Tóm tắt: Bài viết Đề cập đến các khái niệm liên quan đến quản trị
tri thức số và vấn đề quản lý chất lượng nguồn tri thức được tạo mới
trong chu trình quản trị tri thức số. Phân tích các yếu tố có tác động
tích cực và tiêu cực tới vấn đề đạo văn và kiểm soát đạo văn trong
môi trường tri thức số. Đưa ra một số giải pháp tăng cường hiệu quả
công tác kiểm soát đạo văn trong môi trường tri thức số tại Việt Nam.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 59 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đạo văn trong quản trị tri thức số tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM
Đào Mạnh Hiếu*1 - Trần Xuân Bản**
Tóm tắt: Bài viết Đề cập đến các khái niệm liên quan đến quản trị
tri thức số và vấn đề quản lý chất lượng nguồn tri thức được tạo mới
trong chu trình quản trị tri thức số. Phân tích các yếu tố có tác động
tích cực và tiêu cực tới vấn đề đạo văn và kiểm soát đạo văn trong
môi trường tri thức số. Đưa ra một số giải pháp tăng cường hiệu quả
công tác kiểm soát đạo văn trong môi trường tri thức số tại Việt Nam.
Từ khóa: Quản trị tri thức; Tri thức số; Đạo văn; Việt Nam.
1. KHÁI NIỆM QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ, CHU TRÌNH QUẢN TRỊ TRI THỨC VÀ VẤN ĐỀ
QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG NGUỒN TRI THỨC ĐƯỢC TẠO MỚI
1.1. Khái niệm "quản trị tri thức số"
Quản trị tri thức số: “Là quản trị tri thức nổi được thể hiện ở dạng
số: sách số, báo số, văn bản số, âm thanh số, video số, các loại hình
dữ liệu - thông tin đa phương tiện Multimedia Việc quản trị này
được thực hiện với mục đích phục vụ cho quốc gia, chính phủ, doanh
nghiệp, giáo dục, thư viện, xã hội, cá nhân và ở mọi loại hình (dữ liệu
số, thông tin số, tri thức số)” (Nguyễn Hoàng Sơn, 2019).
Theo lý thuyết của quản trị tri thức, quản trị tri thức cũng như
quản trị tri thức số phát triển các hệ thống và các quá trình nhằm mục
đích bổ sung và chia sẻ các tài sản trí tuệ. Nó làm tăng giá trị của các
* Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
** Thạc sĩ, Thư viện – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
239
ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM
thông tin hữu ích, năng động và có ý nghĩa. Thêm vào đó, nó làm tối
đa hóa giá trị nền tảng trí tuệ của một tổ chức thông qua nhiều chức
năng khác nhau (Rigby, 2009). Mà các chức năng cơ bản đó của quản
trị tri thức bao gồm: “Sản sinh ra tri thức mới, truy nhập tới các thông
tin có giá trị từ các nguồn bên ngoài, sử dụng các tri thức có thể tiếp
cận được trong việc ra quyết định, gắn tri thức vào các quá trình, sản
phẩm và/ hoặc dịch vụ, thể hiện thông tin trong các tài liệu, cơ sở dữ
liệu và trong các phần mềm, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của tri thức thông qua văn hóa và sự khích lệ, truyền tri thức vào trong
từng bộ phận của tổ chức, định giá trị tài sản tri thức và tác động của tri
thức” (Ruggles và Holtshouse, 1999).
1.2. Chu trình quản trị tri thức và vấn đề quản lý chất lượng nguồn tri thức được tạo mới
Trên cơ sở nghiên cứu, xác định các chức năng cơ bản của quản trị
tri thức, nhiều nhà khoa học đã xây dựng chu trình của quản trị tri thức
bao gồm các quá trình khác nhau như chu trình quản trị tri thức của
Zack, Meyer, Williams, Bukowitz, McElroy, Wigg,... trong đó chu trình
quản trị tri thức của Wigg được bàn đến nhiều nhất.
Chu trình quản trị tri thức của Wigg (Dalkir, 2013)
Theo chu trình của Wigg, quản trị tri thức bao gồm các quá trình: Xây
dựng/ tạo ra tri thức, nắm bắt tri thức, tập hợp tri thức và sử dụng tri thức.
