Tháng 3 vừa rồi, tại một cuộc thuyết trình CeBIT mà tôi đã tổ chức về DB2 9.7, tôi đã đốt cháy
một bộ loa máy tính 110V do tôi đã không thận trọng cắm nó vào lưới điện 230V của nước Đức
mà không cho qua một biến áp. Trong cùng chuyến đi đó, tôi cũng đã phá hỏng bộ sạc điện cho
bàn chải đánh răng chạy điện của tôi và máy cạo râu của tôi với các sự cố tương tự. Bỏ qua sự
bất lực của tôi như là bài học từ các sai lầm sang một bên, việc này xảy ra như không có gì bất
ngờ đúng như một trong các câu châm ngôn yêu thích của tôi (không rõ nguồn gốc) là "Vấn đề
với các tiêu chuẩn là có bao nhiêu tiêu chuẩn".
17 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1725 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu DB2 9.7: Chạy các ứng dụng Oracle trên DB2 9.7 cho Linux, UNIX và Windows, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DB2 9.7: Chạy các ứng dụng Oracle trên DB2
9.7 cho Linux, UNIX và Windows
Động lực
Tháng 3 vừa rồi, tại một cuộc thuyết trình CeBIT mà tôi đã tổ chức về DB2 9.7, tôi đã đốt cháy
một bộ loa máy tính 110V do tôi đã không thận trọng cắm nó vào lưới điện 230V của nước Đức
mà không cho qua một biến áp. Trong cùng chuyến đi đó, tôi cũng đã phá hỏng bộ sạc điện cho
bàn chải đánh răng chạy điện của tôi và máy cạo râu của tôi với các sự cố tương tự. Bỏ qua sự
bất lực của tôi như là bài học từ các sai lầm sang một bên, việc này xảy ra như không có gì bất
ngờ đúng như một trong các câu châm ngôn yêu thích của tôi (không rõ nguồn gốc) là "Vấn đề
với các tiêu chuẩn là có bao nhiêu tiêu chuẩn".
Trong thế giới của các hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu quan hệ (RDBMS), chúng tôi may mắn có
ít nhất ba tiêu chuẩn chính và vô số các sự thay đổi theo các tiêu chuẩn đó:
ANSI SQL và ANSI SQL/PSM
Oracle SQL và PL/SQL
Sybase và Microsoft TSQL
Hình 1 mô tả bằng một sơ đồ Venn cách các phương ngữ SQL chồng lên nhau:
Hình 1. Sự hỗ loạn Babylon của SQL
Bất cứ khi nào bạn viết một ứng dụng, bạn phải tiến hành lựa chọn sử dụng nhà cung cấp
RDBMS nào. Một khi bạn đã thực hiện sự lựa chọn đó, về cơ bản bạn được cam kết. Bất kỳ cố
gắng nào để chuyển đổi các nhà cung cấp để tận dụng giá thấp hơn, công nghệ tốt hơn hoặc quan
hệ đối tác tốt hơn bị cản trở do mã thừa kế cần được viết lại nhiều hơn, trước khi nó có thể được
dùng với một RDBMS khác. Ngoài ra, bộ kỹ năng của bạn không thể chuyển từ một sản phẩm
này sang một sản phẩm khác dễ dàng như bạn mong đợi.
IBM DB2 9.7 cho Linux, UNIX và Windows (DB2) nhằm hạ thấp đáng kể những rào cản này
cho các ứng dụng được viết cho Oracle khi cho phép các ứng dụng đó chuyển sang DB2. Điều
này cung cấp cho các khách hàng và các nhà cung cấp khả năng lựa chọn một DBMS đựa theo
sự xuất sắc của nó, chứ không theo lịch sử ứng dụng.
Về đầu trang
DB2 9.7 bổ sung thêm các tính năng tương thích của Oracle
Để cho phép một ứng dụng được viết cho một RDBMS chạy trên nền khác gần như không cần
thay đổi, nhiều đoạn mã phải nằm đúng vị trí. Các cơ chế khóa, các kiểu dữ liệu, SQL, ngôn ngữ
theo thủ tục khác nhau nằm trên máy chủ và thậm chí cả các giao diện khách hàng được chính
ứng dụng sử dụng cần phải được liên kết không chỉ theo cú pháp, mà còn theo ngữ nghĩa.
