Tóm tắt: Công tác đào tạo cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài trong thời
gian qua đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, để đáp ứng thực sự yêu cầu ngày
càng cao về chất lượng nguồn nhân lực cho thị trường lao động quốc tế, công tác đào tạo
nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức cần thiết vẫn còn tồn tại những hạn chế. Hơn lúc
nào hết, những hạn chế này cần được quan tâm giải quyết để đảm bảo ổn định và phát triển
công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong thời gian tới, phù
hợp với xu thế phát triển và nhu cầu của thị trường lao động quốc tế.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 47 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đẩy mạnh công tác đào tạo góp phần nâng cao năng lực của lao động đi làm việc ở nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 35/Quý II - 2013
24
ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC ĐÀO TẠO GÓP PHẦN NÂNG CAO NĂNG
LỰC CỦA LAO ĐỘNG ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI
Vũ Trường Giang
Cục Quản lý lao động ngoài nước
Tóm tắt: Công tác đào tạo cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài trong thời
gian qua đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, để đáp ứng thực sự yêu cầu ngày
càng cao về chất lượng nguồn nhân lực cho thị trường lao động quốc tế, công tác đào tạo
nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức cần thiết vẫn còn tồn tại những hạn chế. Hơn lúc
nào hết, những hạn chế này cần được quan tâm giải quyết để đảm bảo ổn định và phát triển
công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong thời gian tới, phù
hợp với xu thế phát triển và nhu cầu của thị trường lao động quốc tế.
Từ khóa: đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài , đào tạo nghề
Summary: In recent years, the training for employees to work overseas have
received positive changes. However, in order to meet the increasing demand for high
quality labors in the international labor market, the basic vocational training, language
training as well as other trainings are still facing limitations. At this time, these limitations
should be addressed in order to keep the stability and the development of the sending
Vietnam’s labor to work overseas in the forthcoming, that is appropriate with the
development trend and the demand in the international labor market.
Key words: sending Vietnam’s labor to work overseas, vocational training
1. Tình hình đưa lao động đi làm
việc ở nước ngoài những năm qua
Trong những năm qua, mặc dù tình
hình kinh tế thế giới bị khủng hoảng
nhưng với sự chỉ đạo kịp thời của nhà
nước và đặc biệt là nỗ lực của các doanh
nghiệp, công tác đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài vẫn đạt
được sự tăng trưởng nhất định theo từng
năm. Từ năm 2007 đến hết tháng 12 năm
2012, ta đưa được trên 499.000 lao động
đi làm việc ở nước ngoài, bình quân mỗi
năm đưa đi được trên 83.000 người,
trong đó các thị trường chủ yếu là: Đài
Loan (174.776 người); Malaysia (68.322
người); Hàn Quốc (70.976 người ); Nhật
Bản (37.788 người); khu vực Trung
Đông (46.878 người)... Hiện nay, có
khoảng trên 500 nghìn lao động Việt
Nam làm việc ở trên 40 nước và vùng
lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề
Xét về cơ cấu ngành nghề, những
năm gần đây, xu hướng đưa lao động đi
làm việc trong lĩnh vực công nghiệp
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 35/Quý II - 2013
25
nặng như gia công kim loại, chế tạo máy,
hàn công nghệ cao và xây dựng, đang gia
tăng đáng kể. Những thị trường tiếp nhận
như Đài Loan, trước năm 2005 chủ yếu
tiếp nhận lao động nữ trong lĩnh vực
khán hộ công, chăm sóc người bệnh tại
các viện dưỡng lão và giúp việc gia đình.
