Tóm tắt: Bài viết đặt ra một số vấn đề nhằm góp thêm luận cứ để triển khai đào tạo theo
tinh thần giáo dục khai phóng tại Trường Đại học Thủ đô Hà Nội, bao gồm: 1) Tại sao
cần đặt vấn đề đào tạo theo tinh thần giáo dục khai phóng tại Trường; 2) Những rào
cản/thách thức khi tổ chức đào tạo theo tinh thần giáo dục khai phóng tại Nhà Trường;
3) Đề xuất và lựa chọn giải pháp triển khai
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 365 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo theo tinh thần giáo dục khai phóng tại trường Đại học Thủ đô Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
ĐÀO TẠO THEO TINH THẦN GIÁO DỤC KHAI PHÓNG
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Bùi Văn Quân
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
Tóm tắt: Bài viết đặt ra một số vấn đề nhằm góp thêm luận cứ để triển khai đào tạo theo
tinh thần giáo dục khai phóng tại Trường Đại học Thủ đô Hà Nội, bao gồm: 1) Tại sao
cần đặt vấn đề đào tạo theo tinh thần giáo dục khai phóng tại Trường; 2) Những rào
cản/thách thức khi tổ chức đào tạo theo tinh thần giáo dục khai phóng tại Nhà Trường;
3) Đề xuất và lựa chọn giải pháp triển khai.
Từ khóa: Giáo dục khai phóng, tổ chức đào tạo, rào cản
Nhận bài ngày 12.5.2020; gửi phản biện, chỉnh sửa, duyệt đăng ngày 25.6.2020
Liên hệ tác giả: Bùi Văn Quân; Email: bvquan@daihocthudo.edu.vn
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các mô hình cơ sở giáo dục và thực tiễn giáo dục thường là kết quả của việc triển khai
các quan điểm/triết lí giáo dục bằng các trào lưu sư phạm. Trào lưu giáo dục khai phóng ở
phương Tây phát triển khá mạnh qua các thời kì lịch sử, từ các nước có nền giáo dục
nguyên sinh ở châu Âu (Pháp, Anh, Đức,) cho đến một xứ thuộc địa đặc biệt giành độc
lập và phát triển nhanh chóng như Hoa Kì. Ở Việt Nam, trong thời kì đổi mới giáo dục đại
học (GDĐH), vào những năm 90 của Thế kỉ XX, nhiều ý tưởng đổi mới được khẳng định
qua Luật Giáo dục năm 1998, 2005 trong đó có ý tưởng về đào tạo hai giai đoạn (giáo dục
đại cương và giáo dục nghề nghiệp) trong đào tạo đại học. Chương trình đào tạo (CTĐT)
thuộc giai đoạn Giáo dục đại cương được thiết kế dựa trên tiếp cận Giáo dục khai phóng;
các trường đại học Việt Nam thực hiện đào tạo đại cương bước đầu tiếp cận mô hình
trường đại học khai phóng. Tuy nhiên, thực tiến cho thấy, giáo dục khai phóng, trường đại
học khai phóng nói chung chưa trở thành xu thế, khuynh hướng chính trong phát triển
GDĐH thế giới; giáo dục đại cương (theo tinh thần giáo dục khai phóng) có tính chất đại
trà ở Việt Nam có tuổi thọ quá ngắn ngủi. Với thực tế này, việc đặt vấn đề về đào tạo theo
tinh thần giáo dục khai phóng ở Trường Đại học Thủ đô Hà Nội chắc chắn sẽ làm nảy sinh
những hoài nghi về mục tiêu và tính khả thi của nó. Theo đó, rất cần phải đặt ra và trả lời
những câu hỏi đại loại như: 1) Tại sao cần tổ chức đào tạo hai giai đoạn theo tinh thần giáo
dục khai phóng tại Trường; 2) Triển khai đào tạo theo mô hình này sẽ gặp những rào
cản/thách thức nào? có thể vượt qua không?,
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 41/2020 7
2. NỘI DUNG
2.1. Khái lược về giáo dục khai phóng/giáo dục đại cương
Triết lí của giáo dục khai phóng được xây dựng trên bốn quan điểm/nền tảng: 1) Tính
trường tồn: Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Đặc biệt ở chỗ nó là hiện tượng xã
hội có tính vĩnh hằng; bản chất của giáo dục là vĩnh viễn và trường tồn, con người ở mọi
nơi đều giống nhau và giáo dục sẽ như nhau đối với mọi người; 2) Tính tinh túy: Giáo dục
là sự chuyển giao kinh nghiệm, tiếp nối kinh nghiệm xã hội qua các thế hệ; giáo dục phải
dựa trên một khối tinh túy liên quan đến di sản của nhân loại; 3) Tính tiến bộ: Nhờ đặc tính
tinh túy, giáo dục có tác động đến thực tiễn xã hội theo chiều hướng tích cực thông qua
việc thực hiện các chức năng xã hội của mình; 4) Tính tái cấu trúc: Giáo dục là hiện tượng
xã hội, chịu sự chế ước của xã hội những nó có tính độc lập tương đối, có khả năng diều
chỉnh, thay đổi để tồn tại, phát triển tốt hơn.
