Khó có thể miêu tả đầy đủ những cái gì sẽ là chi phí và lợi ích của một dự án. Bạn phải 
liên hệ giá-trị (value) nào đó với những chi phí và lợi ích để có thể so sánh chúng với 
nhau. Không có các giá-trị (value) tiền tệ, bạn chỉ so sánh quản cam với quả tào, hay điện 
tử với con người. Và đó là việc so sánh không đồng thể; không đúng!!! 
Trong một thế giới hoàn hảo, mọi thứ được trao đổi buôn bán trong một thị trường hiệu 
quả hoàn hảo với rất nhiều cạnh tranh, không có ngoại ứng, không bị đánh thuế, không có 
các chương trình trợ giá của chính phủ hay hạn chế nhập khẩu hoặc bất kỳ điều gì tương 
tự. Mức sẵn lòng chi trả biên cho một loại hàng hoá sẽ bằng với chi phí cơ hội của sản 
xuất. Một thị trường như vậy sẽ đem lại cho chúng ta
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 17 trang
17 trang | 
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1900 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá lợi nhuận và chi phí khi tồn tại giá thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đánh giá Lợi nhuận và Chi phí khi tồn tại Giá Thị trường 
Dr. Allen Bellas 
Phương Hạnh 
Đánh giá Lợi nhuận và Chi phí 
Khó có thể miêu tả đầy đủ những cái gì sẽ là chi phí và lợi ích của một dự án. Bạn phải 
liên hệ giá-trị (value) nào đó với những chi phí và lợi ích để có thể so sánh chúng với 
nhau. Không có các giá-trị (value) tiền tệ, bạn chỉ so sánh quản cam với quả tào, hay điện 
tử với con người. Và đó là việc so sánh không đồng thể; không đúng!!! 
Trong một thế giới hoàn hảo, mọi thứ được trao đổi buôn bán trong một thị trường hiệu 
quả hoàn hảo với rất nhiều cạnh tranh, không có ngoại ứng, không bị đánh thuế, không có 
các chương trình trợ giá của chính phủ hay hạn chế nhập khẩu hoặc bất kỳ điều gì tương 
tự. Mức sẵn lòng chi trả biên cho một loại hàng hoá sẽ bằng với chi phí cơ hội của sản 
xuất. Một thị trường như vậy sẽ đem lại cho chúng ta 
• Không công ty có cổ phiếu thị trường quá quan trọng 
• Không có ngoại ứng 
• Không thuế 
• Không có hàng hoá không trao đổi 
• Không những dự án "lớn" làm giá biến đổi 
Với một thế giới tuyệt vời như thế giới này, nhưng thực tế thì khác. Chúng ta phải xử lý 
đánh giá hàng hoá bán ra bởi các hãng độc quyền đã tạo ra ngoại tác, bị đánh thuế, không 
được trao đổi buôn bán và thực hiện điều này trong ngữ cảnh của một dự án có thể dẫn 
tới những thay đổi mạnh mẽ về chi phí đầu-vào và chất lượng hàng hoá cuối cùng cung 
cấp ra thị trường. Đánh giá những điều này thật là quá khó. 
Nếu có thể liệt kê ra những vấn đề tiềm ẩn, chúng có thể bao gồm 
1. Hàng hoá chịu thuế 
2. Hàng hoá được cung cấp bởi các hãng nghiên cứu giá mà đối với họ, giá không ngang 
bằng với chi phí biên 
3. Hàng hoá mà việc sản xuất hay tiêu thụ chúng sinh ra những ngoại tác 
4. Hàng hoá chịu thuế Pigouvian với hy vọng giải quyết việc ngoại tác 
5. Hàng hoá được bán với một mức giá không phải là mức lợi nhuận tối đa hay để tống 
tháo hết trên thị trường 
6. Hàng hoá phát miễn phí cho ai đến trước 
7. Hàng hoá không có thị trường tiêu thụ 
8. Hàng hoá chỉ có thị trường gián tiếp, và chỉ một số người thực sự tham gia vào những 
thị trường này 
Hai quy tắc cơ bản là: 
1. Khi dự án giảm số lượng đầu-vào có sẵn cho những người khác, hãy áp dụng sự sẵn 
lòng chi trả của họ (như được thể hiện bởi đường cầu) như là một giá-trị (value). 