240
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
Đối với quá trình đầu tiên của chu trình tri thức, ta có thể nhận
thấy rằng việc tạo ra, sản sinh ra tri thức có sự tham gia của các cá nhân,
nhiều tổ chức khác nhau như cơ quan về giáo dục, khoa học, xuất bản,
doanh nghiệp, và đây là khâu quan trọng bởi nó là khâu tạo yếu tố
đầu vào và chất lượng của nguồn tri thức quyết định đến hiệu quả hoạt
động của cả chu trình.
Vì vậy, kiểm soát chất lượng của nguồn tri thức mới được sản sinh
cũng là một nhiệm vụ quan trọng được đặt ra đối với các nhà quản trị
tri thức, quản trị tri thức số.
Xem xét về tính khoa học, tính đúng đắn của nguồn tri thức được
tạo ra, đây là nhiệm vụ đã được giải quyết, được nghiên cứu rất nhiều
bởi các nhà khoa học, các nhà giáo dục. Trong nội dung của bài viết
này, chúng tôi xin được bàn đến một khía cạnh khác trong quản lý chất
lượng của nguồn tri thức đó là kiểm soát đạo văn.
Đạo văn là một hiện tượng phổ biến và là một vấn nạn đặc biệt
nghiêm trọng đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học, giáo dục và
đào tạo. Trên thế giới, đạo văn bị các nhà khoa học kịch liệt phê phán
bởi nó thể hiện tính không trung thực, không liên minh trong nghiên
cứu. Trong quản trị tri thức và đặc biệt là quản trị tri thức số, kiểm soát
đạo văn cũng là một vấn đề được bàn nhiều trong những năm gần đây
bởi một nguồn tri thức mang tính khoa học, tính đúng đắn mà vi phạm
lỗi đạo văn thì cũng trở thành vô giá trị.
2. KHÁI NIỆM ĐẠO VĂN
2.1. Khái niệm "đạo văn"
Đạo văn là gì?
Khái niệm "đạo văn" được nhiều nhà khoa học bàn luận và đưa
ra định nghĩa theo các quan điểm khác nhau. Theo Bách khoa thư
Britannica: “Đạo văn là hành động lấy các tác phẩm của người khác
và chuyển chúng thành một bản như là của riêng mình. Hành vi gian
lận đó có liên quan chặt chẽ đến các hành vi giả mạo và vi phạm bản
quyền, nói chung là vi phạm luật bản quyền”. Sox (2012) cho rằng:
241
ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM
“Hành động đạo văn liên quan đến việc đánh cắp tác phẩm của người
khác và sau đó làm sai lệch ý nghĩa của nó”.
Một cách đầy đủ hơn Gert Helgesson và Stefan Eriksson (2015)
đưa ra định nghĩa về đạo văn với hai khía cạnh đó là chiếm đoạt tác
phẩm của người khác biến nó thành của mình mà không đưa ra những
trích dẫn rõ ràng.
Ngoài khái niệm "đạo văn", một số nhà khoa học còn đưa ra khái
niệm "tự đạo văn". Khái niệm này được xuất hiện từ những năm đầu
thập niên thứ hai của thế kỷ thứ XXI khi mà hệ thống phát hiện đạo
văn như Turnitin và SafeAssign trở nên phổ biến ở các trường đại học
và cao đẳng (Halupa, Breitenbach and Anast, 2016). Theo đó, tự đạo
văn được xem xét như là một trường hợp đặc biệt của đạo văn, khi
một ai đó đăng tải các sản phẩm mà có nội dung giống như lần công
bố trước đó hoặc về cơ bản có nội dung gần giống (Jones et al., 2005).
Như vậy, từ những quan điểm trên, ta có thể khái quát khái niệm
"đạo văn" như sau: “Đạo văn là việc chiếm đoạt tác phẩm của người
khác thành của riêng mình hoặc sao chép một phần tác phẩm của
người khác mà không có những trích dẫn rõ ràng. Đạo văn cũng có
thể tính đến khi một người sử dụng tác phẩm đã công bố trước đó của
chính mình, hoặc một phần của tác phẩm, để đưa vào tác phẩm mới,
đó là sự tự đạo văn”.
