"Đây đi đây đây!”: Vai trò của trật tự từ đối với việc giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài

Tóm tắt: Bài viết xem xét vai trò của trật tự từ trong câu tiếng Việt. Sự thay đổi trật tự từ được xem như là phương thức ngữ pháp để biểu thị một số loại ý nghĩa và chức năng ngữ pháp. Bằng cách nêu ra và phân tích một số ví dụ tiêu biểu, bài viết chứng minh rằng người nước ngoài muốn học tốt tiếng Việt thì phải có hiểu biết sâu về vai trò của trật tự từ trong tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập điển hình.

pdf5 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 279 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu "Đây đi đây đây!”: Vai trò của trật tự từ đối với việc giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 429 "ĐÂY ĐI ĐÂY ĐÂY!”: VAI TRÒ CỦA TRẬT TỰ TỪ ĐỐI VỚI VIỆC GIẢNG DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Nguyn Văn Hip Viện Ngôn ngữ học Tóm t t: Bài viết xem xét vai trò của trật tự từ trong câu tiếng Việt. Sự thay đổi trật tự từ được xem như là phương thức ngữ pháp để biểu thị một số loại ý nghĩa và chức năng ngữ pháp. Bằng cách nêu ra và phân tích một số ví dụ tiêu biểu, bài viết chứng minh rằng người nước ngoài muốn học tốt tiếng Việt thì phải có hiểu biết sâu về vai trò của trật tự từ trong tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập điển hình. Abstract: The paper deals with the role of word order in sentences of Vietnamese. The change of word order is considered as the grammatical device in expressing some kinds of grammatical meaning and function. By using some funny examples, the author has proved that the acquisition of Vietnamese as a second language must be based on deep knowledge of the role of word order in Vietnamese, an typical isolating language. 1. Dẫn nhập Nguyên lí về tính hình tuyến của ngôn ngữ dẫn đến hệ luận là trong ngôn ngữ tự nhiên, sự thay đổi trật tự cũng là sự thay đổi hình thức biểu đạt, vì thế tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều sử dụng sự thay đổi trật tự như một như một phương thức biểu đạt, nghĩa là sự thay đổi trật tự sẽ dẫn đến những thay đổi về nghĩa (meaning) và chức năng (function) của đơn vị. Vấn đề chỉ là mức độ dùng phương thức này ở các ngôn ngữ khác nhau là khác nhau. Về phương diện loại hình học, tiếng Việt được xếp vào loại hình các ngôn ngữ đơn lập, phân tích tính. Đối với các ngôn ngữ phân tích tính thì trật tự từ đóng một vai trò cực kì quan trọng. Trong giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, học viên rất thích thú khi giảng viên yêu cầu họ thử tìm cách thay đổi trật tự các từ “sao”, “bảo”, “nó”, “không”, “đến” bởi số lượng các câu có thể được tạo ra là rất lớn, có đến vài chục. Chẳng hạn: Sao bảo nó không đến? Sao nó bảo không đến? Nó bảo sao không đến. Không sao bảo nó đến. Nó đến bảo không sao. Không đến, nó bảo sao? Đến nó, sao không bảo? v.v.. Một cách khái quát nhất, có thể lập thức rằng trong tiếng Việt sự thay đổi trật tự của từ sẽ dẫn đến sự thay đổi về nghĩa