2. Khi dự án tăng số lượng đầu-vào mà thị trường phải sản xuất, hãy áp dụng chi phí biên 
là giá-trị (value) của đầu-vào cần bổ sung 
Đánh Giá Chi Phí và Đầu-vào của Dự Án 
Một dự án sẽ tăng nhu cầu về đầu-vào của mình. Dự tính chi phí cho tập hợp những đầu-
vào này sẽ phụ thuộc vào bản chất của thị trường mà trong đó chúng được giao dịch buôn 
bán. Chúng ta sẽ bắt đầu với một vài trường hợp đơn giản hơn và sau đó tiến tới các tình 
huống thử thách hơn. 
Điển hình, chúng ta sẽ giả sử rằng đường cung và cầu gần như là đường thẳng để dễ tính 
toán hơn. Điều này có thể không đúng, nhưng nó là phép xấp xỉ tốt và nó gợi lại câu 
chuyện cười xa xưa về một nhà kinh tế tìm kiếm chìa khoá của mình. 
1. Cung co giãn, thị trường lớn hay dự án nhỏ 
Nếu đường cung cho một đầu-vào co giãn một cách hoàn hảo hoặc nếu số lượng cầu của 
dự án là rất nhỏ so với thị trường và không có thuế hay những ngoại tác, và giá bằng với 
chi phí biên, thì giá của hàng hoá có thể đơn giản được coi như là chi phí. Chi phí đầu-
vào sẽ bằng với số lượng được sử dụng nhân với giá. 
VD: Một dự án sẽ dùng tới 100 gallons xăng dầu, bốn cuộn băng keo và 20 giờ lao động 
phổ thông sẽ không gây tác động đến bất kỳ thị trường nào trong số những thị trường 
này, do vậy giá thị trường hiện tại sẽ định giá chi phí của những đầu-vào này. 
VD: DDT được giao dịch buôn bán trên những thị trường lớn của thế giới với mức giá ổn 
định là $40/tấn, tính ổn định đó là do một thực tế là các nhà máy sản xuất sữa bột nhân 
tạo cho trẻ em có thể được chuyển đổi qua thành sản xuất DDT (và ngược lại) chỉ nhanh 
chóng qua một đêm. Một dự án phun thuốc toàn bộ khu vực phía tây Washington với hy 
vọng ngăn chặn sự lây nhiễm bệnh sốt rét sẽ sử dụng một lượng lớn DDT, nhưng bởi vì 
cung là co giãn cơ bản hoàn hảo, cho nên giá sẽ không tăng lên. 
2. Cung không co giãn 
Nếu đương cung đầu-vào là không co giãn một cách hoàn hảo (ví dụ, giống như cung về 
đất đai), thì việc áp dụng nó trong một dự án sẽ làm giảm một cách hiệu quả số lượng có 
sẵn cho những sử dụng khác. Điều này sẽ làm dịch chuyển đường cong cung dịch sang 
bên trái, làm giá tăng lên. Do vậy, sẽ có 2 mức giá. Một giá sẽ là mức trước khi mua đầu-
vào cho dự án và giá kia sẽ là mức sau khi mua đầu-vào cho dự án. 
Ví dụ, có thể giành được đất đai theo 2 cách: mua hẳn hoặc thu hồi đất bằng quyền chính 
phủ lấy tài sản riêng vào việc công sau khi đã đền bù thoả đáng. 
Nếu chính phủ mua đầu-vào trong một thị trường, thì bạn nên áp dụng mức trung bình 2 
giá để định giá đất đai sử dụng cho dự án. Điều này giả định rằng các đơn vị đã mua sẽ 
được mọi người định giá thấp nhất cho các sử dụng khác. Trong trường hợp này, nếu 
đầu-vào được mua với giá hậu dự án ( p2 hơn là p1 ), các khoản chi tiêu sẽ phóng đại chi 
phí thật của đầu-vào. 
Khi mua đất, chi phí có thể sẽ là (q - q')p2. Số tiền này không liên quan đến phân tích chi 
phí - lợi nhuận đúng cách thức. 