Tất cả các bước này đã được thực hiện trong DB2. Các thay đổi là ngoại lệ, không phải là quy
luật (IBM có thể nhanh chóng đánh giá các thay đổi của ứng dụng cần thiết). Bảng 1 cung cấp
một tổng quan ngắn gọn về các tính năng thường được sử dụng:
Bảng 1. Các tính năng thường được sử dụng
Oracle --> DB2
Điều khiển tương tranh --> Hỗ trợ có sẵn
Phương ngữ SQL --> Hỗ trợ có sẵn
PL/SQL --> Hỗ trợ có sẵn
Các gói PL/SQL --> Hỗ trợ có sẵn
Các gói kèm theo --> Hỗ trợ có sẵn
Khách hàng JDBC với các phần mở rộng --> Hỗ trợ có sẵn
Kịch bản lệnh SQL*Plus --> Hỗ trợ có sẵn
Với DB2 9.7, bạn không cần chuyển một ứng dụng nữa. Bạn chỉ kích hoạt ứng dụng. Trong
trường hợp của một ứng dụng đóng gói, nó có thể chia sẻ một nguồn cho cả hai DB2 và Oracle.
Nói cách khác, việc cho phép một ứng dụng Oracle chuyển sang DB2 không trở nên phức tạp
hơn việc kích hoạt một Chương trình-C được viết cho HP-UX để chạy trên AIX.
Về đầu trang
Điều khiển tương tranh
Trong quá khứ, một trong những sự khác biệt nổi bật nhất giữa Oracle và DB2 là cách tiếp cận
để kiểm soát điều khiển tương tranh. Các cụm từ dễ nhớ là: "Những người đọc không cản trở
những người viết và những người viết không cản trở những người đọc".
Bảng 2. Hành vi tương tranh của Oracle
Giao dịch đang chờ xử lý Hành vi Giao dịch mới
Người đọc không ngăn chặn Người đọc
Người đọc không ngăn chặn Người viết
Người viết không ngăn chặn Người đọc
Người viết ngăn chặn Người viết
Không đi vào chi tiết về các mức cô lập, chỉ cần nói rằng đa số các ứng dụng có sử dụng Sự cô
lập mức câu lệnh (Statement Level Isolation) mặc định của Oracle sẽ chỉ làm việc tốt khi sử dụng
mặc định của DB2 về Sự ổn định của con trỏ (Cursor Stability-CS).
Tuy nhiên, theo truyền thống, CS đã được triển khai sao cho những người viết ngăn chặn những
người đọc và trong một số trường hợp, những người đọc có thể ngăn chặn những người viết. Lý
do là ở chỗ, theo truyền thống, một giao dịch dưới sự cô lập CS sẽ "chờ kết quả" của các thay đổi
của một giao dịch tương tranh đang chờ xử lý.
Bảng 3. Hành vi tương tranh của DB2 truyền thống với CS
Giao dịch đang chờ xử lý Hành vi Giao dịch mới
Người đọc không ngăn chặn Người đọc
Người đọc hiếm khi ngăn chặn Người viết
Người viết ngăn chặn Người đọc
Người viết ngăn chặn Người viết
Hóa ra là không có lý do ngữ nghĩa nào là tại sao một giao dịch đang chạy dưới sự cách ly CS lại
chờ kết quả khi gặp phải một hàng đã thay đổi. Một hành vi thỏa đáng tương tự là đọc các phiên
bản đã cam kết hiện tại của dòng đã thay đổi.
Hành vi này đã được thực hiện trong DB2 9.7. Điều đã xảy ra là DB2 đơn giản lấy ra phiên bản
hiện đã cam kết hiện tại của một hàng bị khóa từ nhật ký (log). Trong hầu hết các trường hợp
chung, hàng đó vẫn còn nằm trong bộ đệm log do sự thay đổi này vẫn chưa được cam kết.
Nhưng ngay cả khi hàng đã được viết ra và cũng đã bị ghi đè trong bộ đệm log DB2 sẽ biết chính
xác tìm nó ở đâu, để cho một IO sẽ đưa phiên bản mong muốn vào nhóm bộ đệm (bufferpool).
