Chất lượng thực phẩm là gì? Thực phẩm là sản phẩm rắn hay lỏng dành cho
việc ăn uống với mục đích dinh dưỡng và (hoặc) thịhiếu tiêu dùng. Thực phẩm
được đánh giá là tốt khi nó thỏa mãn nhu cầu người sửdụng. Khi đưa thực
phẩm ra thịtrường, người sản xuất phải quan tâm đến người tiêu thụ. Chính họ
là những người có vai trò quan trọng nhất khi đánh giá chất lượng thực phẩm.
Chất lượng tổng quát của một sản phẩm không phải làmột khái niệm cố định
mà luôn biến đổi. Vì vậy trong xí nghiệp, tiêu chuẩn chất lượng không phải là
một tiêu chuẩn lâu dài. Đánh giá chất lượng thực phẩm, một cách tổng quát có
thểnói đó là kết quảcủa một sựcân bằng tếnhịgiữa người sản xuất và người
tiêu thụ. Trong đó người sản xuất luôn có sựcốgắng làm hài lòng người mua
và người mua luôn đòi hỏi, tìm kiếm tối đa sựhài lòng của sản phẩm vềmọi chỉ
tiêu.
Đánh giá cảm quan là phương pháp
đánh giá chất lượng thực phẩm dựa
trên việc sửdụng các thông tin thu
được nhờsựphân tích các cảm giác
của những cơquan thụcảm như: thị
giác, xúc giác, thính giác, khứu giác và
vịgiác.
Việc kiểm tra đánh giá các đặc tính
cảm quan của thực phẩm rất quan
trọng trong việc phát triển sản phẩm.
Nhiều đặc tính vật lý và hóa học của
thực phẩm có thể được xác định bằng
các phương tiện đo đạc nhưmàu sắc,
cấu trúc, các cấu tửmùi, nồng độmuối,
acid, đường …. Tuy nhiên những
phương tiện đo đạc chỉcung cấp các
giá trị định tính hoặc định lượng của
thực phẩm mà không thểtrảlời được
câu hỏi các đặc tính đó tốt hay xấu?
Sản phẩm có được thịtrường chấp
nhận hay không? Có thỏa mãn nhu cầu
khi họtiêu thụkhông? Trước hết do
chất lượng cảm quan quyết định.
Chất lượng cảm quan là yếu tốrất động. Nó thay đổi theo thời gian, không gian
và theo từng cá nhân. Một sản phẩm được đánh giá là rất tốt của năm nay thì
năm sau chưa chắc còn được chấp nhận. Sản phẩm được đánh giá rất cao ở
địa phương này, nước này nhưng chưa chắc được ưa thích ở địa phương khác,
nước khác,…
Ngoài ra, đặc tính cảm quan tốt còn là một trong ba yếu tốquan trọng mà mọi
sản phẩm cần phải đảm bảo, bên cạnh hai chỉtiêu khác là dinh dưỡng và an
toàn vệsinh.
Một sốsản phẩm có giá trịdinh dưỡng cao và đầy đủcác thành phần nguyên
tố, nhưng có một chỉtiêu vềmùi vịhoặc hình thái không bình thường sẽkhông
được người tiêu thụchấp nhận. Ngược lại, nhiều sản phẩm thực phẩm sản xuất
ra có giá trịdinh dưỡng thấp nhưng có hình thái mùi vịthích hợp vẫn được
người tiêu dùng chấp nhận. Nhưvậy, rõ ràng các chỉtiêu cảm quan đối với thực
phẩm rất quan trọng mà mọi nhà sản xuất và kiểm tra thực phẩm không thểbỏ
qua.