Chi phí đúng cho đất sử dụng sẽ là 
 Nếu đầu-vào được lấy dưới dạng quyền chính phủ (lấy tài sản riêng vào việc công sau khi 
đã đền bù thoả đáng), thì không bảo đảm rằng các đơn vị có giá-trị (value) thấp nhất sẽ 
được sử dụng. Có thể có trường hợp tịch thu đất đai của một người mà họ rất yêu quý 
ngôi nhà, vườn tược của mình, hoặc đơn giản giá-trị (value) đúng của nó quy ra tiền tại 
điểm mà đường cầu cắt với trục tung. 
Nghĩ về vấn đền này theo cách khác, hãy coi mỗi điểm trên đường cong cầu về đất đai 
trong khu vực là mức định giá biên của một người về lô đất nhỏ mà họ đang sở hữu. Một 
số người định giá lô đất của họ gần bằng với giá thị trường (có những điểm trên đường 
cong cầu gần bằng giá thị trường) trong khi những người khác định giá cao hơn nhiều (có 
những điểm trên đường cong cầu gần trục tung). 
Kết quả là, giá thị trường hiện tại không nhất thiết phải là một chỉ số biểu thị giá-trị 
(value) các đơn vị được sử dụng trong trường hợp đất được thu hồi bằng quyền chính phủ 
(lấy tài sản riêng vào việc công sau khi đã đền bù thoả đáng). Định giá đất sử dụng là số 
trung bình của p và p' (có thể được chính thức chấp nhận như là "giá-trị (value) thị trường 
công bằng") sẽ dẫn đến một giá-trị (value) quá thấp. 
Trong trường hợp này, khó có thể phỏng đoán giá-trị (value) thích hợp của đất sử dụng. 
Một phỏng đoán hợp lý cho mỗi đơn giá có thể là số trung bình của giá-trị (value) thị 
trường và giá dự trữ (giá-trị (value) biên cao nhất áp dụng cho đất trong khu vực). Tổng 
giá-trị (value) đất đai sử dụng khi đó sẽ là 
 VD: Uỷ ban Sân vận động Ballard Stadium đang thu dụng đất để xây mới sân vận động 
mang tên Whirlydome tại Ballard. Kết quả của việc họ mua đất, giá đất tại Ballard sẽ 
tăng lên từ $2.3M lên $2.8M / một mẫu. SVĐ Whirlydome sẽ cần tới 20 mẫu đẩt. 
Nếu uỷ ban mua đất từ những người sẵn sàng bán, thì nên định giá đất ở mức là 
, bất chấp thực tế là họ sẽ có thể trả tới $56 
triệu để mua đất. 
Nếu uỷ ban thu hồi đất thông qua quyền chính phủ, thì giá-trị (value) này sẽ quá thấp. 
3. Đường cung dốc đi lên và dự án lớn 
Nếu đường cung dốc đi lên, thì chi phí đầu-vào sẽ xảy ra 2 trường hợp. Cầu tăng do có dự 
án sẽ làm tăng số lượng đầu-vào cung cấp cho thị trường, bên cạnh đó lại làm giảm số 
lượng nhu cầu của những khách hàng không phải là dự án. Kết quả là, giá-trị (value) 
hàng hoá tiêu thụ bởi những người khác bị giảm cũng như chi phí cung cấp số lượng bổ 
sung cho dự án bị tăng lên. 
Mức giảm trong tiêu dùng tư nhân phải được định giá theo giá-trị (value) biên gốc ban 
đầu hoặc đường cong cầu. Mức tăng về chi phí để sản xuất nhiều đầu-vào hơn phải được 
định giá theo chi phí biên hoặc đường cong cung. 
Đầu-vào phải được định giá là số trung bình của p1 và p2 nhân với số lượng dùng cho dự 
án. 
 VD: Một dự án sẽ sử dụng 1500 đơn vị hàng hoá với cầu được tính bằng Qd=6500-(3P/2) 
và cung được tính bằng Qs=(P/2)-500. Hãy tính chi phí đầu-vào này. 
Giá ban đầu là 3500 và số lượng ban đầu là 1250. 
