễ cầu thân xong rồi mới định lễ dẫn cưới. Dẫn cưới xong rồi mới định ngày đón dâu. Ngày hôm sau chào cha mẹ chồng, ngày thứ ba đến lễ nhà thờ (2).”(dẫn theo [4, 2]). Điều đáng chú ý là theo truyền thống việc hôn nhân của con cái đều do cha mẹ quyết định “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Những điều vừa trình bày cho thấy một bức phác họa về phong tục cưới xin của người Việt. Từ những thủ tục cưới xin ấy rút ra hàng loạt ngôn từ được định danh. Chúng tôi sẽ lần lượt thống kê các yếu tố được định danh theo 3 tiểu trường và xem xét chúng về mặt nguồn gốc. (1) Sáu lễ nghi trong sách Văn công gia lễ gồm: - Nạp thái: đưa lễ, tỏ ý đã kén chọn. - Vấn danh: hỏi tên tuổi, ngày sinh tháng đẻ xem có hợp không. - Nạp cát: chọn ngày tốt để làm lễ cưới - Thỉnh kỳ: xác nhận ngày cưới - Nạp tệ: đưa đồ lễ do nhà gái ấn định - Thân nghinh: đón cô dâu về (2) Nhà thờ đây là nơi để bàn thờ tổ tiên, chứ không phải nhà thờ của đạo Thiên chúa. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 387 1.2. Về con người tham gia vào việc hôn lễ. Ông mai (bà mối) bố mẹ chồng, bố mẹ vợ Nhà trai, nhà gái ông bà nhạc Chú rể, cô dâu ông gia, bà gia Phù rể, phù dâu thông gia (sui gia) Chủ hôn quan viên Tuy còn những từ với yếu tố gốc Hán như: chủ hôn, thông gia, quan viên,... Song đại bộ phận là từ thuần Việt. Theo thống kê từ thuần Việt chiếm tỉ lệ 24/35, tức 69%; còn lại là những từ ngữ Hán-Việt chiếm 31%. 1.3. Về lễ vật Tùy tình hình mà lễ vật có thể rất đa dạng, song một số lễ vật dường như phổ biến trong lễ cưới của người Việt theo truyền thống là: Xôi vò lợn béo Rượu tăm buồng cau Tiền cheo chè Tàu Đương nhiên, ngày nay ở thành phố lễ vật có khác. Thường là bánh cốm, bánh phu thê, chè ướp sen, trầu cau, rượu ngoại, Nhưng ta cũng không quên rằng cộng đồng người Việt đang sống ở nông thôn mới là tuyệt đại đa số của dân ta, và ở đấy việc ăn uống còn khá là quan trọng. Nó đã tồn tại trong ca dao từ bao đời (3). Điều đáng quan tâm là tiền cheo. Khoản này được quy định theo lệ làng và nhà nước. Năm 1663 vua Lê Huyền Tông ban 47 điều giáo hóa, thì điều 44 có nêu rõ rằng: “Bất cứ ở cùng một làng hay làng khác đều cho phép thu cheo một quan tiền cổ và một vò rượu. Quan viên và binh lính ở xã thôn nhà gái không được viện cớ người ta lấy chồng làng khác mà đòi tiền cheo (3) ...Giúp em một thúng xôi vò Một con lợn béo, một vò rượu tăm ...Giúp em quan tám tiền cheo Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau Hoặc: Cưới em chín chĩnh mật ong, Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò. Cưới em tám vạn trâu bò, Bảy vạn dê lợn, trăm vò rượu tăm quá lạm và tiền tiễn tống, hay hùa nhau ăn hiếp phụ nữ ở hoá lấy về làm vợ làm hầu.” (dẫn theo [14, 345]). Năm 1804 vua Gia Long định lệ: “Trai lấy vợ, gái lấy chồng thì sính lễ phải châm chước. Trong 6 lễ phải tuỳ sức nhà trai giàu nghèo, không được bắt ép viết văn khế cầm ruộng. Về tiền cheo thì nhà giàu phải nạp 1 quan 5 tiền, nhà bậc trung nạp 6 tiền, nhà nghèo nạp 3 tiền. Nếu lấy người làng khác phải nạp gấp đôi...” (dẫn theo [14, 346]). Khoản tiền cheo này được dùng vào việc công ích như mua gạch lát đường làng, xây cổng làng, đào giếng, Tiền cheo rất quan trọng, có vai trò giống như giấy kết hôn bây giờ. Nó chứng thực