Sau khi thụ phấn chừng 4-5 tháng thì quả sẽ chín. Quả cao su thuộc loại quả nang (vỏ quả khô có nhiều mảnh) có đường kính từ 3 - 5c m. Quả có 3 buồng, mỗi buồng có một hạt. Khi chín quả nứt theo chiều dọc bắn tung hạt ra ngoài. Hạt có thể văng xa đến 15m. Mùa quả chín ở Miền Nam và Tây Nguyên vào tháng 6 -7, vụ phụ vào tháng 10-11. Trong khi ở khu vực Bắc miền Trung lại rơi vào cuối năm hay đầu năm sau.Việc
thu hoạch hạt phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện nắng ráo, để vỏ quả có thể khô và quăn lại sau đó bắn hạt tung xuống đất. Quả cao su sau khi hình thành và phát triển được 12 tuần có thể đạt được kích thước lớn nhất, 16 tuần sau vỏ quả có thể hoá gỗ và kho ảng 20 tuần thì chín.
13 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 3244 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm sinh trưởng phát triển và yêu cầu sinh thái của cây cao su, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
37
Vào thờ i đ iểm hoa chín, nuốm ho a có mà u và ng trắng, ẩm ướt, sau đó 4
ngà y nuốm c huyển màu nâ u đỏ và k hô đ i(h ình2.4).
2 . Q uả và hạ t
Sau khi thụ phấn chừng 4-5 tháng thì quả sẽ chín. Quả cao su thuộc loại quả nang
(vỏ quả khô có nhiều mảnh) có đường kính từ 3-5cm. Quả có 3 buồng, mỗi buồng có
một hạt. Khi chín quả nứt theo chiều dọc bắn tung hạt ra ngoài. Hạt có thể văng xa đến
15m. Mùa quả chín ở Miền Nam và Tây Nguyên vào tháng 6-7, vụ phụ vào tháng 10-
11. Trong khi ở khu vực Bắc miền Trung lại rơi vào cuối năm hay đầu năm sau. Việc
thu hoạch hạt phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện nắng ráo, để vỏ quả có thể khô và quăn
lại sau đó bắn hạt tung xuống đất. Quả cao su sau khi hình thành và phát triển được 12
tuần có thể đạt được kích thước lớn nhất, 16 tuần sau vỏ quả có thể hoá gỗ và khoảng
20 tuần thì chín.
Hạt có chiều dài 2-3,5cm, trọng lượng 3,5-6g tươi (vừa rụng). Một kg hạt trung
bình có 200-250 hạt. Bên ngoài hạt là một lớp vỏ cứng láng. Hạt có dạng gần tròn hay
bầu dục với mặt lưng láng và mặt bụng hơi phẳng hơn, tại đây có một lổ nhỏ để giúp
cho cây hút nước khi nảy mầm. Nhìn ngoài hạt cao su gần giống trứng cút, hình thái
bên ngoài của vỏ hạt là đặc trưng của giống. Bên trong hạt cấu tạo bởi phôi và nội nhủ.
Nội nhủ chiếm phần lớn thể tích của hạt và chứa chủ yếu là chất béo, đạm và nước. Do
hạt thường chín sinh lý trước khi rụng khá lâu nên sau khi rụng hạt rất dể mất sức nảy
mầm, do hiện tượng oxy hóa chất béo và mất nước xảy ra nhanh chóng khi chưa gặp
điều kiện thuận lợi cho việc nảy mầm. Vì thế mà hạt thường được gieo ngay sau khi
thu từ vườn cây để khắc phục hiện tượng trên.
Bài 3. ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG PHÁT TRIỂN VÀ YÊU CẦU SINH THÁI
CỦA CÂY CAO SU.