Hình thái thực thể của giáo dục khai phóng là các chương trình giáo dục. Với GDĐH
đó là CTĐT đại học, đặc biệt là chương trình giáo dục đại cương. Cũng giống như hình
thái lí thuyết của nó (giáo dục khai phóng), giáo dục đại cương có lịch sử phát triển tương
đối thăng trầm. Vào đầu và giữa thế kỉ XIX giáo dục đại cương được ca ngợi là con
đường/công cụ để rèn luyện trí tuệ, phát triển các phẩm chất đạo đức của sinh viên, cung
cấp một nền giáo dục tự do. Đây là một trong những lí do khiến cho xu hướng lựa chọn tự
do trong giáo dục đại học được đẩy mạnh ở các thập niên cuối thế kỉ XIX và hình thành
cuộc vận động mới cho giáo dục đại cương vào đầu thế kỉ XX. Sau Thế chiến thứ hai, cuộc
vận động về giáo dục đại cương có được những thu hoạch đáng kể với đóng góp của Viện
Đại học Harvard về một chương trình giáo dục đại cương cốt lõi cho CTĐT cấp đại học.
Trong những năm cuối thế kỉ XX lại hồi sinh mối quan tâm về giáo dục đại cương để cung
cấp GDĐĐ cho thế hệ trẻ trong thời buổi mà sự bê bối về đạo đức thường xuyên gây mối
lo cho cộng đồng, dân tộc ở nhiều quốc gia.
Mặc dù có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một quan niệm
thống nhất về giáo dục đại cương. Có thể nêu một số quan niệm tiêu biểu: giáo dục đại
cương là yêu cầu tiên quyết cho việc học chuyên ngành; là những điều chung nhất của văn
hóa nhân loại; là một kinh nghiệm tổng hợp dựa trên khối đồng nhất các kiến thức; là sự
chuẩn bị để tham gia vào một xã hội dân chủ; là một liều thuốc giải độc cho tình trạng dã
man vô văn hóa; là sự giáo dục bắt rễ từ mối quan tâm đến nền văn minh di sản chung; là
một nền giáo dục tự do (liberal education), GS Nguyễn Viết Khuyến mượn một định
nghĩa từ Đạo luật về Giáo dục năm 1989 của New Zealand về thuật ngữ "văn bằng đại học"
(degrees) làm rõ hơn quan niệm về CTĐT đại học, từ đó thể hiện quan điểm của mình về
giáo dục đại cương trong CTĐT đại học: “Văn bằng đại học là cái được cấp để công nhận
việc hoàn thành một chương trình học trình độ cao mà, nhấn mạnh những nguyên lí
chung và kiến thức cơ bản xem như là cơ sở để làm việc và học hành một cách chủ động".
Những nguyên lí chung và kiến thức cơ bản được nêu trong định nghĩa trên phản ánh
quan điểm của giáo dục khai phóng về nội dung học vấn cần trang bị cho người học đại
8 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
học. Học vấn đó là những gì cần phải xử lí từ các ngành khoa học và các lĩnh vực hoạt
động thực tiễn để đưa vào CTĐT. Với tư duy này, chương trình đạo tạo ở giai đoạn giáo
dục đại cương sẽ bao gồm tổ hợp các môn học mà sinh viên lựa chọn dưới sự hướng dẫn
của cố vấn học tập. Tổ hợp các môn học này được hình thành từ các ngành khoa học và
lĩnh vực hoạt động thực tiễn như: Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và lĩnh
vực nghệ thuật. Ở Việt Nam, GS. Nguyễn Ngọc Quang diễn đạt về học vấn nhà trường
theo quan điểm của giáo dục khai phóng là: Người học cần học khoa học, học nghệ thuật
và học cách/lối sống; trong và bằng quá trình tích lũy học vấn này, người học sẽ hình
thành và theo đuổi được các giá trị Chân – Thiện – Mỹ.