lễ cưới được sự chấp nhận của làng xã. Điều này không thấy ghi trong sách vở Trung Hoa. Còn trong ca dao người Việt thì luôn nhắc tới điều này (4). Về tiểu trường lễ vật theo thống kê của chúng tôi, từ thuần Việt chiếm tỉ lệ 23/28 tức 82%. Điều này hoàn toàn dễ hiểu bởi người Việt đã dùng những sản vật sẵn có của mình để làm đồ dẫn lễ. 1.4. Về lễ nghi Như trên đã trình bày, các lễ trong đám cưới người Việt đơn giản hơn người Hán. Trong tiểu trường này, bên cạnh phương thức định danh bằng cách vay mượn từ ngữ Hán, vẫn tồn tại song song cách gọi tên thuần Việt. Hán Việt Thuần Việt nạp thái chạm ngõ/chạm mặt nạp tệ dẫn cưới/ăn hỏi thân nghinh đón dâu/rước dâu Song có những trường hợp, chúng ta vẫn chỉ dùng từ ngữ vay mượn Hán do ý nghĩa khái quát (4) Cưới vợ không cheo, tiền gieo xuống suối. Hay: Nuôi lợn thì phải vớt bèo, Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng Hoặc: Có cưới mà chẳng có cheo, Dẫu rằng có giết mười heo cũng hoài. Ti u ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài 388 và sắc thái tu từ trang trọng của chúng mà từ ngữ thuần Việt không có. Tân hôn lễ gia tiên Kết hôn lễ hợp cẩn Lễ tơ hồng lễ động phòng Lễ vu quy Có khi từ chỉ phong tục cưới xin của người Việt lại là sự kết hợp giữa yếu tố Hán Việt và yếu tố thuần Việt như: lại quả, lại mặt, lễ rót rượu. Từ gốc Hán theo thống kê của chúng chiếm tỉ lệ 18/33 chiếm 55%. 2. Phong tục tập quán cưới xin ở người Anh và vấn đề định danh trong tiếng Anh. 2.1. Giống với đám cưới truyền thống của người Việt, đám cưới truyền thống của người Anh là do sự sắp xếp của bố mẹ. Từ thế kỉ 16 đến thế kỉ 19, cha mẹ hoặc người giám hộ sẽ sắp xếp hôn nhân. Cô dâu, chú rể thường không biết nhau cho tới đám cưới của họ. Các bậc cha mẹ thường thoả thuận hôn nhân hoặc hứa hôn cho con từ khi chúng còn nhỏ (ở Anh là từ 3 đến 7 tuổi). Trước khi cưới, ở Việt Nam, gia đình chú rể mang lễ vật đến nhà cô dâu để xin cưới và được gọi là lễ ăn hỏi thì ở Anh, cô dâu và chú rể tổ chức một bữa tiệc được gọi là lễ đính hôn, trong đó gia đình, người thân, bạn bè của cô dâu, chú rể cùng tham gia để chứng nhận họ đã thuộc về nhau trong đám cưới sắp tới. Tất cả các đám cưới truyền thống của người Anh chỉ được tổ chức sau khi được thông báo từ 8 đến 12 ngày hoặc trong 3 chủ nhật trước đám cưới ở Giáo hội Anh giáo hoặc nhà thờ trước 2 hoặc nhiều nhân chứng. Nghi lễ cưới xin của người Anh thường được tổ chức tại nhà thờ (đám cưới của người Việt không tổ chức ở đình chùa mà ở nhà). Khi cô dâu bước vào nhà thờ (thường là bố cô dâu đưa vào), nhạc nổi lên. Phía trước cô dâu là những bé gái rải những cánh hoa dọc theo con đường vào nhà thờ với ý nghĩa mong muốn cho cuộc sống của cô dâu được hạnh phúc. Phía sau cô dâu là các phù dâu. Các phù dâu đôi khi mặc váy gần giống như của cô dâu để gây nhầm lẫn cho những linh hồn xấu xa với mục đích là bảo vệ cô dâu. Lễ thường bao gồm hai hoặc ba bài thánh ca. Trong buổi lễ, cô dâu và chú rể đọc lời nguyện, cam kết của họ với nhau. Sau đó, cô dâu và chú rể trao nhẫn cho nhau. Trong buổi lễ, các cặp vợ chồng sẽ rời khỏi nơi tôn nghiêm và nhập phòng thánh để kí vào các văn bản kết hôn. Khi các cặp vợ chồng mới cưới rời khỏi nhà thờ, con đường được rải các biểu tượng việc làm của chú rể, như thợ mộc đi bộ trên dăm, thợ đóng giày trên vụn da, thợ rèn trên miếng sắt cũ, Chuông nhà thờ vang dậy những giai điệu khác nhau để xua đuổi những linh hồn xấu xa. Trước khi rời nhà thờ, cô dâu tung bó hoa và ai bắt được sẽ là người kế tiếp để kết hôn. Những nghi thức này không có trong đám cưới truyền thống của người Việt. Mùa đẹp nhất đối với người Anh để kết hôn là giữa mùa thu hoạch và giáng sinh (khoảng từ tháng 9 đến tháng 12) khi đó thực phẩm dồi dào, phong phú “cưới vào tháng 9, cuộc sống của bạn sẽ phong phú; nếu trong tháng 10 bạn kết hôn, tình yêu sẽ đến nhưng nán lại giàu sang; nếu bạn cưới vào tháng 11 ảm đạm, chỉ có niềm vui sẽ đến, hãy nhớ; khi tháng 12 tuyết rơi nhanh, kết hôn và tình yêu sẽ đích thực; kết hôn khi năm mới, bạn sẽ được yêu thương tử tế và chân thật;”. Đám cưới truyền thống của Anh được tổ chức vào giữa trữa, sau đó có bữa ăn trưa, gọi là “breakfast wedding”. Ở đó họ ăn uống và nhảy múa. Cô dâu và chú rể nhảy múa đầu tiên, không có giới thiệu hai họ của cô dâu, chú rể như ở đám cưới Việt. Người Anh có những quan niệm chung về thời gian cho hôn nhân khác với người Việt. Thời gian để tổ chức hôn lễ của người Việt phụ thuộc vào tuổi của cô dâu, chú rể và điều này rất quan trọng bởi nó liên quan đến cuộc sống sau này của đôi vợ chồng. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 389 Một điểm khác biệt nữa trong cưới xin của người Việt và người Anh là chụp ảnh. Ở Anh, cô dâu chú rể chụp với gia đình và bạn bè ở bên ngoài nhà thờ ngay sau buổi lễ hoặc bên trong nếu trời mưa. Sau khi chụp ảnh, người thân và bạn bè tặng cô dâu móng ngựa, muỗng gỗ, chân lăn, tất cả được trang trí với ren và ruy băng. Còn cô dâu chú rể người Việt hiện nay thường chụp ảnh trước đám cưới còn trong đám cưới thì chụp ảnh tất cả thời gian, ngay cả khi khách đang ở bên. 2.2. Về những yếu tố định danh trong cưới xin, nếu những từ vay mượn trong tiếng Việt chủ yếu có nguồn gốc từ tiếng Hán thì trong tiếng Anh là từ tiếng Pháp và tiếng La tinh. Điều đó cũng dễ hiểu vì nguồn gốc người Anh là tộc người Celtic sống trên các hòn đảo ở khối liên hiệp Anh ngày nay – thường được gọi là Britannic. Họ đã sinh sống và có ngôn ngữ riêng từ trước thế kỉ 5 sau công nguyên. Sau đó họ bị 2 tộc người từ Bắc Âu thuộc tộc người Giecmăng (German) là Anglo và Saxon đến xâm lấn và tạo nên dân tộc Anh và tiếng Anh ngày nay. Nhưng rồi họ lại bị người Pháp từ Normandie đến đánh chiếm và cai trị, mang đến văn hoá Pháp và La tinh. Do đó, trong tiếng Anh ngày nay có rất nhiều từ gốc Pháp. Về ngôn từ trong cưới xin của người Anh ta có thể liệt kê hàng loạt từ vay mượn đều là gốc Pháp và La tinh như sau: Marry fiance Engage fiancée Affiance épouse Nuptials consort Proposal concubine Marriage guidance trousseau Marriage certificate dowry Connubial champagne Trong số những từ ngữ vay mượn này thì những từ ngữ biểu thị nghi thức là nhiều hơn cả: 23/32, chiếm tỉ lệ 72% (tiếng Việt là 55%). Những từ vay mượn thuộc tiểu trường con người là ít nhất: 7/27, chiếm tỉ lệ 26% (trong khi tiếng Việt là 31%). Cuối cùng phải nhận định là phong tục cưới xin ở người Việt phức tạp hơn ở người Anh nhiều. Điều này được thể hiện rõ ở số lượng từ ngữ cưới xin của người Việt so với người Anh là 106/72. Qua phần trình