và chức năng. Chẳng hạn, cùng một từ “đây” nhưng sự khác nhau về trong câu sẽ dẫn đến những sự khác biệt về nghĩa và chức năng của nó, như có thể thấy ở câu: “Đây (1) đi đây (2) đây (3)!” Trong câu này, đây (1) là đại từ chỉ ngôi thứ nhất, làm chủ chủ của câu, biểu thị người thực hiện hành động; đây (2) là đại từ phiếm chỉ về địa điểm, làm bổ ngữ của câu; còn đây (3) là tiểu từ tình thái cuối câu, làm tình thái ngữ của câu (về khái niệm này, xin xem Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp 1998, Nguyễn Văn Hiệp 2009), có chức năng đánh dấu một hành động sắp được thực hiện. Trong bài này, chúng tôi sẽ khái quát vai trò của trật tự từ trong tiếng Việt như một phương thức biểu đạt và ứng dụng vào việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Vì bài viết hướng đến phục vụ cho việc giảng dạy tiếng Việt có tính thực hành nên chúng tôi không đặt ra vấn đề phân biệt đồng âm hay đa nghĩa khi miêu tả các hiện tượng có liên quan đến sự thay đổi trật tự từ trong câu và trong các tổ hợp. Bất luận giải thuyết hiện tượng là đồng âm hay đa nghĩa thì thực tế mà người nước ngoài học tiếng Việt bắt gặp đều như nhau, đó là: (i) có một sự khác biệt về trật tự; và (ii) có một sự khác biệt về nghĩa và về chức năng. Ti u ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài 430 2. Vai trò của trật tự từ trong tiếng Việt 2.1. Thay đổi trật tự từ là thay đổi chức năng ngữ pháp và nghĩa biểu hiện Chức năng ngữ pháp hiểu theo theo ngữ pháp truyền thống, là chức năng làm các thành phần câu như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ v.v. Nghĩa biểu hiện được là vai nghĩa (semantic role), tức vai trò mà từ ngữ tham gia cấu tạo nên sự tình (state of affairs) của câu. Ở bậc câu, sự thay đổi trật tự kéo theo sự thay đổi chức năng ngữ pháp và nghĩa biểu hiện là sự thay đổi rất dễ nhận biết. Chẳng hạn, so sánh: (1) Tôi (1) đánh nó (2) Nó đánh tôi (2) Trong câu (1), “tôi” là chủ ngữ (subject), chỉ tác thể (agent) của hành động. Trong cấu (2), “tôi” là bổ ngữ (object), chỉ bị thể (patient) hay đối tượng của hành động. Sự thay đổi trật tự còn phục vụ cho quá trình “chủ đề hóa” (topicalization), tạo nên thành phần được gọi là “khởi ngữ” của câu (Nguyễn Kim Thản 1964, Nguyễn Văn Hiệp 2009). Ví dụ: (3) Ông ấy không hút thuốc. →Thuốc, ông ấy không hút Ø. (4) Bà ấy có hàng dãy nhà ở phố, hàng mẫu ruộng ở quê. → Nhà, bà ấy có hàng dãy Ø ở phố; ruộng, bà ấy có hàng mẫu Ø ở quê. 2.2. Thay đổi trật tự làm thay đổi nội dung ngữ nghĩa của từ trong tổ hợp 2.2.1. Thay đổi trật tự có liên quan ý nghĩa tình thái và ý nghĩa về thời, thể Ví dụ, ta có từ “được” với các ý nghĩa khác nhau trong các câu sau: (5) Nó được nhà, được vợ. (6) Anh ấy được đi chơi. (7) Quả này ăn được, không chết. (8) Hôm qua, chị ấy mua được cái áo rất đẹp. (9) Làm thế là được. (10) Cô ấy được thầy khen. Mặc dù các nhà nghiên cứu còn có thể tranh luận, nhưng có thể cho rằng: Trong (5), “được” là một vị từ chỉ sự thụ đắc, chiếm hữu; trong (6) “được” là vị từ tình thái, chỉ sự “cho