Tóm tắt: Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá các điều kiện tự nhiên nhằm xác định cơ sở khoa
học cho việc phát triển cây cao su trong quy hoạch sử dụng đất đai, góp phần khai thác tốt các tiềm
năng tự nhiên phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Nghiên cứu
được triển khai trên cơ sở tích hợp viễn thám, GIS và phương pháp phân tích thứ bậc AHP. Bảy
yếu tố tác động đến sinh thái cây cao su (địa hình, độ dốc, thổ nhưỡng, lượng mưa, nhiệt độ, lớp
phủ và sương muối) được xử lý thành các bản đồ đánh giá tương ứng, sau đó, tiến hành xác định
trọng số của các yếu tố ảnh hưởng bằng phương pháp AHP. Kết quả đã chia ra các vùng có mức
độ thích nghi khác nhau đối với cây cao su là: vùng có mức thích nghi cao chiếm 12,6%, vùng có
mức thích nghi: chiếm tỷ lệ 24,6%, vùng ít thích nghi: chiếm 22%, vùng không thích nghi: chiếm
40,8%. Dựa trên bản đồ thích nghi, có thể rút ra thông tin hữu ích và tin cậy để xây dựng các dự án
quy hoạch lãnh thổ và quy hoạch môi trường, tạo điều kiện phát triển công ăn việc làm cho cuộc
sống của người dân trong huyện và thu được lợi ích kinh tế lớn cho sự phát triển của huyện
Mường La, tỉnh Sơn La.
16 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 503 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá các điều kiện tự nhiên phục vụ phát triển cây cao su ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La với sự trợ giúp của viễn thám và GIS, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 2 (2018) 121-136
121
Đánh giá các điều kiện tự nhiên
phục vụ phát triển cây cao su ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La
với sự trợ giúp của viễn thám và GIS
Nguyễn Ngọc Thạch*, Lê Phương Nhung, Bùi Quang Thành, Trần Tuấn Anh
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 21 tháng 5 năm 2018
Chỉnh sửa ngày 12 tháng 6 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 13 tháng 6 năm 2018
Tóm tắt: Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá các điều kiện tự nhiên nhằm xác định cơ sở khoa
học cho việc phát triển cây cao su trong quy hoạch sử dụng đất đai, góp phần khai thác tốt các tiềm
năng tự nhiên phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Nghiên cứu
được triển khai trên cơ sở tích hợp viễn thám, GIS và phương pháp phân tích thứ bậc AHP. Bảy
yếu tố tác động đến sinh thái cây cao su (địa hình, độ dốc, thổ nhưỡng, lượng mưa, nhiệt độ, lớp
phủ và sương muối) được xử lý thành các bản đồ đánh giá tương ứng, sau đó, tiến hành xác định
trọng số của các yếu tố ảnh hưởng bằng phương pháp AHP. Kết quả đã chia ra các vùng có mức
độ thích nghi khác nhau đối với cây cao su là: vùng có mức thích nghi cao chiếm 12,6%, vùng có
mức thích nghi: chiếm tỷ lệ 24,6%, vùng ít thích nghi: chiếm 22%, vùng không thích nghi: chiếm
40,8%. Dựa trên bản đồ thích nghi, có thể rút ra thông tin hữu ích và tin cậy để xây dựng các dự án
quy hoạch lãnh thổ và quy hoạch môi trường, tạo điều kiện phát triển công ăn việc làm cho cuộc
sống của người dân trong huyện và thu được lợi ích kinh tế lớn cho sự phát triển của huyện
Mường La, tỉnh Sơn La.
Từ khóa: Đánh giá thích nghi, GIS, AHP, cây cao su, quy hoạch.
1. Mở đầu
Đánh giá đất và quy hoạch sử dụng đất
nông nghiệp trên quan điểm sinh thái và phát
triển bền vững đang là yêu cầu cấp bách nhằm
kiến tạo một hệ thống nông nghiệp bền vững,
có hiệu quả về kinh tế mà không làm suy thoái
_______
Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-913032680.