I. CÁC GIAI ĐOẠN SINH TRƯỞNG CỦA CÂY CAO SU
Cây cao su sau một thời gian trồng từ 3-5 năm tuỳ theo giống, loại cây con và
điều kiện ngoại cảnh chúng có thể ra hoa lần đầu và cứ như thế hàng năm cây có thể
cho hoa từ 1 đến 2 lần. Tuy nhiên, trong sản xuất vì sản phẩm chính của cao su là mủ
nên người trồng thường không quan tâm nhiều đến sự phân loại theo quá trình phát dục
của cây mà thường căn cứ vào các gia i đoạn cho sản lượng mủ khác nhau của cây và từ
đó nắm bắt các đặc tính sinh học của chúng trong từng giai đoạn để thuận tiện cho quản
lý sản xuất. Trong suốt chu kỳ trồng trọt kinh doanh cây cao su, nhiều tác giả đã phân
chia quá trình này thành 5 giai đoạn gồm: giai đoạn vườn ươm, giai đoạn kiến thiết cơ
bản (KTCB), giai đoạn khai thác cao su non, giai đoạn khai thác cao su trung niên và
giai đoạn khai thác cao su già. Khi cây cao su tỏ ra năng suất mủ kém, không còn hiệu
quả kinh tế nó thường được cưa đốn để phục vụ cho mục đích gỗ-củi (mặc dù đời sống
của cây có thể kéo dài hơn rất nhiều).
38
1. Giai đoạn cây con trong vườn ươm
Giai đoạn này bắt đầu từ khi gieo hạt cho đến lúc xuất khỏi vườn, có thể kéo dài
từ 6 tháng (bầu non không tầng lá) đến 24 tháng (stump lở, stump bầu...). Đặc điểm của
giai đoạn này là cây con tăng trưởng theo chiều cao, sự sinh trưởng các tầng lá theo
chu kỳ và mọc ra trên thân chính. Đường kính thân tăng trưởng chậm hơn là chiều cao
rất nhiều. Trong vòng 20-30 ngày cây có thể tăng cao 10-15cm trong điều kiện thuận
lợi. Bình quân mổi tháng cây có thể cho thêm một tầng lá mới. Trong điều kiện bị lạnh
(<180C), khô hạn, hay bị bệnh lá thì tốc độ tăng trưởng chiều cao, số tầng lá và đường
kính thân bị chậm lại rất nhiều. Đây là khó khăn cho việc sản xuất cây con trong những
vùng có mùa đông lạnh.
Cây con trong gia i đoạn này cần được chăm sóc cẩn thận với đầy đủ dinh dưỡng
và nước để nhanh chóng đạt được đường kính lớn đủ kích thước để ghép và để dự trử
dinh dưỡng trong thân nhằm sinh trưởng mạnh sau khi xuất vườn và trồng mới. Tốc độ
phát triển tầng lá và đường kính thân được xem là hai chỉ tiêu quan trọng để xác định
sức sinh trưởng của cây con trong thời kỳ này.
2. Giai đoạn kiến thiết cơ bản
Giai đoạn này được tính từ khi cây con được trồng ngoài đại trà cho đến lúc bắt
đầu khai thác mủ. Giai đoạn KTCB có thể kéo dài 10 năm hoặc chỉ ngắn có 6 năm tuỳ
thuộc vào giống, loại cây con đem trồng, điều kiện đất đai, thời tiết khí hậu và chế độ
chăm sóc. Nhiều giống có tốc dộ tăng trưởng nhanh như PB235, RRIV2 (LH82/156),
RRIV4 (LH82/182).v.v. trong điều kiện thuận lợi có thể thu mủ sau 6 năm trồng.
Ngược lại những giống có tốc độ tăng trưởng trung bình hoặc kém như GT1, PR261
hay RRIM600. Những cây con có thời gian dài trong vườn ươm (trên 18 tháng) có khả
năng tăng trưởng nhanh hơn những cây con dưới 12 tháng trong vườn ươm, vì thế có
thể rút ngắn thời gian KTCB đến 6 tháng. Những vùng có đất đai kém màu mỡ, khí hậu
khắc nghiệt (lạnh và thiếu ánh sáng, gió mạnh) cây thường sinh trưởng chậm hơn cao
su trồng trong Cơ vùng thuận lợi rất nhiều đặc biệt trong giai đoạn đầu (trồng mới).
Cao su KTCB tại Cơ vùng Bắc Miền Trung thường chỉ cho tăng trưởng mạnh ở năm
thứ 3-4 sau khi trồng mới. Vì thế, thời kỳ này có thể kéo dài thêm 1-3 năm. Chế độ bón
phân và làm cỏ tốt có thể rút ngắn khoảng 1 năm.