phép”, thuộc tình thái đạo nghĩa (deontic modality); trong (7), “được” là vị từ tình thái, chỉ “khả năng”, thuộc tình thái nhận thức (epistemic modality); trong (8), “được” là phó từ chỉ thể kết quả; trong (9), “được” là một vị từ đánh giá; trong (10), “được” có thể xem là hư từ dùng để cấu tạo câu bị động (passive). Sự thay đổi này có thể rất tinh tế, khó hiểu đối với người nước ngoài. Chẳng hạn, từ “lại” thể hiện nội dung khác nhau khi đứng trước vị từ và đứng sau vị từ, ví dụ: (11) Nó lại học. ≠ (12) Nó học lại. Trong “Nó lại học”, bên cạnh ý nghĩa về thể tái diễn, có tính khách quan, “lại” còn có nội dung biểu thị một sự đánh giá chủ quan của người nói (một loại tình thái, thuộc “lập trường” của người nói): người nói cho rằng việc học của nó là không mong muốn, là tiêu cực. Đây là nghĩa của “lại” khi đứng trước vị từ nói chung, ví dụ: Nó lại hỏi mượn tiền; Nó lại đánh vợ; Nó lại hút thuốc Có khi, ý nghĩa khách quan là zero, “lại” đứng trước vị từ chỉ còn biểu thị ý nghĩa đánh giá chủ quan, thể hiện thái độ của người nói đối với hành động, trạng thái được nêu trong câu. Ví dụ: (13) Giữa lúc gia cảnh túng quẫn vì mẹ bỗng ốm triền miên, anh con cả lại lấy vợ. (14) Giữa lúc ông cần một trợ thủ để chống lại nạn ăn cắp vật liệu tại công trường, con chó lại lăn ra chết. Trong “Nó học lại”, “lại” chỉ biểu thị ý nghĩa thể tái diễn. Đây là ý nghĩa của “lại” khi đứng sau vị từ nói chung, ví dụ: Nó làm lại bài toán; Cô ấy nói lại câu đã nói hôm qua 2.2.2. Thay đổi trật tự có thể khiến tổ hợp có Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 431 quan hệ C-V hay danh ngữ trở thành tính ngữ có ý nghĩa đánh giá. Trường hợp này thường gặp ở các tổ hợp có chứa bộ phận cơ thể người. Ví dụ: “mặt vàng” ≠ “vàng mặt” “mặt xanh” ≠ “xanh mặt” “gan to” ≠ “to gan” “bụng tốt” ≠ “tốt bụng” “đầu to” ≠ “to đầu” “mắt xanh” ≠ “xanh mắt” v.v.. 3. Sự thay đổi trật tự từ và các quá trình ngữ pháp hóa (grammaticalization) trong tiếng Việt Ngữ pháp hóa được hiểu là quá trình một thực từ biến đổi thành hư từ, hoặc quá trình mà hư từ với chức năng thứ nhất biến đổi để trở thành hư từ có chức năng thứ hai, thứ ba v.v. Trong tiếng Việt, có thể nêu giả thuyết về những quá trình ngữ pháp đi từ các vị từ thực đến hư từ. Trong công trình “Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp” (Nxb Giáo dục, 2008) chúng tôi đã miêu tả một số tiểu từ tình thái cuối câu (modal final particles) trong tiếng Việt được phát sinh từ các vị từ thực, phản ánh một khía cạnh phát triển của tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập điển hình. Sau đây là miêu tả cụ thể của chúng tôi về quá trình ngữ pháp hoá đã dẫn đến sự hình thành 7 tiểu từ tình thái: mất, thật, nghe, xem, đây, đấy, đi, vốn gốc gác là những vị từ thực hoặc từ chỉ xuất, mà chúng tôi gọi chung là “vị từ ngôn liệu”. Chúng tôi sẽ chỉ ra những thay đổi về trật tự đã dẫn đến những thay đổi về ý nghĩa và chức năng của chúng trong câu. Mất: Với tư cách là vị từ ngôn liệu, từ "mất" đứng trước danh từ và có nghĩa là: "Không có, không thấy, không tồn tại (tạm thời hay vĩnh viễn) nữa. Ví dụ: Mất tín hiệu liên lạc" (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên 1996, tr. 601) "Mất" đứng sau vị từ là chỉ báo cho ý nghĩa đánh dấu ý về "thể", có thể tạm gọi là thể "kết quả", như được thấy trong các ví dụ sau: (15) Cái áo này, tôi phải mua mất hai triệu. (16) Tôi đợi mất 2 tiếng mới có tàu. "Mất" ở cuối câu có nội dung là biểu thị một sự đánh giá tiêu cực (không mong muốn, đáng lo ngại) của người nói về một sự tình có thể xảy ra nào đó, ví dụ: (17) Trời như thế này thì mai mưa mất! (18) Học như thế này thì ở lại lớp mất! Nếu "mất" được dùng với ý nghĩa thể, như ở ví dụ (15) và (16), ý nghĩa của nó vẫn còn liên quan nhiều đến ý nghĩa thực (ý nghĩa của vị từ ngôn liệu) ban đầu, là ý nghĩa của một vị từ thuộc nhóm tồn tại-tiêu biến. Nhưng với tư cách là một tiểu từ tình thái cuối câu, như ở ví dụ (17) và (18) "mất" đã có một nội dung khái quát hơn rất nhiều, biểu thị đánh giá tình thái của người nói đối với cả sự tình được nói đến trong câu. Thật Với tư cách là một vị từ ngôn liệu, "thật" đứng sau danh từ và có ý nghĩa cơ bản là: "Hoàn toàn đúng với nội dung của khái niệm hoặc đúng với tên gọi, không giả. Ví dụ: Hàng thật" (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên 1996, tr. 895) Tuy nhiên, “thật” ở cuối câu lại biểu thị sự thừa nhận, sự khẳng định của người nói đối với sự tình được nói đến trong câu, giả định trong thế "xung đột" với một suy nghĩ trái ngược nào đó từ phía người nghe hoặc với một điều suy nghĩ trái ngược của chính mình trước đó, ví dụ: (19) Tiền này là tiền giả thật! (20) Cô ta không thể cải tạo được thật! Xem Với tư cách là một vị từ ngôn liệu, "xem" đứng trước danh từ và có ý nghĩa cơ bản là: "Nhận biết bằng mắt. Ví dụ: Xem phong cảnh" (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên 1996, tr 1107) Ở cuối câu, "xem" biểu thị ý chí của người nói Ti u ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài 432 muốn người nghe thực hiện (hay cùng thực hiện) hành động được nói đến trong câu. Với ý nghĩa này, “xem” được coi là một trong những dấu hiệu ngôn hành của các phát ngôn thuộc nhóm khuyến lệnh (directives), theo cách phân loại của Searle (1969). Ví dụ: (21) Ăn quả táo này thử xem! Thấy vị có giống táo Mỹ không? (22) Nghe thử đĩa nhạc này xem! Có vẻ được đấy! (23) Ngửi cái này xem! Hình như có mùi oải hương? Đi Với tư cách là một vị từ ngôn liệu, “đi” đứng sau danh từ hoặc đại từ và có ý nghĩa cơ là:"Tự di chuyển bằng những động tác liên tiếp của chân, lúc nào cũng có chân tựa trên mặt đất, vừa có chân giơ lên đặt tới chỗ khác. Ví dụ: Trẻ đi chưa vững" (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên 1996, tr 301) Khi dùng ở cuối câu thì “đi” biểu thị ý chí có tính áp đặt của người nói muốn người nghe thực hiện hành động được nói đến trong câu, và như vậy cũng được coi là một dấu hiệu ngôn hành của các phát ngôn thuộc nhóm khuyến lệnh. Ví dụ: (24) Đánh, đánh bỏ mẹ cái thằng mèo nhép kia đi! (Nguyễn Đình