2.2. Tại sao cần đặt ra vấn đề về tổ chức đào tạo theo tình thần giáo dục khai phóng
tại Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
Nhìn lại mô hình đào tạo hai giai đoạn trong đào tạo đại học ở Việt Nam
Đào tạo hai giai đoạn là khái niệm được sử dụng phổ biến trong thời kì ĐMGD đại học
Việt Nam (bắt đầu từ những năm 1990). Khái niệm này có nội hàm đề cập đến cấu trúc và
tổ chức thực thi CTĐT cấp đại học của nước ta. Với những định hướng của Nghị định số
90/CP năm 1993, để thích nghi với việc chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kiến thức của CTĐT cấp đại học được cấu trúc lại,
bao gồm hai thành phần (Quyết định 2677/GD-ĐT ngày 03/12/1993 ban hành Quy định về
cấu trúc và khối lượng kiến thức tối thiểu cho các cấp đào tạo hai giai đoạn ở đại học).
- Kiến thức giáo dục đại cương bao gồm các học phần thuộc 6 lĩnh vực: Khoa học xã
hội và nhân văn, Khoa học tự nhiên và Toán học, Ngoại ngữ, Giáo dục quốc phòng và
Giáo dục thể chất. Mục tiêu của thành phần này là tạo cho người học tầm nhìn rộng, thế
giới quan và nhân sinh quan đúng đắn; hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người (trong đó
có bản thân); nắm vững phương pháp tư duy khoa học; biết trân trọng các di sản văn hoá
của dân tộc và nhân loại; có đạo đức, nhận thức trách nhiệm công dân; yêu Tổ quốc và có
năng lực tham gia bảo vệ Tổ quốc, trung thành với lí tưởng Xã hội chủ nghĩa. Kiến thức
giáo dục đại cương còn cung cấp cho người học tiềm lực vững vàng để một mặt, họ có thể
học tốt các kiến thức nghề nghiệp ở giai đoạn sau cũng như có thể cập nhật và nâng cao
nghề nghiệp suốt đời; mặt khác, khi cần thiết họ có thể đổi hướng nghề nghiệp cho phù hợp
với các biến động của thị trường lao động. Các học phần giáo dục đại cương có thể tồn tại
dưới dạng những môn học riêng biệt kiểu truyền thống hoặc dưới dạng những môn học tích
hợp từ một số ngành khoa học.
- Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp bao gồm ba bộ phận: Nhóm học phần cốt lõi (kiến
thức cơ sở của ngành hoặc liên ngành, bao gồm cả các học phần khoa học cơ bản phục vụ
cho chuyên môn, ngoại ngữ chuyên ngành và khoa học quân sự chuyên ngành; riêng đối
với các CTĐT GV còn bao gồm cả phần kiến thức về tâm lí học, giáo dục học); nhóm học
phần ngành chính và nhóm học phần ngành phụ (không nhất thiết phải có), nhằm cung cấp
cho người học những kiến thức và kĩ năng nghề nghiệp ban đầu. Tên ngành đào tạo được
xác định theo nhóm kiến thức ngành chính. Các khối kiến thức nêu trên có thể chứa các
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 41/2020 9
học phần thuộc ba loại: Học phần bắt buộc phải học, học phần tự chọn (theo hướng dẫn của
nhà trường) và học phần tuỳ ý. Riêng khối kiến thức cốt lõi chứa các học phần bắt buộc.
Với cấu trúc chương trình nêu trên, việc tổ chức thực hiện chương trình được thực
hiện theo hai giai đoạn: Giai đoạn giáo dục đại cương và giai đoạn giáo dục nghề
nghiệp/chuyên nghiệp. Sinh viên sau khi hoàn thành giai đoạn giáo dục đại cương được
tham dự kì thi (sinh viên thường gọi là thi vượt rào) để được lựa chọn học tiếp giai đoạn
giáo dục nghề nghiệp. Đào tạo hai giai đoạn trong đào tạo đại học ở nước ta có tuổi thọ
không dài. Mặc dù chưa có những tổng kết thật đầy đủ nhưng thực tế không thể phủ nhận
là đào tạo đại học hai giai đoạn đã không thành công (Chỉ thị 30/1998/CT-TTg ngày
01/9/1998 về Điều chỉnh chủ trương phân ban ở PTTH và đào tạo hai giai đoạn ở đại học đã
bỏ quy định cứng về đào tạo hai giai đoạn và kì thi chuyển giai đoạn như là một kì thi quốc
gia; Thông tư 07/2015/TT-BGDĐT ngày 16/4/2015 đã bãi bỏ Quyết định 2677/GD-ĐT ngày
03/12/1993).