Tỉ lệ lao động ở lĩnh vực này luôn chiếm
tới trên 60% tổng số lao động đi làm việc
ở Đài Loan thì nay đã chuyển dịch dần
sang tiếp nhận lao động ở lĩnh vực cơ
khí, chế tạo và gia công kim loại. Một thị
trường truyền thống khác đang tiếp nhận
lao động có tay nghề của Việt Nam sang
tu nghiệp, thực tập là Nhật Bản cũng
đang không ngừng nâng số lượng tiếp
nhận. Hiện nay, thực tập sinh Việt Nam
đã có mặt hầu hết trong các nhà máy xí
nghiệp thuộc ngành công nghiệp ô tô của
Nhật Bản như Toyota, Nissan,
Mazda....và đặc biệt, các tập đoàn đóng
tàu hàng đầu của Nhật bản như IHI,
SUMITOMO...
Trong lĩnh vực xây dựng, từ năm
2006 trở lại đây, xu hướng những nước
Trung đông cũng đang tăng cường tiếp
nhận lao động xây dựng của Việt Nam.
Các nước như UAE, Ca-Ta, Ảrập- Xê út,
Oman, Baranh tỉ lệ lao động xây dựng
của ta chiếm hơn 70%. Bên cạnh đó, ở
một số thị trường lao động tiếp nhận lao
động Việt Nam trong thời kỳ hợp tác
quốc tế những năm 1980 như Rumani,
Bungari, Balan cũng bắt đầu xuất hiện
nhu cầu tiếp nhận lao động trong lĩnh
hàn công nghệ cao. Đặc biệt vừa qua,
trên cơ sở hiệp định hợp tác kinh tế Việt
Nam - Nhật Bản, ta đã phối hợp với phía
bạn tuyển chọn và đào tạo thí điểm 150
điều dưỡng viên, hộ lý đi làm việc trong
lĩnh vực y tế của Nhật Bản. Cũng trong
lĩnh vực này, Bộ Lao động - Thương
Binh và Xã hội đã hợp tác với Tổ chức
hợp tác Cộng hòa Liên Bang Đức - GIZ
để tuyển chọn và đào tạo cho 100 ứng
viên sang học tập và làm việc tại Cộng
hòa Liên bang Đức. Sau khi kết thúc thí
điểm, phía bạn sẽ xem xét tiếp nhận với
số lượng lớn lao động trong lĩnh vực này
sang học tập và làm việc tại các cơ sở y
tế và chăm sóc người già tại Nhật Bản
và CHLB Đức.
2. Thực trạng công tác đào tạo lao
động trước khi đi làm việc ở nước
ngoài.
2.1. Công tác đào tạo nghề và ngoại
ngữ
Theo quy định của Luật về người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng, doanh nghiệp có trách
nhiệm tổ chức hoặc liên kết với cơ sở
dạy nghề, cơ sở đào tạo để đào tạo, bồi
dưỡng kỹ năng nghề, ngoại ngữ cho
người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Việc pháp luật quy định rõ trách nhiệm
của doanh nghiệp về đào tạo người lao
động đã buộc doanh nghiệp phải quan
tâm tới công tác đào tạo. Thời gian qua,
công tác đào tạo nghề cho người lao
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 35/Quý II - 2013
26
động trước khi đi làm việc ở nước ngoài
đã được các doanh nghiệp chú trọng hơn
và tỉ lệ lao động có nghề đi làm việc ở
nước ngoài có xu hướng tăng theo từng
năm. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư xây
dựng cơ sở dạy nghề để đào tạo người
lao động trước khi đi làm việc ở nước
ngoài như công ty LOD, Châu Hưng,
Hoàng Long Huresu.,LTD, Texgamex...