Thi) (25) Kìa, mình ăn đi. Có chịu khó ăn mới chóng khoẻ chứ! (Nguyên Hồng) Nghe Với tư cách là một vị từ ngôn liệu, “nghe” đứng trước danh từ, vị từ hoặc một kết cấu C-V và có ý nghĩa cơ bản là: “Cảm nhận, nhận biết bằng cơ quan thính giác. Ví dụ: Nghe có tiếng gõ cửa" (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên 1996, tr 653) Ở vị trí cuối câu, “nghe” biểu thị ước muốn của người nói đối với sự tình được biểu đạt trong câu, ước muốn này không mang tính áp đặt mà thiên về tình cảm. Tương tự như “xem” và “đi”, “nghe” cũng được coi là dấu hiệu ngôn hành của những phát ngôn thuộc nhóm khuyến lệnh. Ví dụ: (26) Đi chơi nhớ về sớm nghe! (27) Cẩn thận đừng sờ dây điện nghe! Đây/Đấy “Đây”, «đấy” mang bản chất trực chỉ (deixis) không gian rõ ràng. “Đây” dùng để chỉ phạm vi không gian gần người nói, còn "đấy” chỉ một phạm vi không gian xa hơn. Khi được dùng theo lối hoán dụ, hai từ này có thể được dùng để chỉ người hay vật hiện diện trong những phạm vi không gian đó. Ví dụ: (28) Đây là bác sĩ Nam. (29) Đây là chị tôi, còn đấy là em tôi. Ở vị trí cuối câu, hoạt động như tiểu từ tình thái cuối câu, hai từ trực chỉ này mở rộng dung lượng nghĩa, trở nên khái quát hơn để chuyển tải cả ý nghĩa trực chỉ về thời gian. So sánh: (30) Tôi đi đây. (31) Tôi đi đấy. Phát ngôn (30) dễ được hiểu như một tuyên bố, tức người nói sẽ thực hiện ngay lập tức hành động “đi”. Còn với phát ngôn (31), dễ được hiểu như một lời cảnh báo, việc thực hiện hành động “đi” là có khả năng, nhưng ở một thời điểm xa hơn. Theo hướng khái quát như vậy, đây/đấy còn biểu thị những nội dung thuộc tình thái nhận thức (epistemic modality), theo nghĩa là người nói biểu thị những mức độ cam kết khác nhau về tính chân thực của điều được nói đến trong câu, dựa vào sự thể rằng các bằng chứng (evidence) là mang tính tức thời hay đã có một “độ lùi”, «độ kiểm nghiệm” về thời gian. “Đây” được dùng để biểu thị cam kết của người nói trên cơ sở những dấu hiệu, bằng chứng có tính tức thời, được người nói trải nghiệm ở chính vào thời điểm nói hay ngay trước thời điểm nói. Ví dụ, nếu lần đầu tiên trông thấy một cầu thủ trẻ thực hiện những động tác đi bóng điêu luyện, ta có thể nói: (32) Cậu này đá được đây. Nhưng nếu ta đã từng thấy cầu thủ trên đây Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 433 chơi bóng một hoặc vài lần, ta sẽ nói: (32) Cậu này đá được đấy. Như vậy, với tư cách là một tiểu từ tình thái cuối câu, "đấy" chỉ báo cho một cam kết nhận thức dựa trên những bằng chứng đã có trong quá khứ, tức là ở một thời điểm lùi xa hơn so với thời điểm nói. 4. Kết luận Từ những gì được trình bày, có thể khẳng định rằng trong tiếng Việt trật tự từ đóng một vai trò cực kì quan trọng. Nguyên tắc chung là: thay đổi trật tự chính là thay đổi hình thức diễn đạt, và hệ quả là kéo theo những thay đổi về ý nghĩa và chức năng. Nếu giả thuyết về mối quan hệ bộ ba giữa ngôn ngữ-tư duy-văn hóa là đúng thì sự thay đổi linh hoạt của từ ngữ trong câu tiếng Việt dẫn đến những sự thay đổi linh hoạt về nghĩa