Tại sao Trường Đại học Thủ đô Hà Nội lại đặt vấn đề đào tạo theo mô hình đào tạo
không thành công?
Câu hỏi nêu trên thể hiện sự hoài nghi – hoài nghi hợp lôgic về tổ chức đào tạo hai giai
đoạn của Trường. Và có lẽ, chính sự hoài nghi này đòi hỏi cần có sự cân nhắc để quyết
định: khi kết thúc Hội thảo này chúng ta sẽ tuyên bố gì với công luận và chúng ta sẽ làm gì
trên thực tế. Mặc dù chưa có những nghiên cứu mang tính hệ thống về sự cáo chung của
đào tạo hai giai đoạn trong đào tạo đại học ở Việt Nam (2015, nhưng thực tế là từ 1988)
nhưng những đóng góp tích cực của tư tưởng về đào tạo hai giai đoạn theo tinh thần giáo
dục khai phóng trong đào tạo đại học ở nước ta đã có những đóng góp tích cực. Cụ thể là:
1/ Tạo ra sự thay đổi trong tư duy về chức năng của trường đại học: Trường đại học
không thuần túy là môi trường học thuật hàn lâm mà phải gắn kết nhiều hơn nữa với cộng
đồng và thực tiễn phát triển của xã hội;
2/ Khiến cho hoạt động của trường đại học thông thoáng hơn, cởi mở hơn, làm tiền đề
cho tự chủ đại học những năm tiếp theo;
3/ Tạo bước chuyển quan trọng trong hoạt động phát triển CTĐT của các trường đại
học (trang bị lí luận và thực hành phát triển CTĐT cho nhân sự giảng dạy, quản lí đào tạo ở
các trường đại học);
4/ Thay đổi tư duy về đối tượng đào tạo (con người – sinh viên), họ là mục đích của giáo
dục nói chung, đào tạo nói riêng chứ không đơn giản chỉ là công cụ của mục tiêu đào tạo. Theo
đó, đào tạo ở đại học phải phát huy tối đa năng lực, sở thích và nguyện vọng cá nhân của sinh
viên trong lựa chọn ngành nghề đào tạo. Muốn vậy, họ cần được và phải có năng lực tư duy và
lựa chọn tự do, tính chủ động và năng lực sáng tạo (đào tạo hai giai đoạn thực hiện yêu cầu này
bằng việc trang bị cho sinh viên kiến thức nền rộng, kết hợp với các kiến thức liên ngành để có
cơ sở lựa chọn ngành và phát triển các kiến thức ngành một cách sâu sắc).
Nguyên nhân của sự không thành công trong đào tạo hai giai đoạn có thể là:
10 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
1/ Đi sớm, gây sốc: Khía cạnh tích cực của đào tạo hai giai đoạn, tính tiên phong, tiến
bộ của giáo dục khai phóng chưa thể hiện được sự ưu việt với cách nghĩ, cách làm giáo dục
tại thời điểm nó được cổ xúy, xây dựng. Vào trước những năm 90 của thế kỉ XX, vấn đề đào
tạo gắn với thị trường lao động còn ít được quan tâm; cơ chế bao cấp vẫn có những ảnh hưởng
đáng kể đối với đào tạo đại học với biểu hiện cụ thể là hoạt động nghiên cứu phát triển CTĐT rất
hạn chế. Theo đó, các trường đại học với truyền thống đào tạo của mình (ngành đào tạo truyền
thống, phương thức/phương pháp đào tạo truyền thống) sinh viên của họ vẫn có việc làm sau tốt
nghiệp. Bên cạnh đó, cơ chế tuyển dụng, sử dụng lao động vẫn cơ bản chú trọng vào trình độ đào
tạo của người lao động (dựa trên văn bằng đào tạo người lao động có được dẫn đến hội chứng
bằng cấp).