Sau một năm tuổi cao su có thể phân cành, tuy nhiên thời kỳ rộ nhất vẫn là 3 năm
sau trồng. Trong năm, cao su thường phân cành trong những tháng có biên độ nhiệt
ngày và đêm lớn, ở nhiều vùng trong cả nước cao su thường phân cành mạnh mẽ từ
tháng 1-4. Cành cao su thường gây cản trở cho việc cạo mủ khi chúng xuất hiện trong
khoảng từ 0-3m tính từ mặt đất. Vì thế, nó thường được tỉa loại ngay khi vừa thấy xuất
hiện trong đoạn thân từ 0-3m. Trong thời kỳ tạo tán rộ nhiều giống cao su như
RRIM600 rất mẩn cảm với bệnh nấm hồng rất nguy hiểm. Vào giữa hoặc cuối thời kỳ
KTCB là giai đoạn cây cây su bắt đầu thành thục có thể cho hoa và quả (khoảng 5 năm
39
sau khi trồng). Cây cao su vào lúc này sinh trưởng khoẻ về đường kính thân, cành lá
phát triển mạnh về tổng diện tích lá và số lượng lá. Tuy nhiên, kích thước lá có nhỏ
lại. Trong khi vào đầu thời kỳ KTCB cây thường phát triển mạnh về chiều cao hơn, tốc
độ ra lá chậm hơn, số lượng lá cũng ít hơn rất nhiều nhưng diện tích mỗi lá lại lớn hơn.
Phần dưới mặt đất có sự phát triển chậm trong 1-2 năm đầu nhưng sau đó sinh trưởng
rất mạnh. Khi cây cao su giao tán, các rễ tơ có thể được nhìn thấy ở giữa hai hàng cao
su (3-5 năm sau trồng). Nhu cầu dinh dưỡng của cây trong thời kỳ này đặc biệt cần
thiết, vì nếu thiếu dinh dưỡng trong thời kỳ này cây sẽ cho mủ kém và sinh trưởng
kém. Hơn thế nữa, việc bù đắp những thiếu hụt dinh dưỡng của cây khi cây đã bước
vào giai đoạn kinh doanh thường không mang lại hiệu quả cao và tốn kém hơn nhiều.
Cây cao su ở giai đoạn này có thể tự cân đối nhu cầu nước của mình trong điều kiện
mùa khô kéo dài 4-5 tháng. Vì thế, không cần phải cung cấp nước cho cây như đối với
nhiều cây công nghiệp dài ngày khác như tiêu và cà-phê.
Thời kỳ KTCB là một thời kỳ dài mà nhà nông chỉ đầu tư chứ không thu lợi từ
cây cao su. Vì thế, việc tìm mọi cách để rút ngắn giai đoạn này là hướng quan trọng
trong việc phát triển diện tích cao su tại nước ta hiện nay. Những giải pháp về giống và
cây con được xem là then chốt nhất có thể đáp ứng những đòi hỏi trên.
3. Giai đoạn khai thác mủ (hay G.Đ kinh doanh)
Đây là giai đoạn dài nhất, bắt đầu từ khi cây có thể khai thác mủ đến lúc cây bị
thanh lý (loại bỏ). Căn cứ vào sự biến thiên về năng suất hằng năm người ta chia thành
3 thời kỳ là: thời kỳ khai thác cao su non (tơ- KTCSN), thời kỳ khai thác cao su trung
niên (KTCSTN) và thời kỳ khai thác cao su già (KTCSG).
+Thời kỳ KTCSN: Cây vẫn tiếp tục sinh trưởng mạnh về số lượng cành nhánh,
chu vi thân (vanh), độ dày vỏ, sản lượng mủ tăng nhanh theo năm. Tốc độ tăng sãn
lượng hằng năm phụ thuộc nhiều vào giống, chế độ khai thác và chăm sóc. Thời kỳ này
kéo dài chừng 10-12 năm. Nhiều giống có thể đạt đến năng suất cao chỉ trong vòng vài
năm từ khi khai thác như giống PB235, RRIV1... trong khi GT1 lạ i cần đến 6-7 năm để
có thể đạt được năng suất cao. Đặc tính cho năng suất cao chậm làm cho người trồng
dể nản lòng và hiển nhiên là kém hiệu quả kinh tế.