Trong môi trường trường đại học, đạo văn là một vấn đề cần được
xem xét một cách nghiêm túc hơn. Trong quá trình học tập của mình,
sinh viên (đối tượng người học đông đảo của các trường đại học) chịu
sự áp lực từ nhiều phía như gia đình, bạn bè, người hướng dẫn, để
cạnh tranh cho các suất học bổng, sự khẳng định mình và đương nhiên
là các vị trí công việc tốt trong xã hội. Họ thường coi bằng cấp là một
nấc thang quan trọng để đưa đến sự thành công, và không phải lúc
nào cũng là một quá trình tích cực. Bởi vậy, họ thường hướng đến kết
quả cuối cùng trong các bài tập, tiểu luận, khóa luận của mình hơn là
kỹ năng (Turnitin.com and Research Resources, 2017). Hệ quả là, hiện
tượng đạo văn trở nên phổ biến đối với trường đại học. Chú trọng đến
242
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
kết quả, không quan tâm tới kỹ năng dẫn đến việc ảnh hưởng đến chất
lượng đầu ra của quá trình đào tạo của các trường đại học.
2.2. Ảnh hưởng của các yếu tố công nghệ đến việc kiểm soát đạo văn
Bàn về các nhân tố ảnh hưởng đến việc kiểm soát đạo văn, các nhà
khoa học đưa ra các nhân tố khác nhau trong đó bao gồm cả các nhân
tố mang tính chất tích cực (giúp kiểm soát tốt tình trạng đạo văn) và
nhân tố mang tính chất tiêu cực (làm gia tăng tình trạng đạo văn). Các
nhóm nhân tố đó bao gồm: chính sách nội bộ, năng lực học thuật, các
nhân tố mang tính chất cộng đồng, nhóm nhân tố thuộc về cá nhân và
nhóm nhân tố thuộc về công nghệ (Husain, Al-Shaibani, Mahfoodh,
2017). Trong đó nhóm yếu tố công nghệ được bàn đến chủ yếu là
nguồn truy cập mở và hệ thống phần mềm chống đạo văn (Ocholla D.
and Ocholla L., 2016).
3. VẤN ĐỀ ĐẠO VĂN TRONG MÔI TRƯỜNG TRI THỨC SỐ
Trong môi trường tri thức số, quản trị tri thức số, khi mà khối lượng
tri thức khổng lồ được sản sinh ra, được cập nhật từng ngày, từng giờ
cùng với những đặc trưng cơ bản vốn có của nó, đó là khả năng chia
sẻ, khả năng truy nhập, con người có được cơ hội tiếp cận với nguồn
tri thức đó một cách dễ dàng và nhanh chóng để khai thác, sử dụng,
tham khảo, áp dụng vào thực tiễn hoặc tạo ra các nguồn tri thức mới.
Tuy nhiên, điều đó vừa tạo ra thách thức, đồng thời tạo ra cơ hội cho
việc kiểm soát vấn nạn đạo văn trong công tác quản trị tri thức số, quản
lý chất lượng nguồn tri thức mới được tạo ra.
3.1. Vấn nạn đạo văn gia tăng nhanh chóng trong môi trường tri thức số
Ngày nay, với việc sử dụng các máy tìm tin (search engines) phổ
biến Google, Yahoo, mỗi cá nhân đều có thể tìm được các thông tin
mà mình cần một cách nhanh chóng, cùng với đó là sự phát triển lớn
mạnh của hệ thống các nguồn truy cập mở. Vì thế, thông tin có thể
được chia sẻ, được tham khảo một cách dễ dàng, và đương nhiên,
hành vi đạo văn cũng trở nên dễ dàng hơn. Brandt (2010) khẳng định:
“Trong tất cả các trường hợp xâm phạm bản quyền trong lĩnh vực khoa
243
ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM
học, giáo dục những năm gần đây, các đoạn văn bản bị đạo văn có thể
hoàn toàn tìm thấy trên mạng Internet”.
Mức độ vi phạm lỗi đạo văn thô bạo nhất phải kể đến là đạo
văn kiểu “copy-paste” (sao chép-dán) và mức độ vi phạm này khá
phổ biến đối với đối tượng là học sinh, sinh viên với việc thực hiện
các bài tập lớn, bài luận, Một nghiên cứu của DeBell và Chapman
(2001) đã chỉ ra rằng, có đến 72% sinh viên sử dụng mạng Internet
cho việc làm bài tập. Thực tế là sinh viên thiếu các kiến thức cơ bản
về các phương pháp tìm kiếm của thư viện. Việc sử dụng các công
cụ truyền thống của thư viện đã bị chối bỏ do các máy tìm tin tựa
Web, như Google. Việc sử dụng các máy tìm tin này giúp sinh viên
có thể tiếp cận tới hàng triệu các nguồn thông tin cần thiết chỉ với
một cái cái “click” chuột.