Email: nguyenngocthachhus@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4256
đất đai. Với sự phát triển của công nghệ GIS,
quá trình đánh giá đất đai trở nên nhanh chóng
và chính xác [1-3].
Mường La là huyện miền núi của tỉnh Sơn
La, cách thành phố Sơn La 42 km về phía Đông
Bắc có diện tích đất tự nhiên là 142.924 ha,
mang đặc trưng của miền núi Tây Bắc. Địa bàn
huyện là một trong 62 huyện nghèo đặc biệt
khó khăn của cả nước cần chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, theo định định hướng nghiên cứu cây
trồng của Chính phủ và chiến lược phát triển
N.N. Thạch và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 2 (2018) 121-136
122
kinh tế - xã hội của đảng bộ huyện Mường La,
cây cao su là một sự lựa chọn ưu tiên nhằm phát
triển kinh tế, bảo vệ môi trường, nâng cao mức
sống cho người dân địa phương. Việc phát triển
cây cao su gắn với mô hình “Bản mới phát triển
toàn diện” của huyện.
Cho đến nay vẫn chưa có đầy đủ căn cứ
khoa học cũng như mô hình thực tiễn để khẳng
định chắc chắn cây cao su sẽ thích nghi hoàn
toàn và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho vùng
núi phía Bắc [4, 5]. Theo khuyến cáo của của
nhiều nghiên cứu cần có kế hoạch khảo nghiệm
kỹ ở quy mô hợp lý để khẳng định về khả năng
phát triển, hiệu quả kinh tế - xã hội và môi
trường của cây cao su trước khi nhân rộng. Vì
vậy, việc phát triển trồng cây cao su ở huyện
Mường La để đảm bảo cho chất lượng cây
trồng thì cần phải nghiên cứu thật kĩ điều kiện
khí hậu, thủy văn, địa hình, cũng như có những
đánh giá phân hạng đất thích hợp cho việc trồng
cây cao su.
Từ thực tế trên, đề tài “Đánh giá các điều
kiện tự nhiên phục vụ cho phát triển cây cao su
với sự trợ giúp của viễn thám và GIS ở huyện
Mường La, tỉnh Sơn La”được thực hiện nhằm
góp phần khai thác tốt các tiềm năng tự nhiên
phục vụ chiến lược phát triển kinh tế- xã hội và
bảo vệ môi trường.
2. Khái quát về khu vực nghiên cứu
2.1. Đặc điểm chung
Mường La có toạ độ địa lý: 20°15' - 21°42'
vĩ độ Bắc, 103°45' - 104°20' kinh độ Đông, là
một huyện miền núi phía Đông Bắc của tỉnh
Sơn La, nơi có nhà máy thuỷ điện Sơn La và
các công trình thuỷ điện cỡ nhỏ như: Nậm
Chiến, Huổi Quảng. Mường La còn là địa bàn
để phát triển mở rộng đô thị xung quanh công
trình thủy điện Sơn La [6-8]
Hình 1. Bản đồ hành chính huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
N.N. Thạch và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 2 (2018) 121-136 123
Hình 2. Bước đầu phát triển cao su ở Mường la với sự tham gia của nhân dân địa phương.
Mường La có tổng diện tích đất tự nhiên là
142.924 ha, mang nhiều đặc điểm đặc trưng của
miền núi Tây Bắc nói chung và Sơn La nói
riêng. Theo số liệu thống kê đến 31/12/2012
dân số toàn huyện là 83.710 nhân khẩu. Mật độ
dân số bình quân 59 người/km2, nhưng phân bố
không đều. Toàn huyện có 7 dân tộc anh em
cùng chung sống, bao gồm: dân tộc Thái,
Mông, Kinh, La Ha, Xá, Kháng, Khơ Mú. Phần
lớn các dân tộc thiểu số có trình độ dân trí thấp,
còn du canh du cư. Năm 2012 tốc độ tăng
trưởng kinh tế đạt 25,03%, tổng GDP đạt 287,9
tỷ, thu nhập bình quân đầu người 3,7 triệu
đồng. Từ năm 2008, trong phương hướng phát
triển kinh tế - xã hội, Mường La đã lựa chọn
phát triển cây cao su là nội dung cơ bản nhằm
triển khai chương trình xóa đói giảm nghèo và
đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của địa
phương [6, 9].