91 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 6998 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh Giá Chất Lượng Thực Phẩm - Trần Xuân Hiển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khoa Nông Nghiệp & TNTN
Đánh Giá Chất Lượng Thực
Phẩm
Tác giả: Trần Xuân Hiển
Phần I: Đánh Gía Chất Lượng Thực Phẩm Bằng Phương
Pháp Cảm Quan
Chương 1: Giới Thiệu
Chất lượng thực phẩm là gì? Thực phẩm là sản phẩm rắn hay lỏng dành cho
việc ăn uống với mục đích dinh dưỡng và (hoặc) thị hiếu tiêu dùng. Thực phẩm
được đánh giá là tốt khi nó thỏa mãn nhu cầu người sử dụng. Khi đưa thực
phẩm ra thị trường, người sản xuất phải quan tâm đến người tiêu thụ. Chính họ
là những người có vai trò quan trọng nhất khi đánh giá chất lượng thực phẩm.
Chất lượng tổng quát của một sản phẩm không phải là một khái niệm cố định
mà luôn biến đổi. Vì vậy trong xí nghiệp, tiêu chuẩn chất lượng không phải là
một tiêu chuẩn lâu dài. Đánh giá chất lượng thực phẩm, một cách tổng quát có
thể nói đó là kết quả của một sự cân bằng tế nhị giữa người sản xuất và người
tiêu thụ. Trong đó người sản xuất luôn có sự cố gắng làm hài lòng người mua
và người mua luôn đòi hỏi, tìm kiếm tối đa sự hài lòng của sản phẩm về mọi chỉ
tiêu.
Đánh giá cảm quan là phương pháp
đánh giá chất lượng thực phẩm dựa
trên việc sử dụng các thông tin thu
được nhờ sự phân tích các cảm giác
của những cơ quan thụ cảm như: thị
giác, xúc giác, thính giác, khứu giác và
vị giác.
Việc kiểm tra đánh giá các đặc tính
cảm quan của thực phẩm rất quan
trọng trong việc phát triển sản phẩm.
Nhiều đặc tính vật lý và hóa học của
thực phẩm có thể được xác định bằng
các phương tiện đo đạc như màu sắc,
cấu trúc, các cấu tử mùi, nồng độ muối,
acid, đường …. Tuy nhiên những
phương tiện đo đạc chỉ cung cấp các
giá trị định tính hoặc định lượng của
thực phẩm mà không thể trả lời được
câu hỏi các đặc tính đó tốt hay xấu?
Sản phẩm có được thị trường chấp
nhận hay không? Có thỏa mãn nhu cầu
khi họ tiêu thụ không? Trước hết do
chất lượng cảm quan quyết định.
Chất lượng cảm quan là yếu tố rất động. Nó thay đổi theo thời gian, không gian
và theo từng cá nhân. Một sản phẩm được đánh giá là rất tốt của năm nay thì
năm sau chưa chắc còn được chấp nhận. Sản phẩm được đánh giá rất cao ở
địa phương này, nước này nhưng chưa chắc được ưa thích ở địa phương khác,
nước khác,…
Ngoài ra, đặc tính cảm quan tốt còn là một trong ba yếu tố quan trọng mà mọi
sản phẩm cần phải đảm bảo, bên cạnh hai chỉ tiêu khác là dinh dưỡng và an
toàn vệ sinh.
Một số sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao và đầy đủ các thành phần nguyên
tố, nhưng có một chỉ tiêu về mùi vị hoặc hình thái không bình thường sẽ không
được người tiêu thụ chấp nhận. Ngược lại, nhiều sản phẩm thực phẩm sản xuất
ra có giá trị dinh dưỡng thấp nhưng có hình thái mùi vị thích hợp vẫn được
người tiêu dùng chấp nhận. Như vậy, rõ ràng các chỉ tiêu cảm quan đối với thực
phẩm rất quan trọng mà mọi nhà sản xuất và kiểm tra thực phẩm không thể bỏ
qua.