Đường cầu mới là Qd'=6500+1500-(P/2) = 8000 - (3P/2) 
Giá mới là 4250 và số lượng mới là 1625. 
Mức tiêu dùng cá nhân, không phải là dự án sẽ giảm từ 1250 đơn vị (trước khi có dự án) 
xuống còn 125 đơn vị (trong thời gian thực hiện dự án) 
Giá-trị (value) đúng tính cho đầu-vào này là 
4. Dự án nhỏ chịu thuế 
Nếu có doanh thu đơn thuần từ thuế do chính phủ quy định, vấn đề có nên bao gồm số 
tiền thuế trong chi phí đầu-vào tuỳ thuộc vào việc liệu chính phủ có vị trí trong trong bản 
phân tích hay không. Nếu chính phủ có, thì số tiền nộp thuế chỉ đơn thuần là bước chuyển 
đổi từ cơ quan thực hiện dự án sang chính phủ và đó không phải là chi phí, vì vậy chi phí 
đầu-vào chỉ là giá không bao gồm thuế. Trong một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, đó gọi 
là chi phí sản xuất biên. 
 Vì vậy, nếu một thị trường là cạnh tranh đầy đủ, giá mà nhà cung cấp nhận được (PRBS) 
có thể bằng xấp xỉ sát với chi phí biên, nếu chính phủ có vị trí trong bản phân tích, đây là 
chi phí thực để áp dụng cho đầu-vào. 
Mặt khác, nếu chính phủ không có vị trí trong bản phân tích, thì số tiền nộp thuế chính là 
chi phí và phải được tính là như vậy. Do đó, giá bao gồm thuế hay giá mà người tiêu 
dùng phải trả (PPBC) phải được áp dụng như là chi phí đầu-vào. 
5. Dự án nhỏ sử dụng đầu-vào được cung cấp bởi một hãng độc quyền 
Nếu hàng hoá sử dụng trong dự án được cung cấp bởi một ngành công nghiệp không bị 
cạnh tranh (ví dụ bởi một hãng độc quyền), thì giá trả cho hàng hoá đó có thể cao hơn chi 
phí biên (MC). Sự chênh lệch giữa giá và chi phí biên (MC) chính là thu nhập mà nhà 
cung cấp thu được từ việc bán một đơn vị đầu-vào, do vậy nảy sinh thêm một câu hỏi là 
liệu số tiền bổ sung thêm (Giá - Chi phí biên) là sự chuyển đổi hay là chi phí. Nếu nhà 
cung cấp có vị trí trong bản phân tích, thì số tiền phải trả thêm đó chỉ đơn thuần là bước 
chuyển đổi và chi phí biên sản xuất mới là chi phí của hàng hoá. Nếu nhà cung cấp không 
có vị trị trong bản phân tích, thì số tiền Giá trừ đi Chi phí biên (P-MC) là một phần của 
chi phí và toàn bộ giá là chi phí của đầu-vào. 
VD: 
Kết hợp #4 và #5: Một dự án nhỏ sử dụng đầu-vào chịu thuế và được cung cấp bởi một 
hãng độc quyền. 
1. Tưởng tượng dự án sẽ sử dụng một số lượng nhỏ xăng dầu. Giá xăng dầu là 
$1.40/gallon, bao gồm tiền thuế $0.40/gallon. Tuy nhiên, thị trường xăng dầu không có 
cạnh tranh , và chi phí biên sản xuất là $0.80. Chi phí phù hợp áp cho một gallon xăng 
dầu sẽ tuỳ thuộc vào việc liệu chính phủ và các nhà cung cấp xăng dầu có vị trí trong bản 
phân tích hay không. 
Vị trí Chi phí 
Chính phủ và các Công ty Dầu lửa $0.80 
Chính phủ $0.80 + $0.20 = $1.00 
Các Công ty Dầu lửa $0.80 + $0.40 = $1.20 
Không ai cả $0.80 + $0.40 + $0.20 = $1.40 
2. Tưởng tượng một dự án bị yêu cầu phải sử dụng lao động thành viên công đoàn, và lao 
động này chịu thuế thu nhập. Mức lương phổ biến trong khu vực dành cho lao động 
không tham gia công đoàn là $8/giờ trong khi lương dành cho lao động thành viên công 
đoàn là $10/giờ và tỷ xuất đánh thuế thu nhập là 25% do công ty thuê lao động chi trả. 