2.2. Điều kiện tự nhiên
Mường La mang nhiều đặc điểm đặc trưng
của miền núi Tây Bắc với địa hình phức tạp và
chia cắt mạnh bởi các con suối lớn và các đỉnh
nhọn có độ cao từ 1000m đến gần 3000m, bao
gồm hai dạng địa hình chính là địa núi cao, dốc
và núi trung bình, hướng thấp dần từ Tây sang
Đông và Bắc xuống Nam.
Khu vực nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới
gió mùa với 2 mùa rõ rệt trong năm. Mùa đông
lạnh trùng với mùa khô kéo dài từ tháng 11 năm
trước đến tháng 3 năm sau.
Vào mùa đông, từ cuối tháng 12 đến tháng
2, ở Mường La có thể xuất hiện sương muối ở
khu vực có độ cao ≥ 600 mét [7, 8].
Mùa hè nóng trùng với mùa mưa từ tháng
4 đến tháng 10. Nhiệt độ trung bình trong năm
là 22°C. Tổng lượng mưa bình quân 1.347
mm/năm, mưa tập trung vào các tháng 6, 7, 8
với lượng mưa chiếm 76% tổng lượng mưa cả
năm. Mùa khô lượng mưa nhỏ chỉ chiếm 24%
tổng lượng mưa cả năm, độ ẩm trung bình là
85%.
Về thủy văn, ngoài dòng sông Đà chảy qua
huyện với chiều dài 50km, Mường La còn có hệ
thống suối dày đặc thuộc lưu vực sông Đà như:
Nậm Mu, Nậm Chiến, Nậm Trai, Nậm Păm,
Nậm Pia, Nậm Pàn với tổng chiều dài khoảng
200km và nhiều con suối nhỏ khác, mật độ
sông suối khoảng 1,7 km/km2.
Do địa hình của huyện chia cắt mạnh, dốc
nên phần lớn các con suối có lưu vực nhỏ, hẹp,
ngắn và đều bắt nguồn từ núi cao do đó độ dốc
lưu vực lớn đã tạo nên tính đa dạng về chế độ
dòng chảy và lưu lượng nước giữa hai mùa
chênh lệch lớn.
Theo kết quả tổng hợp từ bản đồ thổ
nhưỡng tỉnh Sơn La, tài nguyên đất của huyện
có 3 nhóm chính: Đất Feralit: bao gồm hầu hết
ở vùng đồi núi; đất phù sa sông suối, phân bố
chủ yếu ven các suối Nậm Mu, Nậm Chiến,
Nậm Trai, Nậm Pàn, Nậm Pia, Nậm Păm; đất
dốc tụ: phân bố chủ yếu ở các phiêng bãi bằng
phẳng. Hầu hết các loại đất trên địa bàn huyện
N.N. Thạch và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 2 (2018) 121-136
124
có độ dày tầng đất từ trung bình đến khá, thành
phần cơ giới từ trung bình đến nặng [8].
