Đẩy mạnh công tác đào tạo góp phần nâng cao năng lực của lao động đi làm việc ở nước ngoài

Tóm tắt: Công tác đào tạo cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, để đáp ứng thực sự yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực cho thị trường lao động quốc tế, công tác đào tạo nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức cần thiết vẫn còn tồn tại những hạn chế. Hơn lúc nào hết, những hạn chế này cần được quan tâm giải quyết để đảm bảo ổn định và phát triển công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong thời gian tới, phù hợp với xu thế phát triển và nhu cầu của thị trường lao động quốc tế.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 47 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đẩy mạnh công tác đào tạo góp phần nâng cao năng lực của lao động đi làm việc ở nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 35/Quý II - 2013 24 ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC ĐÀO TẠO GÓP PHẦN NÂNG CAO NĂNG LỰC CỦA LAO ĐỘNG ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI Vũ Trường Giang Cục Quản lý lao động ngoài nước Tóm tắt: Công tác đào tạo cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, để đáp ứng thực sự yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực cho thị trường lao động quốc tế, công tác đào tạo nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức cần thiết vẫn còn tồn tại những hạn chế. Hơn lúc nào hết, những hạn chế này cần được quan tâm giải quyết để đảm bảo ổn định và phát triển công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong thời gian tới, phù hợp với xu thế phát triển và nhu cầu của thị trường lao động quốc tế. Từ khóa: đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài , đào tạo nghề Summary: In recent years, the training for employees to work overseas have received positive changes. However, in order to meet the increasing demand for high quality labors in the international labor market, the basic vocational training, language training as well as other trainings are still facing limitations. At this time, these limitations should be addressed in order to keep the stability and the development of the sending Vietnam’s labor to work overseas in the forthcoming, that is appropriate with the development trend and the demand in the international labor market. Key words: sending Vietnam’s labor to work overseas, vocational training 1. Tình hình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài những năm qua Trong những năm qua, mặc dù tình hình kinh tế thế giới bị khủng hoảng nhưng với sự chỉ đạo kịp thời của nhà nước và đặc biệt là nỗ lực của các doanh nghiệp, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài vẫn đạt được sự tăng trưởng nhất định theo từng năm. Từ năm 2007 đến hết tháng 12 năm 2012, ta đưa được trên 499.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, bình quân mỗi năm đưa đi được trên 83.000 người, trong đó các thị trường chủ yếu là: Đài Loan (174.776 người); Malaysia (68.322 người); Hàn Quốc (70.976 người ); Nhật Bản (37.788 người); khu vực Trung Đông (46.878 người)... Hiện nay, có khoảng trên 500 nghìn lao động Việt Nam làm việc ở trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề Xét về cơ cấu ngành nghề, những năm gần đây, xu hướng đưa lao động đi làm việc trong lĩnh vực công nghiệp Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 35/Quý II - 2013 25 nặng như gia công kim loại, chế tạo máy, hàn công nghệ cao và xây dựng, đang gia tăng đáng kể. Những thị trường tiếp nhận như Đài Loan, trước năm 2005 chủ yếu tiếp nhận lao động nữ trong lĩnh vực khán hộ công, chăm sóc người bệnh tại các viện dưỡng lão và giúp việc gia đình. Tỉ lệ lao động ở lĩnh vực này luôn chiếm tới trên 60% tổng số lao động đi làm việc ở Đài Loan thì nay đã chuyển