Nếu chính phủ có vị trị trong bản phân tích, thì thuế sẽ không bao gồm trong chi phí. 
Vị trí trong bản phân tích Chi phí 
Chính phủ và Công đoàn $ 6.00/giờ ($8 x (1-0.25)) 
Chính phủ $ 7.50/giờ ($10 x (1-0.25)) 
Công đoàn $ 8.00/giờ 
Không ai cả $10.00/giờ 
6. Những dự án lớn trên các thị trường chịu thuế 
Nếu có đơn thuần thu nhập từ thuế (không phải những ngoại tác) đánh vào đầu-vào, thì 
giá hiện hành bao gồm thuế thể hiện mức sẵn lòng chi trả biên và khu vực bên dưới 
đường cầu phải được sử dụng để đánh giá những giảm sút trong tiêu thụ không thuộc dự 
án trong khi chi phí biên sản xuất (hoặc khu vực bên dưới đường cong cung) phải được 
sử dụng để đánh giá chi phí sản xuất bổ sung. Mức thuế phải trả cho đầu-ra (output) bổ 
sung đơn giản là một bước chuyển đổi, và do vậy, không được bao gồm trong phân tích. 
Biểu đồ này thể hiện minh hoạ rõ nhất cho nguyên tắc là 
1. Khi dự án giảm số lượng đầu-vào sẵn có cho những người khác, hãy áp dụng mức sẵn 
lòng chi trả của họ (như được thể biện bởi đường cong cầu) như là một giá-trị (value) 
2. Khi dự án tăng số lượng đầu-vào mà thị trường phải sản xuất, hãy áp dụng chi phí biên 
làm giá-trị (value) đầu-vào bổ sung 
Hình bình hành trên khu vực "Chi phí cho phần sản xuất tăng thêm" (The cost of 
increased production) là mức thuế phải nộp cho các đơn vị bổ sung được sản xuất và nó 
không được bao gồm như là một chi phí bởi vì nó đơn giản chỉ là một bước chuyển đổi. . 
VD: Một dự án sẽ sử dụng một lượng lớn thuốc lá để xây dựng một chiếc cầu. Thuốc lá 
xì gà chịu mức thuế là $1.00/bao và một tỷ bao thuốc lá sẽ được sử dụng để thi công cây 
cầu. Kết quả của việc xây cầu là giá xì gà bao gồm thuế sẽ tăng từ $2.00 lên $2.30 mỗi 
bao và dự kiến mức tiêu thụ của những người tiêu thụ cá nhân sẽ giảm đi 200 triệu bao. 
Vậy nên áp mức giá nào cho đầu-vào này? 
Câu trả lời là mức giảm sút trong tiêu thụ cá nhân (200 triệu bao) nên được định giá bằng 
số trung bình của 2 mức giá bao gồm thuế, hay bằng $2.15. Mức tăng trong sản xuất (800 
triệu) nên được định giá không bao gồm thuế là bằng $1.15. Tổng chi phí của đầu-vào sẽ 
là $430M + $920M=$1350M. 
Tổng chi phí để mua số xì gà này, bao gồm cả tiền thuế, sẽ là $2.30*1 tỷ = $2300 triệu, 
nghĩa là lớn hơn rất nhiều chi phí thực tế nên được áp dụng trong phân tích chi phí - lợi 
nhuận. Nếu thuế không được bao gồm trong con số này, tổng chi phí sẽ là $1300 triệu, 
cũng là không đúng. 