Một đặc trưng cơ bản của thông tin số, tri thức số đó là khả năng
truy nhập, thông tin có thể bị biến đổi, hoặc sao chép dễ dàng, chính vì
vậy nạn đạo văn dạng “copy-paste” cũng trở nên khá phổ biến. Theo
một nghiên cứu của Sisti (2007), có 35% sinh viên khẳng định rằng có
vi phạm lỗi đạo văn dạng này, có nghĩa là họ sao chép nguyên cả đoạn
văn bản rồi dán vào trong bài tập của mình mà không đưa ra các thông
tin và nguồn được trích dẫn.
Một dạng đạo văn khác ở mức ít thô bạo hơn nhưng cũng là
việc làm đáng lên án trong nghiên cứu khoa học, đó là đạo văn ý
tưởng. Theo Helgesson và Eriksson (2014), nếu một ai đó sử dụng
ý tưởng của người khác và thể hiện rằng đó là ý tưởng của mình
thì người đó đã vi phạm lỗi đạo văn. Loại đạo văn này thường khó
phát hiện hơn do không phải lúc nào ý tưởng cũng được thể hiện ở
dạng văn bản.
Trong môi trường tri thức số, loại đạo văn này cũng trở nên phổ
biến hơn bởi mỗi cá nhân có thể tiếp cận tới các nguồn tin, tham khảo
một cách nhanh chóng và lấy cắp ý tưởng của người khác một cách dễ
dàng rồi sau đó trình bày bằng văn phong của mình, biến ý tưởng đã
lấy cắp thành ý tưởng của mình.
244
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
3.2. Cơ hội của các nhà quản lý trong việc kiểm soát đạo văn trong môi trường tri thức số
Đối với quản trị tri thức truyền thống, việc phát hiện đạo văn trở
thành một vấn đề khó khăn bởi những giới hạn về không gian và thời
gian trong việc chia sẻ, lưu trữ và truy nhập thông tin. Có những trường
hợp kiện tụng liên quan đến đạo văn chỉ được đề cập đến sau một
khoảng thời gian dài khi các tác phẩm được công bố. Tuy nhiên, với tri
thức số, vấn đề này lại được giải quyết một cách dễ dàng. Với khả năng
chia sẻ nhanh chóng, không bị giới hạn bởi không gian địa lý, thông qua
mạng Internet, tri thức mới được sản sinh có thể được tiếp cận ngay lập
tức sau khi công bố, bởi số lượng lớn các thành viên trong cộng đồng. Từ
đó thông tin được tái sử dụng đồng thời cũng được phản biện và từ đó
các trường hợp vi phạm lỗi đạo văn có thể được phát hiện.
Đối với vấn đề này, các nguồn thông tin truy cập mở đóng một
vai trò hết sức quan trọng. Các nguồn này được phổ biến trên mạng
Internet, được truy cập thông qua các máy tìm tin (Search Engines), từ
đó ai cũng có thể đọc được và phát hiện ra các việc đạo văn.
Ở mức độ cao hơn, chuyên nghiệp hơn, môi trường tri thức số
giúp các nhà quản lý có thể phát triển các hệ thống chống đạo văn với
phương thức kiểm tra trùng lặp một cách tự động đem lại hiệu quả cao,
chính xác và nhanh chóng. Các phần mềm chống đạo văn này được
Purdy (2005) giải thích rằng: “Đó là các dịch vụ phát hiện đạo văn dựa
trên mạng Internet cho phép người hướng dẫn (giáo viên) tìm ra các
bằng chứng trực quan để kiểm tra bài viết của sinh viên, xác định xem
nó có bao gồm các đoạn văn được sao chép trực tiếp từ các nguồn khác
hay không”. Hệ thống phát hiện đạo văn hoạt động trên cơ sở đối
chiếu tài liệu đang cần được xem xét với các nguồn dữ liệu đối chiếu
nội bộ (bao gồm các dữ liệu được các đơn vị sử dụng tải lên hệ thống,
các nguồn mua từ các xuất bản) và các nguồn truy cập mở khác mà có
thể tìm và khai thác được thông qua các máy tìm tin. Như vậy có thể
thấy hiệu quả hoạt động của hệ thống chống đạo văn ngoài việc phụ
thuộc vào tính năng, khả năng tùy biến của phần mềm thì nguồn dữ
liệu đối chiếu là yếu tố hết sức quan trọng. Bên cạnh quy mô của nguồn
dữ liệu đối chiếu nội bộ là sự gia tăng của các các nguồn truy cập mở.