Trong nhiều năm qua, những nhà thần kinh học và những nhà khoa học thực
phẩm đã tiến hành nghiên cứu về bản chất của mùi vị và sự tiếp nhận mùi vị là
sự tổng hợp những dấu hiệu của trí óc từ những bộ phận cảm giác về nếm,
ngửi, nhìn, tiếp xúc và nghe. Các cơ quan thụ cảm đóng vai trò thu nhận cảm
giác, tổng hợp và tích lũy để đi đến kết luận về chất lượng của thực phẩm.
Cảm quan là một bộ phận của khoa học thực phẩm, có nền tảng trên những
ngành chính như hóa học, vật lý, sinh học và những ngành phụ như sinh hóa,
sinh lý, hóa lý .… Do đó, cảm quan thực phẩm mang nhiều yếu tố khách quan.
Tùy trình độ kỹ thuật của mỗi nước mà tính đến hệ số quan trọng của cảm quan
trong khi đánh giá chất lượng sản phẩm. Ở các phát triển, các chỉ tiêu về hóa lý,
vệ sinh đương nhiên đạt yêu cầu tiêu chuẩn quy định, phần còn lại là phấn đấu
đạt yêu cầu về cảm quan (có đến 90% trong quyết định về mức chất lượng sản
phẩm).
Ở nước ta, phương pháp kiểm tra cảm quan đã bắt đầu từ cuối năm 1950. Năm
1978 các Hội đồng đánh giá cảm quan chất lượng sản phẩm thực phẩm cấp
nhà nước đầu tiên được thành lập. Năm 1979, một số tiêu chuẩn Việt Nam về
phân tích cảm quan bằng phương pháp cho điểm các sản phẩm thực phẩm
được ban hành. Từ đó, phương pháp kiểm tra bằng cảm quan được phát triển
ở hầu hết các ngành nông sản, thực phẩm và hải sản.
Chương 2: Cơ Sở Khoa Học Của Cảm Quan
Mùi và khứu giác
1.Định nghĩa về mùi
Mùi là đặc tính của một chất hay một hợp chất bay hơi mà con người hay động
vật có thể cảm nhận được từ sự hít vào trong khoang mũi hay khoang miệng và
gây ra cảm giác nhờ vào khứu giác của cơ thể, quá trình này không làm ảnh
hưởng đến các hoạt động của cơ quan khứu giác.
2. Sự cảm nhận mùi của khứu giác
Con người có hàng triệu tế bào có chức năng cảm nhận mùi, chúng được gọi là
các tế bào tiếp nhận mùi của khứu giác. Những tế bào này chủ yếu nằm ở dọc
theo hai bên vách ngăn và lệch về phía trên của phần khoang mũi. Chúng nằm
trong một khu vực có màu vàng có dạng hình ống. Những tế bào có dạng hình
ống này có đầu cuối là sự kết hợp của một nhánh những sợi mịn nhỏ được nối
kết với lớp bề mặt của màng nhầy, lớp màng nhầy này được duy trì trong điều
kiện ẩm.
Những chất bay hơi (ethanol, ête, …) kích thích cảm giác với mùi của khứu
giác, ngược lại những chất không bay hơi (kim loại, muối, carbon, …) do không
có khả năng bay hơi nên cũng không có khả năng gây mùi.
Khi ngửi cần có động tác hít vào, động tác này sẽ mang các chất mùi và một
phần không khí vào mũi. Những phân tử không khí sẽ trượt trên sườn vách
ngăn phía trong cánh mũi. Những phân tử chất mùi sẽ đi vào lớp chất lỏng bao
phủ màng nhầy, khi đó chúng tác động lên những sợi dây tóc nhạy cảm mịn nhỏ
của tế bào khứu giác, những sợi dây tóc nhạy cảm này sẽ truyền tín hiệu thông
tin thông qua hệ thần kinh khứu giác để đi đến não.