và chức năng đã phần nào phản ánh cách tư duy Việt Nam, văn hóa Việt Nam, đó là cách tư duy linh hoạt, thực tế, giỏi biến báo. Người nước ngoài muốn học tiếng Việt tốt, muốn sử dụng tiếng Việt thành thạo, phải nắm được sự linh hoạt có qui luật của trật tự từ trong câu tiếng Việt, như chúng tôi đã phần nào chỉ ra trong bài viết này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cao Xuân Hạo 1991. Tiếng Việt-Sơ thảo ngữ pháp chức năng, tập 1. Tp Hồ Chí Minh: Nxb Khoa học Xã hội. 2. Diệp Quang Ban 2004. Ngữ pháp Việt Nam - Phần câu. Hà Nội: Nxb Đại học Sư phạm. 3. Đinh Văn Đức 1986. Ngữ pháp tiếng Việt. H, Nxb Giáo dục. 4. Đỗ Hữu Châu 1998. Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng. Hà Nội: Nxb Giáo dục. 5. Frawley W 1992. Linguistic Semantics. Lawrence Erlbaum Associates, Publisher, New Jersey. 6. Hoàng Phê (chủ biên) 1996. Từ điển tiếng Việt. Hà Nội, Nxb KHXH. 7. Hoàng Tuệ 1988. Về khái niệm tình thái. T/c Ngôn ngữ, Số phụ 1/1988. 8. Hopper P.J 1991. “On some principles of grammaticization”. In E.C Traugott and B. Heine (eds): Approaches to grammaticization, Volume I. Amsterdam: John Benjamins publishing company. 9. Lý Toàn Thắng 2004. Lí thuyết trật tự từ trong cú pháp. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 10. Nguyễn Anh Quế 1988. Hư từ trong tiếng Việt hiện đại. Hà Nội: Nxb KHXH. 11. Nguyễn Kim Thản, 1964. Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, tập 2. Hà Nội: Nxb KHXH. 12. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp 1998. Thành phần câu tiếng Việt. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 13. Nguyễn Văn Hiệp 2003a. “Những cơ sở nghĩa cho việc phân tích cú pháp câu tiếng Việt”. Báo cáo đọc tại Hội thảo nghiên cứu về Việt Nam học. Seoul, Hankuk University of Foreign Studies, tháng 12/2003. 14. Nguyễn Văn Hiệp 2003b. Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học. Tạp chí Ngôn ngữ, Số 7 và Số 8/2003. (Viết chung với Lê Đông) 15. Nguyễn Văn Hiệp 2003c. “Cấu trúc câu tiếng Việt nhìn từ góc độ ngữ nghĩa”. Tạp chí Ngôn ngữ, Số 2- 2003 16. Nguyễn Văn Hiệp 2004. “Về một khía cạnh phát triển của tiếng Việt” (Thể hiện qua hiện tượng ngữ pháp hóa hình thành một số tiểu từ tình thái cuối câu). Tạp chí Ngôn ngữ, Số 11-2004. 17. Nguyễn Văn Hiệp 2006. Nghĩa chủ đề và những cách tiếp cận về nghĩa chủ đề. Tạp chí Ngôn ngữ, Số 11-2006 18. Nguyễn Văn Hiệp 2008. Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp. Hà Nội, Nxb Giáo dục. 19. Nguyễn Văn Hiệp 2009. Cú pháp tiếng Việt. Hà Nội, Nxb Giáo dục Việt Nam. 20. Nguyễn Đức Dân 1998. Lô gic và tiếng Việt. Hà Nội, Nxb Giáo dục. 21. Nguyễn Tài Cẩn 1975. Ngữ pháp tiếng Việt: Tiếng-Từ ghép-Đoản ngữ. Hà Nội, Nxb ĐH&THCN. 22. Searle J.R 1969. Speech acts: an essay in the philosophy of language. Cambridge University Press. 23. Tallerman M. 1999. Understanding Syntax. London, Arnold Publisher. 24. Traugott E.C and Heine B. (eds) 1991: Approaches to grammaticization, Volume I. Amsterdam/Philadelphia: John Benjamins publishing company.