Hãy tưởng tượng (xem Hình 2) một người dùng đang cập nhật một tên trong một bảng nhân
viên. Trước khi người dùng đó đã cam kết thay đổi, một người dùng khác quét bảng này. Theo
truyền thống, người sử dụng thứ hai sẽ phải đợi cho người sử dụng đầu tiên cam kết hoặc khôi
phục (rollback). Nhờ đọc dữ liệu đã cam kết hiện tại, hoạt động quét của người dùng thứ hai sẽ
đơn giản lấy ra phiên bản của hàng từ bộ đệm log mà nó không chứa các thay đổi của người sử
dụng đầu tiên.
Hình 2. Những người viết không ngăn chặn những người đọc
Điều quan trọng cần lưu ý rằng hành vi này:
Không đưa vào đối tượng mới nào như là một đoạn khôi phục.
Không có chi phí hiệu năng nào cho người viết do log cần phải được viết không theo hệ
thống.
Không thể gây ra bất cứ tình hình nào như một "bản chụp quá cũ" vì trong trường hợp
không chắc có xảy ra tệp log cần thiết đã được lưu trữ (trong khi một giao dịch vẫn còn
mở!), DB2 chỉ đơn giản sẽ khôi phục lại và đợi khóa để đi tiếp.
Ngoài những thay đổi này, các kỹ thuật tránh phải thêm khóa đã được đưa vào DB2 để loại bỏ
một người đọc đang nắm giữ một khóa theo chế độ cô lập CS.
Bảng 3. Hành vi tương tranh của DB2 mới với CS
Giao dịch đang chờ xử lý Hành vi Giao dịch mới
Người đọc không ngăn chặn Người đọc
Người đọc không ngăn chặn Người viết
Người viết không ngăn chặn Người đọc
Người viết ngăn chặn Người viết
Như bạn thấy, các hành vi tương tranh bây giờ giống hệt với các hành vi của Oracle. Thực tế, cơ
sở dữ liệu DB2 vừa mới được tạo ra thể hiện hành vi này theo mặc định.
Về đầu trang
Các kiểu dữ liệu mới
Tâm điểm của mỗi cơ sở dữ liệu là dữ liệu của nó. Các kiểu không khớp hoặc các ngữ nghĩa của
các kiểu này không khớp có thể tác động đến khả năng cho phép một ứng dụng chuyển sang ứng
dụng RDBMS khác. Do đó để cho phép các ứng dụng Oracle chạy trên DB2, điều quan trọng là
phải hỗ trợ các kiểu cơ sở không tiêu chuẩn, như là chuỗi, các ngày tháng và các số. Ngoài việc
điều chỉnh các kiểu cơ sở này, có các kiểu khác, phức tạp hơn được sử dụng phổ biến trong
PL/SQL của Oracle, nó đã được thêm vào trong DB2 9.7..
Bảng 5. Các kiểu dữ liệu DB2 mới
Kiểu dữ liệu Mô tả
NUMBER
Sự hỗ trợ NUMBER và NUMBER (p [, s]) đã được thêm vào dựa trên
DECFLOAT (với bản tăng tốc phần cứng Power6) và số thập phân
(DECIMAL).
VARCHAR2 Hoạt động của kiểu VARCHAR2 bao gồm các chuỗi rỗng đang được hiểu như là NULL và kéo theo sự đối chiếu phân biệt khoảng trống.
Oracle DATE Một cơ sở dữ liệu trong chế độ DATE bao gồm thành phần TIME ngoài ngày tháng của lịch.
TIMESTAMP(n)Thang đo phân số của giây có thể được chọn bất kỳ giữa 0 (ngày + thời gian)
lên đến 12 (pico giây).
BOOLEAN Kiểu này có thể được sử dụng trong logic thủ tục, các biến và các tham số cho
các thường trình.
VARRAY Sự hỗ trợ mảng (ARRAY) trong các thủ tục đã được mở rộng để hỗ trợ các
phương thức kiểu dáng VARRAY và cú pháp.
INDEX BY Ngoài các mảng thông thường, DB2 cũng hỗ trợ các mảng kết hợp.
ROW TYPE Kiểu hỗn hợp này có thể được sử dụng trong các biến và các tham số và như là một phần tử cho các mảng và các mảng kết hợp.
Ref Cursor type Các con trỏ có thể được gán cho các biến hoặc chuyển qua xung quanh khi sử dụng các tham số.