Hình 2.1 : Vị trí của vùng khứu giác trong mũi và cấu trúc của tế bào khứu giác
1. Niêm mạc khứu giác
2. Lỗ mũi
A. Tế bào khứu giác
B. Tế bào đệm
3.Thuyết hóa học và lý học về mùi
3.1.Thuyết hóa học
Thuyết này cho rằng chất có mùi rơi vào mũi sẽ lan rộng ra trong chất lỏng bao
phủ xung quanh khứu giác, sau đó chất có mùi liên kết với một chất hóa học
đặc biệt gọi là chất tiếp nhận mùi. Kết quả phát sinh ra một chất mới và tác động
đến đầu cuối dây thần kinh làm cảm nhận được mùi.
3.2.Thuyết lý học
Thuyết này cho rằng để cảm nhận được mùi, không nhất thiết phân tử chất có
mùi tiếp xúc với các cảm biến của tế bào. Tất cả các chất thơm đều phát ra tia
hồng ngoại, mỗi chất có một phổ riêng của mình. Như vậy phân tử chất có mùi
được xem như một máy phát tia hồng ngoại, các tia này được thu hồi bằng máy
thu là tế bào thần kinh khứu giác.
4.Đánh giá cảm quan bằng khứu giác
Kỹ thuật cảm thụ mùi đòi hỏi phải thực hiện ở các giai đoạn chuẩn bị sản phẩm
khác nhau. Động tác thực hiện là hít đều, liên tục, từng đợt đồng thời suy nghĩ
đến cảm giác. Cảm giác về mùi tăng lên nếu ta hít nhanh và mạnh, nhưng
thường chỉ nhận được bởi lần ghi nhận đầu tiên của khứu giác, nếu cố gắng
nhiều lần, có thể không nhận được hoặc nhận được rất ít mùi do hiện tượng
mệt mỏi hoặc thích nghi của khứu giác.
5.Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cảm thụ mùi
• Tuổi
• Giới tính
• Phụ thuộc các giác quan khác
• Thời gian và tình trạng no đói
• Môi trường ngoại cảnh (khí hậu, thời tiết, tiếng ồn).
• Tùy theo từng cơ thể mỗi người và khả năng tập luyện.
• Độ tinh khiết của chất kích thích.
• Khoảng cách và tốc độ của dòng khí truyền.
• Ảnh hưởng của các chất hóa học khác
6.Một số khái niệm về thuật ngữ mùi
• Mùi ngửi : là cảm giác nhận được do các chất bay hơi trực tiếp qua
đường mũi.
• Mùi cảm : là cảm giác nhận được do các chất bay hơi vừa qua đường mũi
vừa qua đường miệng.
• Mùi chính : là mùi chủ yếu đặc trưng của chất bay hơi.
• Mùi thoảng : là mùi nhẹ hay mùi phụ của một tập hợp chất bay hơi.
• Mùi khuyết : là mùi có trong tập hợp chất bay hơi bị các mùi khác che lấp
đi nên không thể cảm nhận ngay, phải có biện pháp xử lý mới có thể nhận
biết được dễ dàng.
Vị và vị giác
1.Định nghĩa về vị
Vị là đặc tính của một chất hay một hợp chất mà con người hay động vật có thể
cảm nhận được khi hòa tan chất đó trong miệng và gây ra được cảm giác.
2.Sự cảm nhận vị của vị giác
Sự cảm nhận vị bằng vị giác là một quá trình tiếp nhận theo cơ chế hóa học. Để
kích thích sự tiếp nhận vị chất có vị phải được hòa tan trong nước bọt thông qua
các cơ quan nằm trên mặt lưỡi, trong vòng miệng và yết hầu.
Những tế bào kết hợp với chất có vị nằm trong những nụ vị giác và được phân
bố theo các rãnh trên bề mặt của lưỡi. Những tế bào cảm nhận vị này được sắp
xếp thành chùm từ những sợi nhỏ như sợi tóc được nối kết vào bên trong xuyên
qua những khe hở của nụ vị giác. Chính những sợi dây tóc này đã làm cho chất
kích thích tiếp xúc được với tế bào tiếp nhận vị. Những thông tin nhận được từ
sự tiếp xúc trên được truyền theo đầu dây thần kinh vị giác để về đến não.