bày trên đây, chúng ta có thể thấy rằng phần lớn những từ ngữ biểu thị nghi thức cưới xin tiếng Việt là có nguồn gốc Hán bởi Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc rất sâu sắc. Tuy nhiên, định danh về lễ vật chủ yếu lại là những từ ngữ thuần Việt. Chính điều này đã tạo nên bản sắc văn hoá của riêng người Việt. Còn những từ ngữ vay mượn biểu thị phong tục cưới xin trong tiếng Anh chiếm 50% và phần lớn là có nguồn gốc từ tiếng Pháp và Latinh. Như vậy, giống với nhiều dân tộc khác, tiếng Việt và tiếng Anh cũng có vay mượn nhưng là sự vay mượn một cách có chọn lựa, có ý thức và tiểu trường vay mượn nhiều nhất trong hai ngôn ngữ là tiểu trường “nghi lễ” (tiếng Việt:55%, tiếng Anh: 72%). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Kế Bính (2005), Việt Nam phong tục, NXB Văn hoá- Thông tin, Hà Nội. 2. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội. 3. Đỗ Hữu Châu (2000), Tìm hiểu văn hoá qua ngôn ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 10. 4. Nguyễn Dư, Phong tục về cưới xin, http:// chimviet. free.fr. 5. Nguyễn Văn Độ (2004), Tìm hiểu mối liên hệ ngôn ngữ-văn hoá, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, NXB Đại học &Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 7. Nguyễn Quốc Hùng (2001), Một vài đặc điểm đáng lưu ý về tư duy ngôn ngữ ở người Anh, Tạp chí Ngôn ngữ, số 8. 8. Nguyễn Thúy Khanh (1994), Đặc điểm định danh của trường tên gọi động vật tiếng Nga trong sự đối chiếu với tiếng Việt, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 2. 9. Nguyễn Thúy Khanh (1994), Đặc điểm định danh Ti u ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài 390 tên gọi động vật trong tiếng Việt, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 1. 10. Nguyễn Lân (2003), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội. 11. Bùi Xuân Mỹ, Phạm Minh Thảo (2003), Tục cưới hỏi ở Việt Nam, NXB Văn hoá- Thông tin, Hà Nội. 12. Vũ Ngọc Phan (2004), Tục ngữ - Ca dao - Dân ca Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội. 13. Robert Lado (2003), Ngôn ngữ học qua các nền văn hoá, Hoàng Văn Vân dịch, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 14. Nhất Thanh-Vũ Văn Khiếu (2005), Phong tục làng xóm Việt Nam, NXB Phương Đông. 15. Phan Thuận Thảo (2005), Tìm hiểu phong tục Việt Nam xưa và nay: Tục lệ cưới gả, tang ma của người Việt xưa, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 16. Lý Toàn Thắng (1983), Vấn đề ngôn ngữ và tư duy, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2. 17. Lý Toàn Thắng (2001), Bản sắc văn hoá: thử nhìn từ góc độ tâm lý-ngôn ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 15. 18. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 19. Nguyễn Đức Tồn, Huỳnh Thanh Trà (1994), Đặc điểm danh học và ngữ nghĩa của nhóm từ ngữ chỉ “Sự kết thúc cuộc đời của con người”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3. 20. Nguyễn Đức Tồn (1994), Đặc trưng dân tộc của tư duy ngôn ngữ qua hiện tượng từ đồng nghĩa, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3. 21. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hoá-dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 22. Tân Việt (2005), 100 điều nên biết về phong tục Việt Nam, NXB Văn hoá dân