7. Thuế liên quan đễn những ngoại ứng: Thuế Pigouvian 
Nếu có một mức thuế bằng với thiệt hại biên từ một ngoại ứng, thì giá bao gồm thuế nên 
được áp dụng để tính cả mức giảm trong tiêu thụ và chi phí cho đầu-ra (output) bổ sung, 
do vậy chi phí đầu-vào sẽ được mô tả như sau: 
 VD: Chi phí cho Chăm sóc Y tế 
Chi phí chăm sóc y tế chiếm tỷ phần rất lớn trong Tổng Sản Lượng Nội địa (GDP). Tuy 
nhiên, thước đo thích hợp tỷ phần của toàn bộ sản lượng chăm sóc y tế thực sự là chi phí 
biên của thực hiện chăm sóc y tế. Trên thực tế, nếu giá và chi phí biên không bằng nhau 
trong lĩnh vực chăm sóc y tế, thì mức chênh lệch (lợi nhuận của người cung cấp dịch vụ 
chăm sóc y tế) chỉ là một bước chuyển đổi từ người tiêu dùng sang người sản xuất và, 
nếu cả hai đều có vị trí trong bản phân tích, thì thực sự không nên bao gồm nó như là một 
phần của chi phí chăm sóc y tế ở nước Mỹ. 
VD: Chế độ quân dịch 
Nước Mỹ hiện nay không thực hiện chế độ quân dịch, nên chính phủ phải thuê người 
phục vụ trong quân ngũ. Do những người này được thuê thông qua các thị trường lao 
động phù hợp, nên mức lương trả cho họ là thước đo chi phí cơ hội thời gian của họ và có 
thể là thước đo phù hợp chi phí lao động của họ như là đầu-vào của sản lượng quốc 
phòng. Nếu thay vào đó tồn tại chế độ quân dịch mà theo đó, mọi người bị bắt buộc phải 
phục vụ trong quân ngũ, thì số tiền trả họ cho việc phục vụ bắt buộc sẽ có thể ở mức đánh 
giá thấp hơn chi phí cơ hội cho việc phục vụ quân ngũ của họ. Xét từ quan điểm của Bộ 
Quốc phòng, chế độ quân dịch có thể làm giảm chi phí cho quốc phòng, nhưng xét về 
quan điểm xã hội, nó chắc chắn sẽ làm tăng chi phí quốc phòng. 
Bài tập trên lớp 
1. Hãy vẽ biểu đồ về một dự án lớn mua đầu-vào của hãng độc quyền. 
2. Hãy vẽ biểu đồ về một dự án lớn mua đầu-vào mà việc sản xuất đầu-vào đó dẫn đến 
một ngoại tác âm. 
3. Hãy vẽ biểu đồ về một dự án lớn mua đầu-vào mà việc sản xuất đầu-vào đó dẫn đến 
một ngoại tác dương. 
Đánh giá đầu-ra (output) của dự án 
Một dự án sẽ làm tăng mức cung đầu-ra (output) tương ứng với mức trước khi có dự án. 
Việc đánh giá giá-trị (value) đối với xã hội của những đầu-ra (output) này sẽ phụ thuộc 
vào bản chất của thị trường trong đó chúng được giao dịch buôn bán. 
Điển hình, chúng ta sẽ giả định đường cung và cầu gần như là đường thẳng nhằm giúp 
việc tính toán dễ dàng hơn. 
1. Cầu co giãn hay một dự án nhỏ 
Nếu cầu co giãn một cách hoàn hảo hoặc nếu số lượng được cung cấp bởi dự án là rất nhỏ 
so với thị trường, thì đúng là chỉ sử dụng giá thị trường như là giá-trị (value) đầu-ra 
(output) . 
2. Cung không co giãn một cách hoàn hảo 
Nếu cung không co giãn một cách hoàn hảo và dự án làm tăng cung với một đường cong 
cầu dốc đi xuống, thì giá-trị (value) đầu-ra (output) là khu vực bổ sung bên dưới đường 
cong cầu. Lợi nhuận được tính bằng số trung bình của 2 giá p1 và p2. 
Trong khi không thể biết chắc chắn giá sau khi thực hiện dự án là bao nhiêu, có thể dự 
tính được mức giá đó nếu bạn biết dự án sẽ lớn như thế nào so với thị trường và độ co 
giãn về giá cầu là bao nhiêu. 
 Ví dụ, nếu độ co giãn về giá cầu là -1.2 và dự án sẽ làm tăng số lượng cung cấp cho thị 
trường thêm 10%, thì sẽ hợp lý để giả địng rằng giá sẽ giảm đi 12%. 