Hình 2.2 : Cấu tạo của vị giác
1. Khe hở
2. Tế bào cảm nhận vị
3. Sợi thần kinh
1. Tế bào vị giác
2. Khe vị giác
3. Mô liên kết
4. Sợi thần kinh
Có hàng ngàn nụ vị giác được phân bố trên bề mặt lưỡi và chủ yếu kết hợp để
nhận biết ra bốn vị cơ bản là ngọt, mặn, chua và đắng. Các nhà khoa học cho
rằng tất cả các vị mà ta nếm được là sự hỗn hợp theo tỷ lệ khác nhau của các vị
cơ bản này. Khả năng cảm nhận đối với bốn vị này không đồng nhất trên khắp
bề mặt lưỡi.
Khu vực nhạy cảm nhất với vị ngọt và vị mặn tập trung ở đầu lưỡi.
Khu vực nhạy cảm với vị chua thường tập trung ở hai rìa lưỡi.
Khu vực phía cuối lưỡi nhạy cảm hơn với vị đắng.
Hình 2.3: Sự phấn bố của nụ vị giác trên bề mặt lưỡi
3.Giới thiệu chung về bốn vị cơ bản
Vị đóng vai trò rất quan trọng trong đánh giá cảm quan thực phẩm. Các sản
phẩm rắn hay lỏng (hoặc chất khí hòa tan trong sản phẩm lỏng) khi nhai hay
uống đều cho cảm giác vị.
• Chua
Chua là một vị cơ bản và được đặc trưng chủ yếu là các acid hữu cơ (trừ các
acid amin) nhưng ngưỡng cảm đối với các acid khác nhau cũng khác nhau.
• Mặn
Chất tiêu biểu cho vị mặn là muối NaCl, một số muối khác cũng tạo vị mặn
nhưng thường cho vị hỗn hợp. Vị mặn không chỉ phụ thuộc loại muối sử dụng
mà còn phụ thuộc vào nồng độ của chúng.
• Ngọt
Vị ngọt chủ yếu là do các hợp chất alcohol, glycol và các dẫn xuất của đường.
Đường các loại có khả năng gây vị ngọt là do sự có mặt các nhóm hydroxyl (-
OH) trong công thức cấu tạo.
Nhiều hợp chất glycol có thể ngọt gấp hai lần đường sucrose, khi gia tăng số
lượng nhóm halogen trong phân tử thì vị ngọt gia tăng.
Tính ngọt của đường phần lớn có liên hệ với độ hòa tan của chúng.
• Đắng
Vị đắng thường được gây ra do một số chất hữu cơ và vô cơ. Tiêu biểu là các
alkaloid như là quinine, cafein và strychnine… chúng thường kết hợp với các vị
khác.
Tannin là một chất phổ biến trong một số loại thực phẩm tạo vị đắng, và tính
đắng này có tác dụng tốt trong việc tạo mùi vị cho trà, bia.
4.Cơ chế hoạt động của cơ quan vị giác
4.1.Điều kiện để có cảm giác về vị
• Chất có vị phải hòa tan trong nước bọt hoặc dịch tiết ra bởi tuyến nhầy
của gai hình dài.
• Lưỡi phải tiếp xúc với thành bình chứa dịch.
• Lưỡi phải áp chặt hàm ếch của vòm miệng.
• Nếm đủ một lượng để tạo vị (đối với dung dịch nếm đủ 10 ml).
4.2.Tác dụng của nước bọt
Nước bọt là dung dịch có tính acid yếu ( pH = 5,6 ÷ 6,7), không màu, không mùi,
không vị, có tác dụng làm mềm thực phẩm, sau đó tạo điều kiện cho thực phẩm
hòa tan và kích thích lên dây thần kinh ngoại biên, tham gia phản ứng giữa chất
có vị và đầu dây thần kinh, làm sạch lưỡi và có khả năng sát trùng.