2/ Cách làm: Cách làm chưa được sự đồng thuận: (i) hình thành thêm một cơ sở đào
tạo quản lí vận hành chương trình giáo dục đại cương (hình thành đại học đại cương để
thực hiện đào tạo giai đoạn 1 cho các trường đại học, mặc dù có sử dụng nhân lực giảng
dạy của các trường đại học); (ii) sinh viên phải thi tuyển sau khi hoàn thành đào tạo giai
đoạn 1, tạo sức ép cho xã hội và sinh viên (2 lần thi đại học). Trải qua hơn 10 năm không
triển khai đào tạo theo chương trình giáo dục đại cương, đến nay, vấn đề này lại được nhắc
đến trên diễn đàn một số hội nghị/hội thảo về giáo dục đại học. Hiện có ít nhất ba trường
đại học thực hiện đào tạo theo tinh thần của giáo dục đại cương/giáo dục khai phóng (sẽ có
những trường đại học tổ chức đào tạo theo hướng này nhưng không tuyên ngôn).
Như vậy, có những điều trong quá khứ chưa hoặc không thể làm được thì nay có thể
hoặc hoàn toàn làm được. Làm được, vì bối cảnh, môi trường hiện nay khiến một số yếu tổ
là nguyên nhân của việc chưa làm được không còn đóng vai trò như trước đây; thêm nữa,
cũng chính bối cảnh và môi trường hiện nay khiến những mặt tích cực của việc chưa làm
được ở giai đoạn trước, nay được khẳng định sâu sắc hơn, thuyết phục hơn.
Với những phân tích trên, việc đặt ra vấn đề đào tạo theo tinh thần giáo dục khai
phóng ở Trường Đại học Thủ đô Hà Nội xuất phát từ những lí do sau:
1/ Xu hướng trở lại với những giá trị cốt lõi của nhân loại, đề cao tính nhân văn, tinh
thần dân chủ đã là xu hướng hiện thực trong cải cách, canh tân giáo dục của nhiều nước,
nhất là trong bối cảnh đạo đức xã hội, giá trị văn hóa dân tộc ở nhiều quốc gia được cảnh
bảo xuống cấp nghiêm trọng;
2/ Tự chủ trong giáo dục, nhất là trong giáo dục đại học khuyến khích những cách làm
sáng tạo hướng đến lợi ích của người học nhiều hơn, thực sự coi người học là mục đích của
giáo dục, đào tạo;
3/ Mối quan hệ giữa cơ sở giáo dục và cộng đồng ngày càng được gia tăng; thị trường
lao động và thế giới nghề nghiệp ngày càng biến động dẫn đến những thay đổi trong tuyển
chọn nhân lực (chú trọng năng lực thực tiễn) và đòi hỏi nhân lực phải có năng lực thay
đổi/di chuyển/thích ứng nghề nhanh và cao hơn;
4/ Hệ quả tất yếu của tự chủ có thể được xem xét ở nhiều phương diện. Về phương
diện tài chính là phải giải quyết được những bài toán kinh tế trong giáo dục. Theo đó hầu
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 41/2020 11
hết các trường đại học đều chú trọng nâng cao hiệu quả đầu tư cho các hoạt động của đơn
vị mình. Nâng cao hiệu xuất đào tạo nhờ đó nâng hiệu quả đầu tư đào tạo được quan tâm
hàng đầu;
5/ Trường Đại học Thủ đô Hà Nội là trường đại học non trẻ trong quan hệ so sánh với
phần lớn các trường đại học có trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Để đẩy nhanh tiến độ hội
nhập với GDĐH của cả nước, Nhà trường cần phải tạo được sự khác biệt trong sản phẩm
và hoạt động của mình, trong đó khác biệt về sản phẩm là quan trọng. Sự khác biệt trong
sản phẩm lại được quyết định bởi sự khác biệt về cách thức tạo ra sản phẩm. Lôgic này
giúp chúng ta lựa chọn được câu trả lời về đào tạo theo tinh thần giáo dục khai phóng của
nhà trường (bản chất và mục tiêu của đào tạo hai giai đoạn mà chúng ta đề cập là đào tạo
đại cương, là giáo dục đại cương mang đậm hơi thở của giáo dục khai phóng).
Câu trả lời đó là:
1. Trường Đại học Thủ đô Hà Nội muốn khẳng định hơn nữa vị thế của mình, muốn
có những tác động hữu ích đến hệ thống GDĐH Quốc gia bằng việc tạo hệ thống mạng
lưới cùng tham gia tuyển sinh, đào tạo trình độ đại học (trước tiên là với các trường cao
đẳng của các địa phương, khi mô hình này còn tồn tại).
2. Đào tạo hai giai đoạn không phải là cái để chúng ta hướng đến mà nó là cách mà
chúng ta lựa chọn.