Do vỏ của thân trong thời kỳ này còn mỏng, đang tăng trưởng mạnh nên việc khai
thác mủ cần có tay nghề cao để tránh phạm vào thân. Vườn cây trong giai đoạn này
thường trở nên âm u và ẩm thấp nên rất thuận lợi cho nhiều loại bệnh lá phát triển
mạnh thành dịch, đặc biệt là bệnh Phấn Trắng (Oidium hevea) và bệnh rụng lá mùa
mưa (Phytophtora palmivora và P. botrioza). Bệnh thường xuất hiện nhiều trong mùa
mưa tại khu vực Bắc Miền Trung làm thiệt hại nặng nề đến sản lượng mủ.
+ Thời kỳ khai thác cao su trung niên (KTCSTN): Khi năng suất không còn
tăng thêm nữa và giử vững mức năng suất đó theo năm thì cây cao su đã bước vào thời
kỳ CSTN. Tuỳ theo chế độ chăm sóc, khai thác trước đó, hiện tại và giống mà thời kỳ
40
này dài hay ngắn. Nếu vườn cây không được chăm bón tốt trong giai đoạn KTCB và
KTCSN khi cây bước vào thời kỳ này chỉ duy trì năng suất cao trong một khoảng thời
gian ngắn và sau đó giảm năng suất. Việc khai thác thái quá trong giai đoạn trước cũng
có thể làm cho tỷ lệ cây khô mủ nhiều hơn xảy ra trong thời kỳ này. Lớp vỏ tái sinh
trên đoạn thân khai thác bị thương tổn nhiều sẽ là trở ngại lớn cho việc khai thác mủ
trong thời kỳ này.
+ Thời kỳ khai thác cao su già (KTCSG): Khi vườn cây có hiện tượng giảm
năng suất trong nhiều năm liền thì vườn cây đã bước vào thời kỳ này. Tốc độ giảm
năng suất nhanh hay chậm còn tuỳ vào giống và chế độ chăm sóc và khai thác trước đó.
Vườn cây lúc này thường rất âm u, ẩm độ không khí cao nên để mẩn cảm với bệnh
rụng lá mùa mưa, có thể làm giảm sản lượng nhanh chóng.
III. YÊU CẦU NGOẠI CẢNH CỦA CÂY CAO SU.
1. Các yếu tố khí hậu:
Cao su là cây lâu năm vì thế nó thường phải trải qua tất cả những ảnh hưởng về
thời tiết xảy ra trong suốt năm và trong nhiều năm, khác với cây ngắn ngày mà có thể
tránh được những giai đoạn thời tiết khắc nghiệt trong năm. Mặt khác việc đầu tư ban
đầu (gia i đoạn kiến thiết cơ bản: KTCB) cho cao su thường tốn nhiều thời gian và vốn.
Vì thế, cần có sự xem xét cẩn thận các yếu tố khí hậu trước khi quyết định trồng loại
cây dài ngày này để có thể thu được kết quả tốt đẹp.
Vùng xuất xứ cây cao su hoang dại (Amazone) là một vùng nhiệt đới ẩm ướt,
lượng mưa trên 2000mm/năm, có nhiệt độ cao và đều quanh năm. Mùa khô kéo dài từ
3-4 tháng, đất thuộc loại đất sét tương đối giàu chất dinh dưỡng, pH đất từ 4,5-5,5 với
tầng đất canh tác sâu, thoát nước trung bình. Tuy nhiên có sự khác biệt ít nhiều trong
những vùng trồng cao su hiện nay.