4.3.Tốc độ phản ứng của vị giác
Tốc độ phản ứng của vị giác chậm hơn so với tốc độ các cảm giác khác, và
trong từng loại vị giác tốc độ này cũng khác nhau. Tốc độ cảm nhận trung bình
của :
• Vị mặn là 0,307 s
• Vị ngọt là 0,446 s
• Vị chua là 0,536 s
• Vị đắng là 1,082 s
5.Tiến hành đánh giá cảm quan bằng vị giác
Khi tiến hành đánh giá vị bằng vị giác cần kết hợp giữa động tác như chập lưỡi
nhiều lần, đều đặn liên tiếp, cách đều và suy nghĩ đến cảm giác, kích thích
tuyến nước bọt, đưa mẫu thực phẩm vào giữa gai hình dài làm cho lưỡi tiếp xúc
với hàm ếch, để thực phẩm vào rãnh.
Đồng thời tạo điều kiện cho thực phẩm hòa tan vào nước bọt, làm sạch lưỡi,
đưa mẫu cũ ra và đưa mẫu mới vào. Sau mỗi lần đánh giá ghi chú lại cảm giác.
6.Một số hiện tượng đối với cơ quan vị giác
• Hiện tượng thích nghi : là hiện tượng giảm khả năng nhạy cảm nhất thời
của cơ quan vị giác.
• Hiện tượng mệt mỏi : là hiện tượng mà khi chất kích thích có nồng độ lớn
sẽ tạo nên sự hủy hoại thần kinh. Sự hủy hoại này không hồi phục ngay
được.
• Hiện tượng bù trừ : là hiện tượng khi phối hợp hai vị cơ bản với nhau ở
nồng độ lớn hơn nồng độ ngưỡng cảm. Nếu tăng nồng độ một trong hai vị
đó sẽ xảy ra hiện tượng vị này lấn át vị kia hay kích thích vị kia.
• Hiện tượng tương phản (cạnh tranh): là hoạt động phối hợp của hai hay
nhiều chất kích thích gây ra một mức cảm giác thấp hơn những tác động
của mỗi chất kích thích riêng biệt.
• Hiện tượng tiêu tan cảm giác : là do hai vị tác động đồng thời trên lưỡi,
trong đó có một vị bị mất đi.
• Hiện tượng hòa hợp : khi phối hợp những vị khác nhau sẽ xảy ra hiện hòa
hợp hay không hòa hợp.
• Hiện tượng ngụy trang về vị : là sự giảm cường độ hay thay đổi cường độ
của một vị bởi một vị khác.
• Hiện tượng cảm giác về vị : là khi pha lẫn hai hay ba vị cơ bản sẽ tạo ra
một vị khác những vị trên.
7.Một số khái niệm về vị
• Tiền vị : là cảm giác nhận được đầu tiên khi nếm sản phẩm .
• Chánh vị : là vị đặc trưng của sản phẩm khi nếm.
• Hậu vị : là cảm giác nhận được sau khi nếm.
• Lưu vị : là cảm giác nhận được giống như cảm giác đang nếm sản phẩm,
cảm giác này kéo dài trong khoảng thời gian có thể đo được.
8.Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cảm thụ của vị giác
• Tuổi
• Trạng thái cơ thể .
• Tùy theo cơ thể của mỗi người và khả năng luyện tập.
• Nhiệt độ .
• Điều kiện ăn uống nghỉ ngơi và tình trạng no đói.
• Nồng độ chất kích thích.
• Ảnh hưởng của môi trường nếm.
Màu và thị giác
Mắt có thể phân biệt được tần số ánh sáng, nhờ vậy ta mới có cảm giác về màu
sắc. Để có thể cảm nhận được màu sắc, ngoài thị giác của con người cần có
nguồn sáng và vật sáng.
Màu có thể xem là kết quả của sự cảm nhận ánh sáng từ vật sáng với tác nhân
kích thích là nguồn sáng.