dịch dần sang tiếp nhận lao động ở lĩnh vực cơ khí, chế tạo và gia công kim loại. Một thị trường truyền thống khác đang tiếp nhận lao động có tay nghề của Việt Nam sang tu nghiệp, thực tập là Nhật Bản cũng đang không ngừng nâng số lượng tiếp nhận. Hiện nay, thực tập sinh Việt Nam đã có mặt hầu hết trong các nhà máy xí nghiệp thuộc ngành công nghiệp ô tô của Nhật Bản như Toyota, Nissan, Mazda....và đặc biệt, các tập đoàn đóng tàu hàng đầu của Nhật bản như IHI, SUMITOMO... Trong lĩnh vực xây dựng, từ năm 2006 trở lại đây, xu hướng những nước Trung đông cũng đang tăng cường tiếp nhận lao động xây dựng của Việt Nam. Các nước như UAE, Ca-Ta, Ảrập- Xê út, Oman, Baranh tỉ lệ lao động xây dựng của ta chiếm hơn 70%. Bên cạnh đó, ở một số thị trường lao động tiếp nhận lao động Việt Nam trong thời kỳ hợp tác quốc tế những năm 1980 như Rumani, Bungari, Balan cũng bắt đầu xuất hiện nhu cầu tiếp nhận lao động trong lĩnh hàn công nghệ cao. Đặc biệt vừa qua, trên cơ sở hiệp định hợp tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản, ta đã phối hợp với phía bạn tuyển chọn và đào tạo thí điểm 150 điều dưỡng viên, hộ lý đi làm việc trong lĩnh vực y tế của Nhật Bản. Cũng trong lĩnh vực này, Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội đã hợp tác với Tổ chức hợp tác Cộng hòa Liên Bang Đức - GIZ để tuyển chọn và đào tạo cho 100 ứng viên sang học tập và làm việc tại Cộng hòa Liên bang Đức. Sau khi kết thúc thí điểm, phía bạn sẽ xem xét tiếp nhận với số lượng lớn lao động trong lĩnh vực này sang học tập và làm việc tại các cơ sở y tế và chăm sóc người già tại Nhật Bản và CHLB Đức. 2. Thực trạng công tác đào tạo lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. 2.1. Công tác đào tạo nghề và ngoại ngữ Theo quy định của Luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức hoặc liên kết với cơ sở dạy nghề, cơ sở đào tạo để đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề, ngoại ngữ cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Việc pháp luật quy định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp về đào tạo người lao động đã buộc doanh nghiệp phải quan tâm tới công tác đào tạo. Thời gian qua, công tác đào tạo nghề cho người lao Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 35/Quý II - 2013 26 động trước khi đi làm việc ở nước ngoài đã được các doanh nghiệp chú trọng hơn và tỉ lệ lao động có nghề đi làm việc ở nước ngoài có xu hướng tăng theo từng năm. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng cơ sở dạy nghề để đào tạo người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài như công ty LOD, Châu Hưng, Hoàng Long Huresu.,LTD, Texgamex... Hệ thống các trường, trung tâm đào tạo lao động xuất khẩu chuyên nghiệp và bài bản đang hình thành. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực dạy nghề, ta đã có cả hệ thống các trường dạy nghề đang hoạt động để đào tạo kỹ năng nghề cho người lao động. Theo số liệu thống kê năm 2012, cả nước có có 128 trường cao đẳng nghề, 308 trường trung cấp nghề, 908 trung tâm dạy nghề và trên 1.000 cơ sở dạy nghề khác tại các doanh nghiệp và tại các cơ sở giáo dục khác. Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đã bước đầu có sự liên kết với các cơ sở dạy nghề để tổ chức tuyển chọn và bồi dưỡng kỹ năng nghề cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài Về cơ chế chính sách, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh đưa lao động có nghề đi làm việc ở nước ngoài, Bộ LĐTBXH đã triển khai một số chương trình hỗ trợ đào tạo lao động xuất khẩu, bao gồm hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động 62 huyện nghèo đi làm việc ở nước ngoài; thí điểm hỗ trợ đào tạo một số nghề đặc thù, đòi hỏi kỹ thuật cao mà thị trường lao động quốc tế có yêu cầu và tiến tới mở rộng trong năm tới Công tác dạy nghề trong những năm qua đã có những bước phát triển, bước đầu đáp ứng được một phần nhu cầu tiếp nhận của thị trường. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng nước ngoài, đặc biệt trong các lĩnh vực đòi hỏi công nghệ, kỹ thuật cao như cơ khí chính xác, điện tử do trang thiết bị của các cơ sở dạy nghề còn lạc hâu, đội ngũ giáo viên và phương pháp giảng dạy còn chưa bắt kịp được với sự phát triển của các kỹ thuật mới. Những ngành nghề đào tạo nghề của ta đặc biệt trong lĩnh vực sơ cấp nghề đạt chuẩn khu vực và quốc tế không nhiều. Bên cạnh đó, việc phối hợp giữa dạy nghề gắn với xuất khẩu lao động còn nhiều hạn chế, thiếu sự kết nối chặt chẽ nên tỉ lệ lao động có nghề đi làm việc ở nước ngoài những năm qua chưa cao. Đối với công tác đào tạo ngoại ngữ, cho tới thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp vẫn chỉ dừng lại ở mức mang tính đối phó. Những thị trường nào đòi hỏi khắt khe như Nhật Bản, Hàn Quốc thì công tác đào tạo ngoại ngữ mới được coi trọng. Thực tế cho thấy, trong tổng số những doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, chỉ có những doanh nghiệp đưa số lượng lớn thực tập sinh đi làm việc ở Nhật Bản là tập trung đầu tư Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 35/Quý II - 2013 27 cơ sở đào tạo ngoại ngữ đáp ứng được yêu cầu ngày càng khắt khe của phía đối tác như công ty Ánh Thái Dương, ESUHAI, SULECO, JV Net... Những doanh nghiệp đang đưa lao động ở các thị trường tiếp nhận lao động giản đơn như Malaysia, Trung Đôngdường như chỉ tập trung vào việc tăng số lượng và rút ngắn thời gian làm hồ sơ để làm sao trong thời gian ngắn đưa càng nhiều lao động đi càng tốt. Chính tư duy làm ăn không có chiến lược nêu trên của một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp vô hình chung đã dẫn tới sự không đồng đều về năng lực giữa những doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài ở các thị trường khác nhau, kéo theo chất lượng lao động của Việt Nam không cao. Nhiều doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận trước mắt, thay vì tập trung nâng cao chất lượng đào tạo thì lại quay ra đẩy phí môi giới lên cao nhằm thu hút đối tác. Kết quả là người lao động phải gánh chịu những rủi ro, hậu quả, khiến cho thị trường ngày càng khó khăn, bất lợi hơn cho cả người lao động lẫn cộng đồng doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam. Thực tế vào thời điểm những năm 2000, lao động đi làm việc tại Đài Loan chi phí chỉ khoảng trên 2.000 USD, và người lao động trước khi xuất cảnh phải được đào tạo khoảng 3 tháng tiếng Hoa. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, người lao động đi Đài Loan sẽ phải mất chi phí lên hơn gấp đôi (khoảng 4.500 USD) và thời gian được đào tạo rút xuống còn khoảng 1,5 tháng. Đối với lao động đi Malaysia, thời gian đào tạo khoảng 1 tháng, thậm chí có doanh nghiệp đào tạo không tới 1 tháng. Chính sự thiếu quan tâm đến chất lượng lao động thể hiện qua việc rút ngắn thời gian đào tạo đã dẫn tới tỉ lệ lao động gặp rủi ro ở những thị trường này như không đáp ứng yêu cầu của chủ sử dụng, bị trừ lương, tai nạn trong quá trình sản xuất, vi phạm pháp luật và và bỏ trốn khỏi nơi làm việc, ra ngoài sinh sống bất hợp pháp luôn ở mức cao. Ngược lại, thị trường Nhật Bản, những năm 2000, số lượng tu nghiệp sinh ta chỉ đưa được khoảng trên dưới 2000 người/năm và tỉ lệ thực tập sinh vi phạm hợp đồng, bỏ trốn luôn ở mức cao (năm 2003 khoảng trên 30%) thì những năm gần đây, các doanh nghiệp đã tập trung vào tăng cường chất lượng tuyển chọn, đào tạo nên số lượng đưa đi tăng mạnh hàng năm. Kỷ lục năm 2012, ta đã đưa sang thị trường Nhật Bản trên 8.000 thực tập sinh và tỉ lệ bỏ trốn xuống còn khoảng 3% và người lao động rất ít gặp phải rủi ro ở thị trường này. 2.2. Công tác bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động