+ Nhiệt độ: Nhiệt độ được xem là yếu tố khí hậu quan trọng, tiên quyết nhất vì
nó qui định giới hạn tổng quát vùng trồng. Cao su là cây trồng nhiệt đới điển hình nên
thường sinh trưởng bình thường trong khoảng nhiệt độ từ 22-300C, và khoảng nhiệt độ
tối thích là 26-280C. Nhiệt độ thấp sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây và gây trở
ngại cho quá trình chảy mủ khi khai thác. Ở nhiệt độ nhỏ hơn 180C sẽ ảnh hưởng đến
sức nảy mầm của hạt một cách rõ rệt do làm giảm khả năng hút nước của hạt giống, tốc
độ sinh trưởng của cây cũng chậm lại, cụ thể là chậm tăng chu vi thân, kéo dài thời kỳ
hình thành 1 tầng lá, mủ sẽ bị chảy dai khi khai thác. Nếu nhiệt độ thấp hơn 100C hạt
giống sẽ mất sức nảy mầm hoàn toàn, nhiệt độ này kéo dài còn gây rối loạn hoạt động
trao đôi chất và cây sẽ chết. Ở nhiệt độ thấp hơn 50C cây sẽ bị nứt vỏ chảy mủ hàng
loạt đỉnh sinh trưởng bị khô và cây chết. Tuy là cây nhiệt đới nhưng nếu nhiệt độ lớn
hơn 300C cũng gây một số trở ngại cho cây như hiện tượng mủ chóng đông khi khai
thác, làm giảm năng suất mủ cho lần khai thác đó. Theo Nguyễn Năng et al., (2001)
điều kiện nhiệt độ có tương quan nghịch với sản lượng mủ trong tất cả Cơ tháng. Nhiệt
41
độ cao hơn 400C cũng gây ra hiện tượng khô vỏ ở gốc cây, làm cho cây chết tương tự
như hiện tượng khi cây ở nhiệt độ thấp hơn 50C tuy nhiên tỉ lệ cây chết ít hơn.
+ Lượng mưa và ẩm độ không khí: Cao su thường được trồng trong những
vùng có lượng mưa từ 1800-2500mm/năm. Theo Nguyễn Thị Huệ (1997) nhu cầu về
lượng mưa hàng năm của cây cao su còn thay đổi tuỳ thuộc vào điều kiện đất đai, cụ
thể là khả năng giữ nước và thành phần sét trong đất. Bên cạnh đó, sự phân bố mưa và
tính chất của cơn mưa còn quan trọng hơn. Số ngày mưa thích hợp nhất trong năm từ
100-150 ngày. Vì việc khai thác mủ luôn xảy ra vào buổi sáng nên nếu số ngày mưa
buổi sáng nhiều sẽ hạn chế năng suất mủ do số lần khai thác bị giảm, mất sản lượng khi
cạo muộn, hoặc mất sản lượng khi gặp mưa trong lúc khai thác. Tính chất cơn mưa
cũng có những ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển của cao su. Mưa phùn, thường
thấy tại vùng Bắc Trung Bộ, tạo điều kiện cho nấm của các bệnh héo đen, rụng lá mùa
mưa, nấm hồng hay loét sọc miệng cạo hơn là giúp cây sinh trưởng tốt.
Ẩm độ không khí bình quân thích hợp cho sinh trưởng của cao su là trên 75%, ẩm
độ không khí còn thể hiện tương quan thuận với dòng chảy mủ khi khai thác (Nguyễn
Năng et al., 2001).
Về khả năng chịu hạn của cao su, cây cao su có một ưu thế hơn cà phê và tiêu về
phương diện này, và vì thế nó thường được ưa chuộng hơn tại những vùng mà phương
tiện tưới và nguồn nước tưới không sẵn có. Đối với cao su trồng mới lớn hơn 6 tháng
thường có khả năng chịu hạn 4-5 tháng, tuy nhiên cao su trong vườn ươm không thể
chịu hạn nhiều hơn 1 tháng, cao su vừa trồng mới cũng không thể chịu hạn tốt do bộ rễ
chưa được ổn định.
+ Ánh sáng: Khác với tiêu và cà phê, cao su là cây ưa sáng. Thời gian và cường
độ chiếu sáng trong ngày càng lớn thì việc sinh tổng hợp được càng nhiều. Ánh sáng
còn ảnh hưởng đến khả năng đề kháng của cây, nhất là tính chống chịu của cây. Các
vườn ươm trong mùa đông ở những vùng có ánh sáng đầy đủ thường chịu rét khỏe hơn
các vườn khác (Lê Minh Xuân, 1986). Quá trình ra lá mới thường bị kéo dài tại những
vườn cao su được trồng ở vùng Bắc Miền Trung do mây mù. Số giờ chiếu sáng trong
năm được gọi là tốt cho cao su bình quân từ 1800-2800 giờ/năm. Sương mù tạo điều
kiện cho nấm bệnh phát triển.