Hệ thống các trường, trung tâm đào tạo
lao động xuất khẩu chuyên nghiệp và bài
bản đang hình thành. Bên cạnh đó, trong
lĩnh vực dạy nghề, ta đã có cả hệ thống
các trường dạy nghề đang hoạt động để
đào tạo kỹ năng nghề cho người lao
động. Theo số liệu thống kê năm 2012,
cả nước có có 128 trường cao đẳng nghề,
308 trường trung cấp nghề, 908 trung
tâm dạy nghề và trên 1.000 cơ sở dạy
nghề khác tại các doanh nghiệp và tại các
cơ sở giáo dục khác. Các doanh nghiệp
xuất khẩu lao động đã bước đầu có sự
liên kết với các cơ sở dạy nghề để tổ
chức tuyển chọn và bồi dưỡng kỹ năng
nghề cho người lao động đi làm việc ở
nước ngoài
Về cơ chế chính sách, nhằm hỗ trợ
các doanh nghiệp đẩy mạnh đưa lao động
có nghề đi làm việc ở nước ngoài, Bộ
LĐTBXH đã triển khai một số chương
trình hỗ trợ đào tạo lao động xuất khẩu,
bao gồm hỗ trợ đào tạo nghề cho lao
động 62 huyện nghèo đi làm việc ở nước
ngoài; thí điểm hỗ trợ đào tạo một số
nghề đặc thù, đòi hỏi kỹ thuật cao mà thị
trường lao động quốc tế có yêu cầu và
tiến tới mở rộng trong năm tới
Công tác dạy nghề trong những năm
qua đã có những bước phát triển, bước
đầu đáp ứng được một phần nhu cầu tiếp
nhận của thị trường. Tuy nhiên, chất
lượng đào tạo còn nhiều hạn chế, chưa
thực sự đáp ứng được yêu cầu của các
nhà tuyển dụng nước ngoài, đặc biệt
trong các lĩnh vực đòi hỏi công nghệ, kỹ
thuật cao như cơ khí chính xác, điện tử
do trang thiết bị của các cơ sở dạy
nghề còn lạc hâu, đội ngũ giáo viên và
phương pháp giảng dạy còn chưa bắt kịp
được với sự phát triển của các kỹ thuật
mới. Những ngành nghề đào tạo nghề
của ta đặc biệt trong lĩnh vực sơ cấp nghề
đạt chuẩn khu vực và quốc tế không
nhiều. Bên cạnh đó, việc phối hợp giữa
dạy nghề gắn với xuất khẩu lao động còn
nhiều hạn chế, thiếu sự kết nối chặt chẽ
nên tỉ lệ lao động có nghề đi làm việc ở
nước ngoài những năm qua chưa cao.
Đối với công tác đào tạo ngoại ngữ,
cho tới thời điểm hiện tại, các doanh
nghiệp vẫn chỉ dừng lại ở mức mang tính
đối phó. Những thị trường nào đòi hỏi
khắt khe như Nhật Bản, Hàn Quốc thì
công tác đào tạo ngoại ngữ mới được coi
trọng. Thực tế cho thấy, trong tổng số
những doanh nghiệp đưa lao động đi làm
việc ở nước ngoài, chỉ có những doanh
nghiệp đưa số lượng lớn thực tập sinh đi
làm việc ở Nhật Bản là tập trung đầu tư
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 35/Quý II - 2013
27
cơ sở đào tạo ngoại ngữ đáp ứng được
yêu cầu ngày càng khắt khe của phía đối
tác như công ty Ánh Thái Dương,
ESUHAI, SULECO, JV Net... Những
doanh nghiệp đang đưa lao động ở các
thị trường tiếp nhận lao động giản đơn
như Malaysia, Trung Đôngdường như
chỉ tập trung vào việc tăng số lượng và
rút ngắn thời gian làm hồ sơ để làm sao
trong thời gian ngắn đưa càng nhiều lao
động đi càng tốt. Chính tư duy làm ăn
không có chiến lược nêu trên của một bộ
phận không nhỏ doanh nghiệp vô hình
chung đã dẫn tới sự không đồng đều về
năng lực giữa những doanh nghiệp đưa
lao động đi làm việc ở nước ngoài ở các
thị trường khác nhau, kéo theo chất
lượng lao động của Việt Nam không cao.
Nhiều doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận
trước mắt, thay vì tập trung nâng cao
chất lượng đào tạo thì lại quay ra đẩy phí
môi giới lên cao nhằm thu hút đối tác.