3. Cung dốc đi lên (một dự án lớn) 
Nếu cung dốc đi lên, thì một lần nữa, giá áp dụng để đánh giá đầu-ra (output) bổ sung là 
số trung bình của hai giá. Giá-trị (value) đầu-ra (output) của dự án bằng giá-trị (value) 
của đầu-ra (output) bổ sung (qtotal-q0) cộng với số tiền tiết kiệm chi phí nhờ mức giảm 
trong sản sản hàng hoá không thuộc dự án (q0-qpriv). 
Bạn nên lưu ý rằng dự án sẽ làm tăng tổng cung và làm giảm giá thị trường. Kết quả của 
việc giảm giá thị trường này sẽ làm giảm đầu-ra (output) của các nhà cung cấp không 
thuộc dự án, có thể có nghĩa là một vài người trong số họ bị vỡ nợ phá sản. 
 Một lần nữa, phải lưu ý rằng sản xuất tư nhân sẽ giảm từ q0 trước khi có dự án xuống là 
qpriv sau khi có dự án. Phía bên tay trái của khu vực này là lợi nhuận từ việc tiết kiệm chi 
phí nhờ mức giảm trong sản xuất tư nhân (mà sẽ có thể được đền bù bằng chi phí của dự 
án). Phía bên tay phải là giá-trị (value) áp dụng cho đầu-ra (output) bổ sung nảy sinh do 
có dự án. 
VD: Tưởng tượng cho cung và cầu đối với một hàng hoá theo phương trình QD=2000-2P 
và QS=P-700 và dự án sẽ sản xuất ra sản lượng đầu-ra (output) là 300 đơn vị hàng hoá 
này để bán trong một thị trường thông thường. Giá-trị (value) của đầu-ra (output) này là 
bao nhiêu? 
Mức giá cân bằng ban đầu được tính là 
QD = QS 
2000-2P = P-700 
2700 = 3P 
P = 900, Q = 200 
Chương trình sẽ làm tăng cung lên tới QS=P-700+300=P-400 và mức cân bằng mới sẽ 
được tính là 
QD = QS 
2000-2P = P-400 
2400 = 3P 
P = 800, Q = 400 
Số lượng 400 là tổng của 300 đơn vị đầu-ra (output) của dự án và 100 đơn vị đầu-ra 
(output) của nhà cung cấp tư nhân, như vậy sản lượng tư nhân giảm đi 50% so với sản 
lượng gốc ban đầu. 
Giá-trị (value) đầu-ra (output) bằng số trung bình của hai giá, là $850/đơn vị. Đối với 300 
đơn vị thì sẽ là $255,000. 
4. Những dự án lơn trong một thị trường chịu thuế 
Nếu hàng hoá sản xuất ra thông thường là chịu thuế, thì sản lượng đầu-ra (output) bổ 
sung sẽ được tính theo đường cầu trong khi mức giảm của cung tư nhân sẽ được tính theo 
đường cong cung, không bao gồm thuế. 
5. Hỗ trợ giá và những thứ khác 
Nếu hàng hoá do một dự án sản xuất ra được hưởng hỗ trợ giá từ chính phủ, thì giá thực 
sự chẳng nói lên điều gì với bạn về giá-trị (value) của sản lượng đầu-ra (output) . Một vài 
người có thể nói rằng một phỏng đoán tốt là 0, đặc biệt nếu chính phủ mua số dư thừa với 
mức giá hỗ trợ và cất chúng đi trong một hang động nơi nào đó. 
Bài tập 
Hãy vẽ theo số liệu cho như sau 
1. Giá-trị (value) sản lượng đầu-ra (output) của một dự án lớn khi mức tiêu thụ sản phẩm 
đầu-ra (output) đó dẫn đến ngoại tác âm. 
2. Giá-trị (value) sản lượng đầu-ra (output) của một dự án lớn khi có cung cấp độc quyền 
sản phẩm đầu-ra (output) đó. 
Đánh Giá các Sản Lượng Đầu-Ra Được Phân Phối Phi Thị Trường 
Nếu đầu-vào và đầu-ra (output) được mua và phân phối thông qua một thị trường đích