Năng lượng ánh sáng từ nguồn sáng chiếu vào vật sáng, phần năng lượng ánh
sáng sau khi ra khỏi vật sáng đập vào mắt làm cho mắt cảm nhận được ánh
sáng.. Trong thực phẩm hay trong tự nhiên nói chung có 2 hình thức năng
lượng nguồn sáng truyền qua vật sáng, đó là năng lượng nguồn sáng đi xuyên
qua vật sáng đối với vật trong suốt hay ở trạng thái lỏng hoặc phản xạ đối với
vật rắn. Như vậy, có thể định nghĩa màu sắc theo cảm nhận vật lý là sự cảm
nhận năng lượng của ánh sáng hay do được phản xạ hay do được truyền qua
một thực phẩm nào đó của cơ quan thị giác.
Khi chiếu một chùm ánh sáng trắng xuyên qua một mẫu rượu vang đỏ, chất
màu anthocyanin trong rượu hấp thu năng lượng từ nguồn sáng, phần năng
lượng không bị hấp thu sẽ xuyên qua mẫu và đập vào mắt người quan sát, khi
đó người quan sát sẽ nhận được màu đỏ do lúc này sự phân bố năng lượng
trong chùm sóng truyền đã thay đổi và bao gồm bước sóng 700÷770 nm.
Hình 2.4: Sơ đồ cấu tạo của mắt
1. Giác mạc
2. Phòng trước
3. Lòng đen
4. Phòng sau
5. Dây chằng
6. Cơ
7. Thủy tinh thể
8. Củng mạc
9. Võng mạc
10. Điểm vàng
11. Thần kinh thị giác
12. Thủy tinh dịch
Hình 2.5: Cấu tạo của võng mạc
1. Các nón
2. Que
3. Các nơrơn liên hợp
4. Gai thị giác
5. Thần kinh thị giác
Khi chuyển tiếp từ vùng có bước sóng này sang vùng bước sóng tiếp theo có
một khoảng trung gian và ánh sáng nhận được từ các vùng trung gian này rất
giống nhau mà mắt không thể phân biệt được ngay mà phải đến một lúc nào đó
mắt mới nhận ra sự đổi màu.
Do đó người ta đưa ra khái niệm về độ nhạy của mắt là khả năng phân biệt hai
nguồn năng lượng ánh sáng có bước sóng rất gần nhau.
Sự tiếp nhận màu sắc bị ảnh hưởng bởi các yếu tố sinh học:
• Hiện tượng bất biến của màu sắc
• Sự ảnh hưởng của màu sắc xung quanh hay màu nền.
Tóm lại, màu sắc nhận được từ một vật bị chiếu sáng phụ thuộc vào các yếu tố
như : thành phần quang phổ của nguồn sáng, đặc tính vật lý và hóa học của đối
tượng, tính tự nhiên của sự chiếu sáng và độ nhạy sáng của mắt khi quan sát.
Trạng thái và xúc giác
Trong kiểm nghiệm cảm quan, các đầu ngón tay và lòng bàn tay dùng để kiểm
nghiệm về trạng thái và cấu trúc của sản phẩm. Ở đây có sự phối hợp rất chặt
chẽ giữa cảm giác ở ngón tay, lòng bàn tay và mắt, đôi khi cả tai và lưỡi nữa.
Cấu trúc là một đặc tính của hợp chất, nó có liên quan với độ nhớt, độ đàn hồi
và những đặc tính hóa học khác của thực phẩm nhưng mối liên hệ của chúng
rất phức tạp.
Kiểm nghiệm cấu trúc bao gồm các kinh nghiệm tổng hợp nhận được từ các
cảm giác của da sau khi ăn một sản phẩm. Kiểm nghiệm này bao gồm : độ
nhớt, độ đàn hồi, sức căng bề mặt và các đặc tính vật lý khác của nguyên liệu
làm mẫu.