Hiện nay có trên 170 doanh nghiệp được cấp giấy phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Theo quy định, các doanh nghiệp đều có trung tâm đào tạo để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 35/Quý II - 2013 28 thức cần thiết về phong tục, tập quán, pháp luật có liên quan của nước tiếp nhận lao động và các quy định pháp luật của Việt Nam đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Về nội dung chương trình đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã ban hành các quy định nội dung, thời lượng và giáo trình bồi dưỡng kiến thức phù hợp với từng thị trường cụ thể. Đồng thời quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc thực hiện đào tạo và cấp chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động hoàn thành khoá học. Tuy nhiên, cũng tương tự như công tác đào tạo nghề, ngoại ngữ, việc đào tạo bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động cũng chỉ dừng lại ở mức đối phó, thụ động. Đối với thị trường đòi hỏi khắt khe về chất lượng, các doanh nghiệp thực hiện rất tốt. Ngoài việc đào tạo bồi dưỡng theo chương trình quy định, nhiều doanh nghiệp đã bổ sung các nội dung đặc thù rút ra từ kinh nghiệm đưa lao động đi để giảng dạy cho người lao động. Ở thị trường dễ tính, có nhu cầu tiếp nhận nhiều lao động, các doanh nghiệp đào tạo gần như mang tính chiếu lệ, thậm chí, các nội dung quy định bắt buộc phải đào tạo cho người lao động còn bị doanh nghiệp rút bớt dẫn tới tình trạng người lao động không nắm được nội dung hợp đồng, vi phạm pháp luật nước sở tại 3. Giải pháp nâng cao năng lực đào tạo Công tác đào tạo cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng, là nhân tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực. Chính vì vậy, tại Chỉ thị số 16-CT/TW ngày 08 tháng 5 năm 2012 của Ban bí thư Trung ương Đảng đã chỉ ra một trong những nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế, yếu kém trong công tác đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là “chưa chủ động và làm tốt việc đào tạo nghề, ngoại ngữ, giáo dục pháp luật, phong tục tập quáncho người lao động” , đồng thời Chỉ thị cũng đã nhấn mạnh “Chú trọng công tác dạy nghề và ngoại ngữ, giáo dục pháp luật, phong tục, tập quán của nước tiếp nhận chongười lao động...”. Vì vậy, để nâng cao chất lượng công tác đào tạo lao động đi làm việc ở nước ngoài đáp ứng nhu cầu thị trường theo chúng tôi nên tập trung vào những giải pháp sau: 3.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nghiên cứu và sửa đổi các quy định hiện hành trong quản lý đào tạo theo hướng tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp đối với công tác đào tạo người lao động trước khi đưa ra nước ngoài làm việc nhằm trang bị cho người lao động Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 35/Quý II - 2013 29 các kiến thức đảm bảo đáp ứng yêu cầu công việc ở nước tiếp nhận. Xây dựng nội dung chương trình đào tạo và tổ chức tập huấn các quy định của pháp luật về đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cho các đối tượng là cán bộ các doanh nghiệp, công chức ngành lao động thương binh và xã hội ở địa phương. Nghiên cứu xây dựng và đưa ra tiêu chuẩn tối thiểu về trình độ ngoại ngữ, trình độ nghề đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài phù hợp với yêu cầu phía tiếp nhận nước ngoài. Trên cơ sở đó, các cơ quan liên quan phối hợp xây dựng chương trình, giáo trình tài liệu và đưa vào sử dụng thống nhất cho công tác đào tạo nghề, ngoại ngữ cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tổ chức biên soạn tài liệu bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động theo các thị trường tiếp nhận. Đồng thời thường xuyên cập nhật, chỉnh sửa các nội dung cho phù hợp với quy định hiện hành của các nước tiếp nhận lao động đảm bảo phục vụ tốt cho công tác đào tạo người lao động đi làm việc ở nước ngoài. 