245
ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều phần mềm chống đạo văn khác
nhau được các nhà xuất bản, các công ty phần mềm, các đơn vị đào tạo,
đơn vị nghiên cứu khoa học phát triển. Ngoài tính năng kiểm tra trùng
lặp, phát hiện đạo văn, các phần mềm này có thể được phát triển kèm
theo các tính năng phụ khác như kiểm tra ngữ pháp, đánh giá, cho điểm
bài luận, tạo lớp ảo, Các phần mềm này có thể mang tính thương mại
hoặc sử dụng miễn phí. Các phần mềm được sử dụng nhiều phải kể
đến như các hệ thống kiểm tra tiếng Anh: Turnitin, WordCheck, EVE2,
WcopyFind hoặc các hệ thống kiểm tra ngôn ngữ Slavơ: AdvegoPlagitus,
Double Conten Finder, Praide Unique Content Analyser 2.
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, một số trường đại học
đã có nhiều nỗ lực phát triển các phần mềm chống đạo văn cho riêng
mình hoặc với tham vọng phát triển một hệ thống đạo văn mang
thương hiệu Việt, dùng chung cho việc kiểm soát đạo văn đối với các
sản phẩm học thuật tại Việt Nam như: hệ thống phát hiện đạo văn của
Đại học Cần Thơ (2014), phần mềm chống đạo văn của Đại học Quốc
gia Hà Nội, DoIT (2016), hệ thống phát hiện đạo văn CopyChecker
(2018) của Đại học Bách khoa Hà Nội. Một số trường mua các phần
mềm của nước ngoài trong đó sử dụng nhiều là Turnitin và Ithenticate.
Dù là phần mềm nước ngoài hay phần mềm nội địa, các phần
mềm chống đạo văn đã thực sự mang lại những hiệu quả rõ rệt trong
việc kiểm soát đạo văn đối với các sản phẩm học thuật, các tri thức mới
được sản sinh trong môi trường tri thức số ở Việt Nam.
4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ
TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM
4.1. Phát triển các hệ thống chống đạo văn trong môi trường tri thức số ở Việt Nam
Như đã bàn ở trên, phương pháp kiểm soát đạo văn được các
trường hướng tới đó là: tự phát triển các hệ thống kiểm tra đạo văn và
sử dụng các phần mềm chống đạo văn mang tính thương mại.
Với hướng thứ nhất, các trường đã phát triển được những phần
mềm với những tính năng cơ bản nhất giúp giải quyết nhiệm vụ kiểm
246
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
soát đạo văn đối với các sản phẩm học thuật sản sinh ra từ hoạt động
đào tạo và nghiên cứu khoa học của đơn vị mình. Tuy nhiên, vì “đi một
mình” nên các phần mềm đó vẫn còn những hạn chế, đặc biệt là nguồn
dữ liệu đối chiếu nội bộ ít ỏi, chưa đối chiếu được với các nguồn nội
sinh của các đơn vị khác cũng như chưa bổ sung được các dữ liệu từ các
nhà xuất bản, đặc biệt là các dữ liệu đối chiếu bằng tiếng Việt, chính vì
vậy hiệu quả chưa thực sự cao.
Với hướng thứ hai, phần mềm được phát triển lâu năm nên các
tính năng được hoàn thiện hơn, nguồn dữ liệu đối chiếu lớn hơn do có
nhiều đơn vị dùng và tải dữ liệu nội bộ lên hệ thống. Tuy nhiên, nhiều
đơn vị sử dụng vẫn còn e dè trong việc tải dữ liệu nội bộ lên do còn
băn khoăn về vấn đề bản quyền, lo sợ dữ liệu sẽ bị lấy cắp, một vấn đề
khác là nguồn dữ liệu đối chiếu bằng tiếng Anh rất lớn nhưng nguồn
dữ liệu tiếng Việt lại rất hạn chế.