Hình 2.6 : Mặt cắt ngang của da
1. Biểu bì
2. Trung bì
3. Hạ bì
1. Lông mao
2. Thể Craoze
3. Tận cùng thần kinh tự do
4. Búi thần kinh chân lông
5. Thể Mayxne
1.Cảm nhận cấu trúc bằng miệng
Đa số sự cảm nhận cảm quan cấu trúc của thực phẩm được thực hiện dựa trên
những cảm giác nhận được khi mẫu thực phẩm được đánh giá trong miệng,
nghĩa là khi thực phẩm được cắn, nhai, nuốt.
Quá trình đánh giá bao gồm sự hoạt động tổng hợp của nhiều cơ quan :
• Hệ thống đầu dây thần kinh.
• Lưỡi.
• Răng
• Mô cơ và gân
• Lưỡi, gò má, môi
Người ta chứng minh rằng lực tác dụng sẽ gia tăng trong quá trình cắn và nhai.
Lực cắn cực đại đến 50kg và khi lực cắn tăng sẽ làm cho sự cảm nhận áp lực
trên khớp, trên mô cơ, trên gân và răng tăng và gây nên đau (ở điều kiện bình
thường lực cắn nhỏ hơn mức có thể gây đau). Từ đó có thể nhận biết cấu trúc
cứng hay mềm của thực phẩm.
2.Đánh giá cảm quan cấu trúc thực phẩm bằng các giác quan khác
Một số thông tin về đặc tính cấu trúc của thực phẩm có thể nhận được trước khi
nhai. Sự nhận biết này có thể thực hiện được thông qua các giác quan khác
hoặc một số phương tiện khác.
2.1.Thị giác
Sự biểu hiện bề ngoài của màu có thể cung cấp một số gợi ý, nghĩa là khi nhìn
màu của quả có thể nhận biết trạng thái chín của nó từ đó có thể sơ bộ nhận
biết được tính cứng chắc của quả. Khi nhìn các loại rau có thể nhận biết tình
trạng tươi hay héo của chúng, từ đó có thể nhận biết được cấu trúc cứng, dòn
hay mềm của chúng.
2.2.Tay hoặc các dụng cụ khác
Có thể đánh giá cấu trúc thực phẩm bằng cách bẻ, uốn hay ép, thực phẩm cũng
có thể được cắt bằng dao, đâm bằng nĩa … Bằng những biện pháp này có thể
cho một số gợi ý về tính cứng chắc, dòn hay cấu trúc sợi … của thực phẩm.
Đối với thực phẩm dạng lỏng và bán lỏng có thể xác định độ nhớt, độ phẳng hay
độ dính bằng cách khuấy, lắc, rót cho chảy hoặc phết trải ra …
2.3.Vai trò của âm thanh trong tiếp nhận cấu trúc
Các mẫu thực phẩm khi được cắn, nhai hay bị các lực tác động khác sẽ phát ra
âm thanh. Thực phẩm có cấu trúc khác nhau sẽ phát ra âm thanh khác nhau.
Do đó, âm thanh nhận được khi đánh giá thực phẩm phản ánh cấu trúc của
thực phẩm.
Tóm lại để đánh giá chính xác cấu trúc của thực phẩm cần kết hợp nhiều giác
quan, bên cạnh đó còn phải đo các thông số vật lý nếu có thể thực hiện được.
Ngưỡng cảm giác
Ngưỡng cảm giác là giá trị nồng độ tối thiểu của một chất cần thiết gây cho con
người cảm giác đặc trưng. Người ta phân biệt các loại ngưỡng cảm như sau :
• Ngưỡng cảm phát hiện : là giá trị nồng độ tối thiểu của một chất gây được
một cảm giác.
• Ngưỡng cảm phân biệt (sai biệt) : là giá trị khác nhau tối thiểu về cường
độ của một kích thích để nhận biết được sự khác nhau đó.
• Ngưỡng cảm cuối cùng : là giá trị nồng độ tối đa của