Kết quả là người lao động phải gánh chịu
những rủi ro, hậu quả, khiến cho thị
trường ngày càng khó khăn, bất lợi hơn
cho cả người lao động lẫn cộng đồng
doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam.
Thực tế vào thời điểm những năm
2000, lao động đi làm việc tại Đài Loan
chi phí chỉ khoảng trên 2.000 USD, và
người lao động trước khi xuất cảnh phải
được đào tạo khoảng 3 tháng tiếng Hoa.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, người
lao động đi Đài Loan sẽ phải mất chi phí
lên hơn gấp đôi (khoảng 4.500 USD) và
thời gian được đào tạo rút xuống còn
khoảng 1,5 tháng. Đối với lao động đi
Malaysia, thời gian đào tạo khoảng 1
tháng, thậm chí có doanh nghiệp đào tạo
không tới 1 tháng. Chính sự thiếu quan
tâm đến chất lượng lao động thể hiện qua
việc rút ngắn thời gian đào tạo đã dẫn tới
tỉ lệ lao động gặp rủi ro ở những thị
trường này như không đáp ứng yêu cầu
của chủ sử dụng, bị trừ lương, tai nạn
trong quá trình sản xuất, vi phạm pháp
luật và và bỏ trốn khỏi nơi làm việc, ra
ngoài sinh sống bất hợp pháp luôn ở mức
cao. Ngược lại, thị trường Nhật Bản,
những năm 2000, số lượng tu nghiệp
sinh ta chỉ đưa được khoảng trên dưới
2000 người/năm và tỉ lệ thực tập sinh vi
phạm hợp đồng, bỏ trốn luôn ở mức cao
(năm 2003 khoảng trên 30%) thì những
năm gần đây, các doanh nghiệp đã tập
trung vào tăng cường chất lượng tuyển
chọn, đào tạo nên số lượng đưa đi tăng
mạnh hàng năm. Kỷ lục năm 2012, ta đã
đưa sang thị trường Nhật Bản trên 8.000
thực tập sinh và tỉ lệ bỏ trốn xuống còn
khoảng 3% và người lao động rất ít gặp
phải rủi ro ở thị trường này.
2.2. Công tác bồi dưỡng kiến thức
cần thiết cho người lao động
Hiện nay có trên 170 doanh nghiệp
được cấp giấy phép đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài. Theo quy định,
các doanh nghiệp đều có trung tâm đào
tạo để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 35/Quý II - 2013
28
thức cần thiết về phong tục, tập quán,
pháp luật có liên quan của nước tiếp
nhận lao động và các quy định pháp luật
của Việt Nam đối với người lao động đi
làm việc ở nước ngoài. Về nội dung
chương trình đào tạo, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội đã ban hành các
quy định nội dung, thời lượng và giáo
trình bồi dưỡng kiến thức phù hợp với
từng thị trường cụ thể. Đồng thời quy
định trách nhiệm của doanh nghiệp trong
việc thực hiện đào tạo và cấp chứng chỉ
bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người
lao động hoàn thành khoá học. Tuy
nhiên, cũng tương tự như công tác đào
tạo nghề, ngoại ngữ, việc đào tạo bồi
dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao
động cũng chỉ dừng lại ở mức đối phó,
thụ động. Đối với thị trường đòi hỏi khắt
khe về chất lượng, các doanh nghiệp
thực hiện rất tốt. Ngoài việc đào tạo bồi
dưỡng theo chương trình quy định, nhiều
doanh nghiệp đã bổ sung các nội dung
đặc thù rút ra từ kinh nghiệm đưa lao
động đi để giảng dạy cho người lao động.