3.2. Đối với doanh nghiệp Doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với các cơ sở dạy nghề trong việc tuyển chọn người lao động; chủ động cung cấp cho các cơ sở dạy nghề các thông tin về tuyển dụng lao động, các ngành nghề cần tiếp nhận lao động, dự kiến số lượng và đặc biệt là các yêu cầu về chất lượng đối với người lao động, các tài liệu đào tạo nghề của nước tiếp nhận để cơ sở dạy nghề xây dựng nội dung đào tạo phù hợp với những yêu cầu thực tế của phía tiếp nhận nước ngoài. Bên cạnh đó, doanh nghiệp chủ động đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo nghề trong một số lĩnh vực phía nước ngoài có nhu cầu tiếp nhận cao như gia công kim loại, hàn công nghệ cao, điện tử nhằm chủ động xây dựng cho mình nguồn lao động có chất lượng đáp ứng các yêu cầu tuyển chọn của phía tiếp nhận. Đổi mới phương pháp đào tạo, nâng cao năng lực giáo viên để tăng cường chất lượng đào tạo bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Doanh nghiệp phải thực sự nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của việc trang bị những kiến thức về phong tục tập quán, pháp luật nước sở tại cũng như pháp luật của Việt Nam đề từ đó nâng cao trách nhiệm của người lao động trong việc tuân thủ các quy định của pháp luật của trong nước và nước đến làm việc để bảo vệ cho chính bản thân. Điều này cũng sẽ làm giảm các phát sinh mà doanh nghiệp sẽ phải gánh chịu khi đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 35/Quý II - 2013 30 3.3. Đối với người lao động Người lao động phải nhận thức rõ việc nắm bắt các kỹ năng nghề nghiệp, ngoại ngữ và các kiến thức về pháp luật, phong tục tập quán của nước tiếp nhận trước khi ra nước ngoài làm việc lao động là quyền lợi và trách nhiệm của chính bản thân người lao động để từ đó người lao động chủ động trong việc học tập và có mục tiêu, động cơ đúng đắn khi tham gia các khoá đào tạo do doanh nghiệp tổ chức. Tóm lại, công tác đào tạo nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài có vai trò quan trọng và là một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực đi làm việc ở nước ngoài. Chính vì vậy, nhà nước một mặt luôn khuyến khích người lao động phải chủ động tìm hiểu kiến thức, tham gia các khoá bồi dưỡng và có chính sách hỗ trợ cho người lao động được đào tạo nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức cần thiết để đi làm việc ở nước ngoài. Mặt khác, nhà nước cũng quy định chặt chẽ nội dung chương trình và trách nhiệm tổ chức thực hiện của các cá nhân, tổ chức có quan liên quan trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cần thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan (doanh nghiệp dịch vụ, cơ sở dạy nghề) trong công tác đào tạo và đặc biệt là người lao động phải có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng, quyền lợi và trách nhiệm của mình đối với việc tham các khoá đào tạo trước khi đi làm việc ở nước ngoài ./. Tài liệu tham khảo 1. Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (2006). 2. Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. 3. Thông tư số 21/2007/TT- BLĐTBXH ngày 08/10/2007 của Bộ LĐTBXH hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 4. Quyết định số 18/2007/QĐ- BLĐTBXH ngày 18/7/2007 của Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Ban hành chương trình bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. 5. Quyết định số 19 /2007/QĐ- BLĐTBXH ngày 18 tháng 07 năm 2007 ban hành “quy định về tổ chức bộ máy hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và bộ máy chuyấn trách để bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài”. 6. Báo cáo về công tác đào tạo – bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài của một số doanh nghiệp XKLĐ.
Tài liệu liên quan