+ Gió: Gió lớn thường gây đổ ngã, đứt rễ, tác nhân đầu tiên cho các bệnh về thân
cành do đó làm giảm mật độ vườn cây và giảm năng suất mủ. Gió khô như gió lào sẽ
làm giảm mức độ sinh trưởng của cây đáng kể, cụ thể là tăng vanh chậm và kéo dài
thời kỳ hình thành 1 tầng lá. Đặc biệt khi gió khô kéo dài còn gây ra những vụ cháy
rừng và giảm năng suất mủ đáng kể. Những nơi có gió với tốc độ lớn hơn 3m/s cây cao
su thường sinh trưởng rất chậm, và sản lượng thấp. Tuy nhiên gió nhẹ có thể điều hòa
được sinh trưởng. Mức độ gió thích hợp cho cao su là 1-2 m/s (xem thêm chi tiết về
yếu tố này tại qui trình kỹ thuật trồng cao su, 1997, Tổng Công Ty Cao Su Việt Nam).
42
1.1. Đặc điểm khí hậu một số vùng trồng cao su trên thế giới:
Bảng 3.1: Khí hậu một số vùng trồng cao su trên thế giới
Nước và địa
điể m
Yếu tố khí hậu
Brasil
Manaus
Malaysia
K.Lumpur
Thailan
Songkla
China
H. nam
China
V. nam
Vĩ độ 3008 N 3007 N 7012 N 130 B 21052 B
N.độ TB(0C) 26,9 27,1 27,4 23,4 21,7
N.độ thấp TB(0C) 26,2 26,6 26,5 17,0 15,6
N.độ thấp C.đại (0C) 17,6 17,1 19,1 1,5 2,7
L.mưa (mm/năm) 1996 2499 2163 1766 1209
Số ngày mưa 171 195 159 162 -
Số ngày có gió cấ 8(ngày) - 3 - 7 4
Tốc độ gió cực đại (m/s) - - 39 28 20
Giờ chiếu sáng(giờ) 2125 2200 - 2177 2153
Saengruksowong, 1983
Bảng 3.1 cho thấy ở những vùng vĩ độ cao như Vân Nam, Trung Quốc (220-240
bắc) cây cao su vẫn sinh trưởng phát triển được nhưng phải chịu đựng nhiều điều kiện
không thuận lợi. Tuy nhiên, hầu hết các vùng trồng cao su khác trên thế giới đều nằm
trong khu vực nhiệt đới điển hình. Lượng mưa bình quân tại 17 vị trí trồng tại Malaysia
là 2430mm/năm với 37% thời gian mưa rơi trong khoảng từ 0-12 giờ sáng, 63% thời
gian mưa rơi vào buổi chiều. Kết quả của nghiên cứu này cũng cho thấy có đến 15,8%
số ngày cạo bị ảnh hưởng do mưa. Lượng mưa tại các vùng khác nhau của Thái Lan
biến động lớn từ 1200-2000mm/năm, số ngày mưa bình quân là 120 ngày, nhiều nơi có
mùa khô kéo dài đến 6 tháng và những vùng phía bắc (180B) nhiệt độ bình quân có thể
rơi xuống 50C trong một số ngày trong năm.