Ở thị trường dễ tính, có nhu cầu tiếp
nhận nhiều lao động, các doanh nghiệp
đào tạo gần như mang tính chiếu lệ, thậm
chí, các nội dung quy định bắt buộc phải
đào tạo cho người lao động còn bị doanh
nghiệp rút bớt dẫn tới tình trạng người
lao động không nắm được nội dung hợp
đồng, vi phạm pháp luật nước sở tại
3. Giải pháp nâng cao năng lực
đào tạo
Công tác đào tạo cho người lao động
trước khi đi làm việc ở nước ngoài có vai
trò hết sức quan trọng, là nhân tố quyết
định chất lượng nguồn nhân lực. Chính
vì vậy, tại Chỉ thị số 16-CT/TW ngày 08
tháng 5 năm 2012 của Ban bí thư Trung
ương Đảng đã chỉ ra một trong những
nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế,
yếu kém trong công tác đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài là
“chưa chủ động và làm tốt việc đào
tạo nghề, ngoại ngữ, giáo dục pháp luật,
phong tục tập quáncho người lao
động” , đồng thời Chỉ thị cũng đã nhấn
mạnh “Chú trọng công tác dạy nghề và
ngoại ngữ, giáo dục pháp luật, phong
tục, tập quán của nước tiếp nhận
chongười lao động...”. Vì vậy, để nâng
cao chất lượng công tác đào tạo lao động
đi làm việc ở nước ngoài đáp ứng nhu
cầu thị trường theo chúng tôi nên tập
trung vào những giải pháp sau:
3.1. Đối với cơ quan quản lý nhà
nước
Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội nghiên cứu và sửa đổi các quy định
hiện hành trong quản lý đào tạo theo
hướng tăng cường trách nhiệm của doanh
nghiệp đối với công tác đào tạo người lao
động trước khi đưa ra nước ngoài làm
việc nhằm trang bị cho người lao động
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 35/Quý II - 2013
29
các kiến thức đảm bảo đáp ứng yêu cầu
công việc ở nước tiếp nhận.
Xây dựng nội dung chương trình
đào tạo và tổ chức tập huấn các quy định
của pháp luật về đưa lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài cho các đối
tượng là cán bộ các doanh nghiệp, công
chức ngành lao động thương binh và xã
hội ở địa phương.
Nghiên cứu xây dựng và đưa ra tiêu
chuẩn tối thiểu về trình độ ngoại ngữ,
trình độ nghề đối với người lao động đi
làm việc ở nước ngoài phù hợp với yêu
cầu phía tiếp nhận nước ngoài. Trên cơ
sở đó, các cơ quan liên quan phối hợp
xây dựng chương trình, giáo trình tài liệu
và đưa vào sử dụng thống nhất cho công
tác đào tạo nghề, ngoại ngữ cho người
lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Tổ chức biên soạn tài liệu bồi dưỡng
kiến thức cần thiết cho người lao động
theo các thị trường tiếp nhận. Đồng thời
thường xuyên cập nhật, chỉnh sửa các nội
dung cho phù hợp với quy định hiện
hành của các nước tiếp nhận lao động
đảm bảo phục vụ tốt cho công tác đào tạo
người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
3.2. Đối với doanh nghiệp
Doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ
với các cơ sở dạy nghề trong việc tuyển
chọn người lao động; chủ động cung cấp
cho các cơ sở dạy nghề các thông tin về
tuyển dụng lao động, các ngành nghề cần
tiếp nhận lao động, dự kiến số lượng và
đặc biệt là các yêu cầu về chất lượng đối
với người lao động, các tài liệu đào tạo
nghề của nước tiếp nhận để cơ sở dạy
nghề xây dựng nội dung đào tạo phù hợp
với những yêu cầu thực tế của phía tiếp
nhận nước ngoài. Bên cạnh đó, doanh
nghiệp chủ động đầu tư trang thiết bị, cơ
sở vật chất phục vụ cho đào tạo nghề
trong một số lĩnh vực phía nước ngoài có
nhu cầu tiếp nhận cao như gia công kim
loại, hàn công nghệ cao, điện tử nhằm
chủ động xây dựng cho mình nguồn lao
động có chất lượng đáp ứng các yêu cầu
tuyển chọn của phía tiếp nhận.