Như vậy, để có thể phát triển hệ thống chống đạo văn cho môi
trường tri thức số ở Việt Nam thì cần phải có sự chung tay của nhiều tổ
chức khác nhau, nhiều cơ quan xuất bản, phát hành, cơ quan nghiên
cứu khoa học và các trường đại học, cao đẳng,... Các đơn vị cùng nhau
phát triển một hệ thống kiểm soát đạo văn thuần Việt, ngoài các tính
năng cơ bản về kiểm tra trùng lặp, các vấn đề về bản quyền, quyền tác
giả phải được đảm bảo, tạo niềm tin cho các đơn vị để họ cùng tham
gia vào việc xây dựng nguồn dữ liệu đối chiếu tiếng Việt phong phú.
4.2. Tăng cường phát triển các nguồn tiếng Việt truy cập mở
Nguồn truy cập mở có ý nghĩa hết sức quan trọng trong chu trình
quản trị thông tin số, nó giúp các nhà khoa học có thể tham khảo,
nghiên cứu để tạo ra nguồn tri thức mới mà không phải trả phí; đồng
thời, nguồn truy cập mở đóng vai trò quan trọng trong công tác kiểm
soát đạo văn, đặc biệt là đối với các hệ thống kiểm tra đạo văn tự động.
Chính vì vậy, để công tác kiểm soát đạo văn đạt hiệu quả cao hơn, các
nguồn truy cập mở này cần phải được phát triển mạnh hơn.
Ở Việt Nam, nguồn truy cập mở vẫn chưa được quan tâm đúng
mức, các đơn vị đào tạo, nghiên cứu khoa học trong khi xây dựng các
247
ĐẠO VĂN TRONG QUẢN TRỊ TRI THỨC SỐ TẠI VIỆT NAM
cơ sở dữ liệu nội sinh mới chỉ dừng ở mức cung cấp các nguồn đó cho
các thành viên trong đơn vị mình, không công bố ra bên ngoài.
Trong những năm gần đây, khái niệm nguồn tài nguyên giáo
dục mở được bàn đến nhiều hơn, rất nhiều hội thảo, nhiều nghiên
cứu, nhiều chương trình về chủ đề này đã được triển khai. Năm 2008,
Chương trình Tài nguyên Giáo dục Mở Việt Nam đã thiết lập trang Web
VOER – www.voer.edu.vn, với mục tiêu: “xây dựng kho tài nguyên
giáo dục mở cho người Việt Nam sử dụng và truy cập miễn phí nguồn
tài liệu hữu ích, phục vụ việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu, cũng
như phục vụ cho toàn xã hội”. (Chu Ngọc Quế Chi, 2019). Chương
trình đã nhận được sự ủng hộ và tham gia của các trường đại học, các
học giả trong và ngoài nước và đã xây dựng được nguồn học liệu có giá
trị. Tuy nhiên, qua hơn 10 năm triển khai, nguồn học liệu này vẫn còn
ở con số hạn chế với hơn 22.000 tên tài liệu.
Vấn đề nhận thức về trách nhiệm đối với cộng đồng trong việc
xây dựng nguồn tài nguyên giáo dục mở theo mục tiêu mà Chương
trình Giáo dục Mở Việt Nam đặt ra cùng với việc nhận thức về vai trò
của nguồn truy cập mở đối với công tác kiểm soát đạo văn cần được
các trường, đơn vị đào tạo, các cơ quan nghiên cứu khoa học, xuất bản,
phát hành đặc biệt quan tâm. Từ đó tham gia một cách có trách nhiệm
và xây dựng nguồn tài nguyên tiếng Việt truy cập mở phong phú hơn.
4.3. Tăng cường vai trò của Chính phủ, các bộ ngành trong công tác kiểm soát đạo văn
Để công tác kiểm soát đạo văn thực sự đạt hiệu quả cần phải có
sự chỉ đạo của Chính phủ, sự phối hợp của các bộ ngành liên quan
(Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Thông tin và
Truyền thông) xây dựng các đề án, các chương trình mang tính quốc
gia để giải quyết vấn đề này.
Trước hết, cần xây dựng được một hệ thống chống đạo văn cho môi
trường tri thức số Việt hóa mang tính Quốc gia. Đầu tư kinh phí, giao
cho một hoặc một số đơn vị việc phát triển phần mềm dùng chung với
đầy đủ các tính năng theo yêu cầu và đảm bảo vấn đề về bản quyền.
Khuyến kh