3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
3.1. Dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu
Các dữ liệu sau khi thu thập sẽ được xử lý
bằng phần mềm ArcMap 10.2, chi tiết về dữ
liệu thu thập được mô tả ở Bảng 1.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích đa tiêu chuẩn
(MCA)
Phương pháp phân tích đa tiêu chuẩn là
một kỹ thuật phân tích tổ hợp các tiêu chuẩn
khác nhau nhằm đưa ra kết quả cuối cùng. Phân
tích đa tiêu chuẩn (Multi - Criteria Analysis -
MCA) cung cấp cho người ra quyết định các
mức độ quan trọng khác nhau của các tiêu
chuẩn khác nhau hay là trọng số của các tiêu
chuẩn liên quan. Trong đánh giá thích nghi đất
đai bền vững, thường sử dụng nhiều tiêu chuẩn
khác nhau để phân tích khả năng thích nghi, kỹ
thuật tổ hợp các tiêu chuẩn khác nhau để cho ra
kết quả cuối cùng được sử dụng như là công cụ
hỗ trợ ra quyết định. Để đánh giá đất đai, những
nguồn thông tin có thể được sử dụng, bao gồm
ảnh vệ tinh, bản đồ sử dụng đất, thông tin địa
giới hành chính, phân bố thực vật và thông tin
thống kê kinh tế, xã hội, môi trường. Thêm vào
đó, bởi vì tính thích nghi của bất kỳ đơn vị đánh
giá nào cũng phụ thuộc vào từng loại hình sử
dụng đất, nên mục tiêu quá trình đánh giá thích
nghi đất đai có thể đạt được thông qua phỏng
vấn các bên liên quan và phân tích chính sách.
Do đó, đánh giá thích nghi đất đai là vấn đề ra
quyết định đa tiêu chí và phương pháp MCA
được sử dụng để phân loại và tính trọng số các
tiêu chí [10]. Trong vấn đề ra quyết định đa tiêu
chuẩn, bước đầu tiên quan trọng nhất là xác
định tập hợp các tiêu chuẩn đánh giá cho từng
chỉ tiêu, tiếp theo, lượng hóa các tiêu chuẩn,
xác định tầm quan trọng tương đối của những
phương án tương ứng với mỗi tiêu chuẩn đánh
giá. Phương pháp này đã được trình bày trong
nhiều tài liệu [11-16].
Bảng 1. Hệ thống cơ sở dữ liệu
Dữ liệu thu thập Dữ liệu sau khi xử lý Nguồn dữ liệu
Hành chính - Bản đồ hình chính Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Sơn La
Ảnh Landsat 8-OLI,
độ phân giải 30m. (Thu
ngày 11/12/2016)
Bản đồ phân cấp thích nghi của yếu tố lớp
phủ thực vật – sử dụng đất Cục Địa chất Hoa Kỳ (USGS )
Địa hình, đường bình độ
với khoảng cao đều 10m.
Bản đồ phân cấp thích nghi của yếu tố độ
caođịa hình.
Bản đồ phân cấp thích nghi của yếu tố độ
dốc địa hình
Sở Tài nguyên vàMôi trường tỉnh
Sơn La.
Bộ TN và MT
Thổ nhưỡng Bản đồ phân cấp thích nghi của yếu tố thổ
nhưỡng
Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Sơn La
Khí hậu
- Nhiệt độ trung bình năm
- Lượng mưa trung bình
năm
- Bản đồ phân cấp thích nghi của yếu tố
nhiệt độ trung bình năm
- Bản đồ phân cấp thích của nghi yếu tố
lượng mưa trung bình năm
Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Sơn La.
Tổng cục Khí tượng thủy văn .Bộ
TN và MT.
Sương muối và nhiệt độ
thấp
Bản đồ phân cấp vùng an toàn với sương
muối
Viện Khí tượng Thủy văn và
Biến đổi khí hậu. Bộ TN và MT
N.N. Thạch và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 2 (2018) 121-136 125
Cho đến nay, trên thế giới đã có rất nhiều
nghiên cứu ứng dụng GIS và MCA trong ánh
giá thích nghi đất đai như trong nghiên cứu của
Alejandro Ceballoss - Silva và Jorge Lopez –
Blanco, Godilano, E. C, Boje G và cộng sự,
Henok Mulugeta [11-13, 17].
Ở Việt Nam trong lĩnh vực đánh giá thích
nghi hầu hết các nghiên cứu đều ứng dụng GIS,
chủ yếu tập trung nghiên cứu theo các hướng
dẫn của FAO. Một số nghiên cứu điển hình:
Huỳnh Văn Chương, Lê Cảnh Định, Trần
Trọng Đức, Trần Thúy Hằng, Võ Thị Phương
Thúy,Nguyễn Thoại Vũ [3, 5, 14, 18].Trong
những nghiên cứu này , các yếu tố đánh giá đều
được xem xét theo góc độ mức độ thích nghi
mà chưa xét đến các yếu tố cực đoan ít hoặc
hoàn toàn không thích nghi cho cây trồng .
Phương pháp xác định trọng số theo phân
cấp thứ bậc (Analytic Hierarchy Process -
AHP)
Một cách tiếp cận để xác định tầm quan
trọng tương đối của các chỉ tiêu đánh giá (hay
trọng số) trong phân tích đa chỉ tiêu MCA là
dựa vào sự so sánh cặp được đề xuất bởi
Thomas L.Saaty (1970) [19]. Đây là quy trình
phân tích thứ bậc (Analytic Hierarchy Process -
AHP) nhằm xử lý các vấn đề ra quyết định đa
tiêu chuẩn phức tạp. AHP cho phép tập hợp các
kiến thức chuyên gia về vấn đề của họ, kết hợp
các dữ liệu chủ quan và khách quan trong một
khuôn khổ thứ bậc logic, cung cấp cho người ra
quyết định một cách tiếp cận trực giác theo
phán đoán của chuyên gia để đánh giá sự quan
trọng của mỗi thành phần thông qua quá trình
so sánh cặp các chỉ tiêu. Đây là phương pháp
cho phép kết hợp cả hai mặt tư duy của con
người cả về định tính và định lượng: định tính
là sự sắp xếp thứ bậc và định lượng là sự mô tả
các đánh giá và và tính toán thành các con số cụ
thể về trọng số của các chỉ tiêu, vấn đề vô hình
lẫn hữu hình. Ngày nay AHP được sử dụng khá
phổ biến trong nhiều lĩnh vực quản lý tài
nguyên, đánh giá đất đất đai, thương mại
Phương pháp này đã được trình bày trong nhiều
tài liệu [13-16].
Tích hợp thông tin GIS trong phân tích đa
chỉ tiêu
Sau khi có được trọng số và giá trị các tiêu
chuẩn phân cấp, chồng xếp các lớp bản đồ để
tính chỉ số thích nghi tổng hợp cho bản đồ
kết quả.
Trong đó:
- Si: Chỉ số thích nghi chung
- wi: Trọng số của tiêu chuẩn i
- xi: Giá trị các tiêu chuẩn i
- Ci: Giá trị của yếu tố hạn chế C.
Trong nghiên cứu tại huyện Mường La,
phương pháp đánh giá đa chỉ tiêu và phương
pháp so sánh cặp và phân tích thứ bậc AHP
(Saaty 1970) đã được áp dụng cho đánh giá các
thông số của tự nhiên và lựa chọn các khu vực
thích hợp cho việc phát triển cây cao su trên địa
bàn huyện Mường La. Từ những số liệu thu
thập được, đề tài tiến hành xử lý bằng phương
pháp viễn thám và GIS, kết quả đưa ra được hệ
thống các bản đồ phân cấp thích nghi tương ứng
với sự phát triển của cây cao. Quy trình nghiên
cứu được mô tả trong Hình 3.
4. Khái quát chung về sinh thái cây cao su
Cây cao su có tên khoa học là Hevea
brasiliensis, thuộc họ thầu dầu Euphorbiacea.
Cây cao su đòi hỏi những điều kiện sinh thái
đặc thù, nếu được chăm sóc rất kỹ lưỡng cũng
phải sau 6 - 7 năm mới cho thu hoạch mủ.
Ngược lại, nếu trồng không đúng vị trí thì mặc
dù cây đã lớn sau vài năm không có sương
muối nhưng vẫn có thể bị chết hàng loạt khi có
sương muối xuất hiện [4, 5]. Dưới đây là những
đặc điểm cơ bản về nhu cầu sinh thái của cây
cao su [4].
(1)
N.N. Thạch và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 2 (2018) 121-136
126
Hình 3. Quy trình nghiên cứu.