Đổi mới phương pháp đào tạo, nâng
cao năng lực giáo viên để tăng cường
chất lượng đào tạo bồi dưỡng kiến thức
cần thiết cho người lao động đi làm việc
ở nước ngoài. Doanh nghiệp phải thực sự
nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng
của việc trang bị những kiến thức về
phong tục tập quán, pháp luật nước sở tại
cũng như pháp luật của Việt Nam đề từ
đó nâng cao trách nhiệm của người lao
động trong việc tuân thủ các quy định
của pháp luật của trong nước và nước
đến làm việc để bảo vệ cho chính bản
thân. Điều này cũng sẽ làm giảm các
phát sinh mà doanh nghiệp sẽ phải gánh
chịu khi đưa người lao động đi làm việc
ở nước ngoài.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 35/Quý II - 2013
30
3.3. Đối với người lao động
Người lao động phải nhận thức rõ
việc nắm bắt các kỹ năng nghề nghiệp,
ngoại ngữ và các kiến thức về pháp luật,
phong tục tập quán của nước tiếp nhận
trước khi ra nước ngoài làm việc lao
động là quyền lợi và trách nhiệm của
chính bản thân người lao động để từ đó
người lao động chủ động trong việc học
tập và có mục tiêu, động cơ đúng đắn khi
tham gia các khoá đào tạo do doanh
nghiệp tổ chức.
Tóm lại, công tác đào tạo nghề,
ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức cần
thiết cho người lao động đi làm việc ở
nước ngoài có vai trò quan trọng và là
một trong những yếu tố quyết định đến
chất lượng nguồn nhân lực đi làm việc ở
nước ngoài. Chính vì vậy, nhà nước một
mặt luôn khuyến khích người lao động
phải chủ động tìm hiểu kiến thức, tham
gia các khoá bồi dưỡng và có chính sách
hỗ trợ cho người lao động được đào tạo
nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức
cần thiết để đi làm việc ở nước ngoài.
Mặt khác, nhà nước cũng quy định chặt
chẽ nội dung chương trình và trách
nhiệm tổ chức thực hiện của các cá nhân,
tổ chức có quan liên quan trong lĩnh vực
đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng
người lao động đi làm việc ở nước ngoài,
cần thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan liên quan (doanh
nghiệp dịch vụ, cơ sở dạy nghề) trong
công tác đào tạo và đặc biệt là người lao
động phải có nhận thức đúng đắn về tầm
quan trọng, quyền lợi và trách nhiệm của
mình đối với việc tham các khoá đào tạo
trước khi đi làm việc ở nước ngoài ./.
Tài liệu tham khảo
1. Luật Người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng (2006).
2. Nghị định số 126/2007/NĐ-CP
ngày 01/8/2007 của Chính phủ Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
3. Thông tư số 21/2007/TT-
BLĐTBXH ngày 08/10/2007 của Bộ
LĐTBXH hướng dẫn chi tiết một số điều
của Luật Người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng và Nghị
định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8
năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn một số điều của Luật Người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng
4. Quyết định số 18/2007/QĐ-
BLĐTBXH ngày 18/7/2007 của Bộ trưởng
Bộ LĐTBXH Ban hành chương trình bồi
dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao
động trước khi đi làm việc ở nước ngoài.
5. Quyết định số 19 /2007/QĐ-
BLĐTBXH ngày 18 tháng 07 năm 2007
ban hành “quy định về tổ chức bộ máy hoạt
động đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài và bộ máy chuyấn trách để bồi dưỡng
kiến thức cần thiết cho người lao động trước
khi đi làm việc ở nước ngoài”.
6. Báo cáo về công tác đào tạo – bồi
dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao
động đi làm việc ở nước ngoài của một số
doanh nghiệp XKLĐ.