1.2. Đặc điểm khí hậu một số vùng trong nước
+ Đông Nam Bộ: Đông Nam Bộ gồm 5 tỉnh (Đồng Nai, Bà Rịa, Bình Long, Bình
Dương và Tây Ninh) và thành phố Hồ Chí Minh. Đây là vùng trồng cao su truyền
thống lâu đời nhất tại nước ta, nó cũng chiếm tổng diện tích lớn nhất 210.000ha. Đó là
một gò đất cao nằm trong khoảng vĩ độ thích hợp, với hai thềm đất song song. Thềm
thứ nhất cao 0-100m và thềm kia cao từ 100-200m. Khí hậu điển hình nóng và ẩm,
nhưng vì tương đối gần xích đạo nên có pha lẫn một số tính chất của khí hậu xích đạo
với hai tối đa và hai tối thiểu về nhiệt độ và lượng mưa. Ở xích đạo thì hàng năm người
ta ghi được hai nhiệt độ cực đại thường xảy ra không bao lâu sau ngày xuân phân và
43
thu phân, và tiếp theo sau hai thời kỳ nóng bức là hai thời kỳ lượng mưa cực đại. Ở
Đông Nam Bộ ta cũng thấy có hai nhiệt độ cực đại, thí dụ thành phố Hồ Chí Minh có
cực đại thực sự (28,840C) rất rõ, vào tháng 4 và điểm cực đại vào tháng 8 nhưng không
cao lắm (270C), còn hai cực tiểu rất rõ xảy ra vào tháng 12 (25,670C) và cực tiểu không
thấp lắm vào tháng 7 (26,70C). Nhiệt độ quanh năm tại vùng này rất điều hòa, biên độ
nhiệt hàng năm tại thành phố Hồ Chí Minh là 3,10C nhiệt độ tháng nóng nhất (tháng 4)
28,80C và tháng mát nhất (tháng 12) 25,70C. Biên độ nhiệt ngày và đêm được xem là
khá cao 90C-110C và không giao động nhiều trong năm. Cả hai chỉ số về biên độ nhiệt
và những cực đại, cực tiểu về nhiệt độ nói lên một sự lý tưởng về mặt nhiệt độ đối với
sinh trưởng và phát triển của cây trồng nhiệt đới nói chung và cao su nói riêng.
Về chế độ mưa của Đông Nam Bộ có liên quan mật thiết đến gió mùa và núi non
trong vùng. Chế độ gió mùa làm cho Đông Nam Bộ có hai mùa rõ rệt, mùa khô từ
tháng 11 đến tháng 4 chịu gió mùa đông có hướng Đông Bắc và mùa mưa từ tháng 4
đến tháng 10 chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam thổi từ Ấn Độ Dương vào. Ngoài ra,
chế độ mưa còn chịu ảnh hưởng một phần của khí hậu xích đạo và cũng giống như
nhiệt độ cũng có hai cực đại phân bố không đều trong năm và cao thấp khác nhau, một
trước ngày hạ chí (23/6) khá cao (313mm tại thành phố Hồ Chí Minh), cưc đại thứ 2
sau ngày hạ chí một thời gian khá dài (tháng 9), cao (333mm). giữa hai cực đại có một
thời gian tương đối khô ráo dài chừng 1 tuần hay 10 ngày và được gọi là hạn nhỏ hay
“hạn bà chằng”, lượng mưa vào khoảng 100-130mm trong tháng hạn, thường xảy ra
vào cuối tháng 7 hay đầu tháng 8. Lượng mưa này không đủ cho sinh trưởng của cây
cao su còn non hay mới trồng mới. Nó gây cản trở cho việc trồng mới nên người ta
thường gọi là hạn bà chằng. Cũng có khi trong một năm xảy ra liên tiếp hai hạn nhỏ,
trong những năm đó mùa mưa thường đến sớm hơn thường lệ, mưa nhiều trong tháng 4
và tháng 5 kết quả là hạn nhỏ thứ nhất rơi vào tháng 6 “hạn bà chằng” và hạn thứ hai
rơi vào tháng 9 “hạn bông tranh”.
Như vậy khí hậu của Đông Nam Bộ phần nhiều là thuận lợi cho sinh trưỏng và
phát triển của cao su. Đặc biệt ở đây không có muối sương giá, nhiệt độ và gió khá
thích hợp. Tuy nhiên, cũng cần quan tâm đến chế độ mưa mà đặc biệt là các tiểu hạn có
ảnh hưởng sống còn đối với cây con trong vườn ươm và mới trồng.
+ Đặc điểm khí hậu Tây Nguyên: Vùng trồng cao su Tây Nguyên gồm các tỉnh
Đắc Lắc, Đăc Nông, Gia Lai, và Kon Tum. Nhìn chung, có cùng một đặc điểm của khí
hậu vùng cao, tuy nhiên tùy theo từng địa thế, từng vùng mà nó có những khác biệt
đáng kể. Diện tích trồng cao su tại đây chỉ đứng sau Đông Nam Bộ và gấp nhiều lần
khu vực Bình Trị Thiên (Bắc miền Trung).
Vì Tây Nguyên xa xích đạo và gần phía Bắc hơn Đông Nam Bộ, đồng thời lại ở
địa hình núi cao nên nó chịu ảnh hưởng hai yếu tố mới là vĩ độ và