Đất đai: Cây cao su có thể sống trên hầu
hết các loại đất khác nhau ở vùng nhiệt đới ẩm,
tơi xốp, thành phần sét trong đất thấp. Các loại
đất phát triển trên phù sa cổ, đất feralit phát
triển trên đá phiến sét, đất feralit phát triển trên
đá bazan trẻ, đất pha cát là những loại đất thích
hợp cho cây cao su phát triển.
Đai cao: cao su thích hợp với các vùng đất
có bình độ tương đối thấp: dưới 200m. Bình độ
lý tưởng được khuyến cáo để trồng cao su là:
Vùng xích đạo, trong đó có Việt Nam, có thể
trồng cao su ở độ cao đến 500 - 600m.
Độ dốc: Cây cao su thường được trồng trên
nền đất có độ dốc nhỏ hơn 8%. Với độ dốc 8 -
30% thì vẫn trồng được nhưng chú ý đến các
biện pháp chống xói mòn. Độ sâu tầng đất: độ
sâu lý tưởng cho trồng cây cao su là 2m, tuy
nhiên trong thực tế nếu độ sâu tầng đất là 0,8 -
2m thì vẫn có thể trồng được, độ pH trong đất
thích hợp cho cây cao su là 4,5 - 5,5, giới hạn
pH đất có thể trồng cây cao su là 3,5 - 7,0. Đất
trồng cao su phải có cấp hạt sét ở lớp đất mặt (0
- 30cm) tổi thiểu là 20%, ở lớp đất sâu hơn
(>30cm) tối thiểu là 25%. Đất nơi có mùa khô
kéo dài thì thành phần sét phải đạt 30 - 40%.
Đất có thành phần hạt thô chiếm dưới 50%
trong 0,8m lớp đất mặt là ít thích hợp cho việc
trồng cao su. Các thành phần hạt thô sẽ gây trở
ngại cho sự phát triển của rễ cao su và ảnh
hưởng bất lợi đến khả năng dự trữ nước của đất.
Khí hậu và Nhiệt độ: Cây cao su là cây
trồng nhiệt đới điển hình nên sinh trưởng bình
thường trong khoảng nhiệt độ 22 – 30°C và
khoảng nhiệt độ tối thích là 26 - 28°C (Nhiệt độ
25°C là nhiệt độ mà năng suất cây có thể đạt
mức tối đa). Ở nhiệt độ này, môi trường sẽ mát
dịu vào buổi sáng sớm (1giờ - 5giờ), giúp cây
sản xuất mủ cao nhất. Các vùng đất trồng cao
su hiện nay trên thế giới phần lớn ở vùng khí
hậu nhiệt đới, có nhiệt độ trung bình 20 - 28°C.
Nhiệt độ thấp hơn 18°C, sẽ ảnh hưởng đến
sức nảy mầm của hạt, tốc độ sinh trưởng của
cây chậm lại. Nếu nhiệt độ thấp hơn 10°C, hạt
mất sức nảy mầm hoàn toàn, đối với cây ngoài
vườn thì bị rối loạn hoạt động trao đổi chất và
chết nếu nhiệt độ này kéo dài. Nhiệt độ thấp
hơn 5°C, đặc biệt là khi có sương muối, cây sẽ
bị nứt vỏ, chảy mủ hàng loạt, đỉnh sinh trưởng
bị khô và cây sẽ bị chết. Nếu nhiệt độ lớn hơn
30°C, sẽ gây ra hiện tượng mủ chảy dai trong
khai thác, làm giảm năng suất mủ. Nhiệt độ mà
cao hơn 40°C, gây ra hiện tượng khô vỏ ở gốc
cây và dẫn đến cây chết [7].
N.N. Thạch và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 2 (2018) 121-136 127
Lượng mưa và ẩm độ: Cây cao su thường
được trồng trong những vùng có lượng mưa
1800 - 2500 mm/năm, số ngày mưa thích hợp là
100 - 150 ngày/năm. Ẩm độ không khí bình
quân thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển
của cây cao su là trên 75%, đồng thời ẩm độ
không khí cũng thể hiện tương quan tỷ lệ thuận
với dòng chảy mủ khi khai thác. Bên cạnh
lượng mưa thì sự phân bố mưa và tính chất cơn
mưa cũng rất quan trọng. Việc khai thác mủ tập
trung vào buổi sáng, vì thế số ngày mưa vào
buổi sáng càng nhiều thì năng suất càng giảm.