2.3. Các rào cản/thách thức cần vượt qua
1) Tính pháp lí
Mọi quyết định/giải pháp chúng ta đưa ra phải có tình khả thi. Có nhiều yếu tố ràng
buộc với mỗi quyết định/giải pháp. Mức độ thỏa mãn của quyết định/giải pháp do chúng ta
đưa ra với các yếu tố này quyết định tính/mức độ tính khả thi của quyết định/giải pháp của
chúng ta. Hai yếu tố quan trọng quy định tính khả thi của quyết định/giải pháp là yếu tố
pháp lí và yếu tố quyền lực (thẩm quyền – ra quyết định, đề xuất, lựa chọn giải pháp đúng
với phạm vi quyền lực được trao).
2) Thay đổi cơ cấu nhân lực (đặc biệt là nhân lực giảng dạy) và chính sách đãi ngộ với
nhân lực của Nhà trường trong chương trình và quá trình đào tạo. Bài toán nâng cao hiệu
xuất đào tạo nhờ đó nâng hiệu quả đầu tư đào tạo có lời giải tập trung nhiều vào giai đoạn
giáo dục đại cương. Cụ thể:
(i) Mô hình lớp học đông sinh viên được sử dụng rộng rãi; giáo dục số (trước hết là
đào tạo trực tuyến) sẽ phát triển;
(ii) Tự chủ phát triển nghề nghiệp (mấu chốt là tự chủ về chuyên môn của giảng viên)
sẽ được đề cao.
Rõ ràng, hai mệnh đề phản ánh tính quy luật đã xuất hiện và chi phối công tác nhân
lực của Nhà trường: Một là, giáo dục là một sự sàng lọc; Hai là, thích ứng là một cơ chế
của tồn tại và đào thải.
12 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
3) Năng lực đáp ứng của Nhà trường về các điều kiện đảm bảo chất lượng:
Thực thi đào tạo hai giai đoạn đòi hỏi những điều kiện nhất định: (i) đội ngũ (nhất là
đội ngũ giáo viên) và năng lực thực hiện; (ii) cơ sở vật chất sư phạm (giảng đường, phòng
học đa năng, học liệu của đào tạo trực tuyến,); (iii) hệ thống quản lí chất lượng (mô hình
quản lí chất lượng được lựa chọn và vận hành mô hình đó); (iv) năng lực quản lí điều hành,
nhất là khi có được mạng lưới các trường cao đẳng địa phương tham gia vào quá trình đào
tạo.
2.4. Cách làm của chúng ta
Định hướng
1. Cần đến sự khôn khéo để có thể theo đuổi được mục tiêu. Rõ ràng sự tuyên bố về
thực hiện giáo dục đại cương, về đào tạo hai giai đoạn là không khôn ngoan trong bối cảnh
hiện nay. Tuy nhiên, không tuyên bố không có nghĩa là không làm. Một cách khôn khéo là
vẫn làm những không để bị thổi còi vì dẫm vạch. Muốn vậy, cần suy nghĩ kĩ hơn về một
tuyên ngôn với công luận.
2. Không cầu toàn. Không hy vọng một CTĐT trọn vẹn cho mỗi ngành đào tạo. Vừa
làm vừa vừa điều chỉnh; làm trước hoàn thiện sau.
3. Đương đầu với cái khó, quyết tâm vượt rào cản.
Giải pháp
1. Tìm kiếm điểm tựa pháp lí. Xây dựng dự/đề án “Phát triển CTĐT trình độ đại
học theo định hướng giáo dục khai phóng tại Trường Đại học Thủ đô Hà Nội”.
2. Tìm kiếm điểm tựa kĩ thuật. Phát triển CTĐT trình độ đại học theo định hướng giáo
dục khai phóng tại Trường Đại học Thủ đô Hà Nội được thực hiện theo khung lí thuyết:
Giáo dục cơ bản, hướng nghiệp và giáo dục chuyên nghiệp/nghề nghiệp.
- Giai đoạn giáo dục cơ bản, hướng nghiệp với thời lượng không quá 1,5 năm đào tạo
nhằm thực hiện mục tiêu giúp sinh viên có kiến thức nền rộng, kiến thức nhóm ngành hữu
ích làm điểm tựa cho phát triển giá trị sống, giá trị nghề nghiệp, năng lực sáng tạo, thích
ứng cao, có nhiều điều kiện thuận lợi để học tập chuyên sâu, hình thành, phát triển