Khả năng chịu hạn: Cây cao su có khả
năng chịu hạn cao hơn một số cây công nghiệp
khác như: tiêu, cà phê. Tuy nhiên, cây cao su
trồng mới từ 6 tháng trở xuống không thể chịu
hạn tốt do bộ rễ chưa được phát triển đầy đủ,
cao su trong vườn ươm thì không thể chịu hạn
quá 1 tháng. Nhưng cao su trồng mới trên 6
tháng có thể chịu hạn trên 4 - 5 tháng.
Khả năng chịu úng: Cây cây cao su cũng
thể hiện một sức chịu đựng tốt. Tuy nhiên tuỳ
thuộc vào từng giống, đối với cây đang trong
giai đoạn cạo mủ, nếu bị ngập sâu khoảng 30 -
40 ngày, thì 75% số cây trên vườn sẽ chết, số
còn lại tăng trưởng chậm, cây khô và bong vỏ
nên không cạo mủ được nữa.
Với điều kiện sinh thái như trên thì miền
nam có rất nhiều nơi phù hợp với cây cao su,
song ở miền núi phía bắc thì có nhiều yếu tố trở
ngại là địa hình dốc, điều kiện khí hậu quá lạnh,
nhiều năm có sương muối và băng giá xuất hiện
vào mùa đông. Vì vậy, để triển khai việc trồng
cây cao su ở vùng núi phía Bắc thì cần phải có
những nghiên cứu kỹ lưỡng [9, 14].
5. Kết quả nghiên cứu
5.1. Đánh giá thông tin về tự nhiên cho mục
tiêu phát triển cây cao su ở Mường La.
Thành lập bản đồ đánh giá thích nghi các
điều kiện tự nhiên đối với cây cao su
a. Địa hình
Địa hình là một trong những nhân tố quan
trọng. Đối với cây cao su cả hình thái, độ cao
và độ dốc địa hình đều ảnh hưởng không nhỏ
đến sự sinh trưởng và phát triển, năng suất và
quá trình chăm sóc, khai thác mủ cao su.
Vùng có địa hình núi cao và dốc phân bố ở
phía Đông và Đông Bắc của huyện. Đây là
một phần sườn Tây Nam của dãy Hoàng Liên
Sơn kéo dài từ Quỳnh Nhai qua Mường La và
kết thúc tại Phù Yên tạo thành ranh giới giữa
Sơn La, Lào Cai và Yên Bái. Địa hình ở đây bị
chia cắt mạnh bởi các con suối lớn và các đỉnh
nhọn có độ cao từ 1000m đến gần 3000m.
Khu vực địa hình núi trung bình: Có độ
cao từ 300m đến 700m so với mực nước biển,
xen kẽ giữa các dãy núi là các phiêng bãi nhỏ
hẹp, phân bố ở phía tây nam, hai bên bờ của
sông Đà.
Độ dốc là yếu tố có ảnh hưởng quyết định
trong việc lựa chọn và phân bố loại hình sử
dụng đất, đặc biệt trên vùng đất dốc, có nguy cơ
rửa trôi và xói mòn đất cao.
b. Thổ nhưỡng
Đất là yếu tố tiên quyết và quan trọng hàng
đầu khi đánh giá thích nghi cây trồng, căn cứ
vào đặc điểm sinh thái cây cao su cũng như
phân tích các chỉ tiêu hóa lý và thành phần đất
khu vực nghiên cứu đề tài đã phân cấp thích
nghi yếu tố thổ nhưỡng.
c. Khí hậu
Là nhân tố sinh thái quan trọng không thể
thiếu trong sự tồn tại, sinh trưởng và phát triển
của sinh vật đặc biệt là thực vật. Mỗi một yếu tố