Về đầu trang
Tạo khuôn mẫu ẩn và độ phân giải kiểu
"Nếu nó đi như một con vịt và nó nói như vịt, thì sau đó nó phải là một con vịt".
"Nếu nó đi như một con vịt và nó nói như vịt, thì sau đó nó phải là một con vịt". Đây là câu thần
chú của nhiều ngôn ngữ mới như PHP và Ruby. Mỗi chữ là một chuỗi và sau đó sử dụng như
một kiểu khác dựa vào ngữ cảnh. Trung thành với tiêu chuẩn SQL và đi theo triết lý là sự không
khớp về kiểu có thể là lỗi mã hóa, Theo truyền thống DB2 đã đi theo các quy tắc định kiểu mạnh,
mà các chuỗi và các số không thể được so sánh ở đó, trừ khi các chuỗi và các số này là khuôn
mẫu rõ ràng đối với các chuỗi và các số khác.
Thật không may, khi một ứng dụng Oracle sử dụng cách định kiểu yếu trong SQL của nó, ứng
dụng đó đã quên biên dịch theo DB2 từ trước. Trong DB2 9.7, việc tạo khuôn mẫu ẩn (hay định
kiểu yếu) đã được thêm vào. Đó là, các chuỗi và các con số có thể được so sánh, gán và hoạt
động theo một cách rất linh hoạt.
Ngoài ra, các NULL không định kiểu có thể được sử dụng ở nhiều vị trí, trong khi các dấu tham
số không định kiểu có thể được sử dụng hầu như ở bất kỳ đâu, nhờ việc sẵn sàng làm theo. Đó
là, DB2 sẽ không giải quyết kiểu của một dấu tham số cho đến khi nó đã thấy giá trị thực tế đầu
tiên.
Để bổ sung thêm việc tạo khuôn mẫu ẩn, DB2 cũng hỗ trợ việc tạo mặc định các tham số thủ tục
cũng như kết hợp các đối số cho các tham số theo tên.
Về đầu trang
Thư viện hàm lập sẵn mở rộng trong DB2
Tất cả các RDBMS cung cấp các thư viện của các hàm để hoạt động trên dữ liệu. Vấn đề là
không có hai hàm sử dụng cùng tên, ngay cả khi cuối cùng chức năng là rất giống nhau.
Ngoài việc tập các hàm truyền thống của riêng mình, DB2 bây giờ hỗ trợ một thư viện tương
thích với Oracle. Danh sách sau cung cấp một tổng quan ngắn gọn, chưa phải đầy đủ:
Hàm biến đổi và hàm khuôn mẫu
o TO_DATE
o TO_CHAR
o TO_CLOB
o TO_NUMBER
o TO_TIMESTAMP
Mỗi một trong các hàm này hỗ trợ một tập phong phú của các chuỗi định dạng tương
thích.
Phép tính số học ngày tháng
o EXTRACT
o ADD_MONTHS
o MONTHS_BETWEEN
o NEXT_DAY
o Cộng (+) thêm phân số của các ngày.
Thao tác chuỗi
o LPAD
o RPAD
o INSTR
o INITCAP
o Các phần mở rộng cho SUBSTR
Các đặc tính khác nhau
o NVL
o DECODE
o LEAST
o GREATEST
o BITAND
Sự chồng lấn đã tăng đáng kể trong các hàm được hỗ trợ giữa hai sản phẩm hàm ý một sự thành
công của hộp bên ngoài được cải thiện rất nhiều cho phép một ứng dụng Oracle chuyển sang
DB2.
Về đầu trang
Hỗ trợ phương ngữ Oracle SQL
Bài viết này, cho đến nay, đã trình bày sự tương tranh, các kiểu dữ liệu, định kiểu và các hàm.
Tuy nhiên, các khác biệt giữa Oracle và DB2 vẫn còn tiếp. Các kết cấu thực sự của các phương
ngữ SQL, các từ khóa và các ngữ nghĩa của chúng khác nhau trong một số lĩnh vực. Mỗi sản
phẩm cũng hỗ trợ một số tính năng mà các sản phẩm đơn giản khác không có. Khi các tính năng
này là phổ biến, chúng hạn chế khả năng gửi đi SQL chung đối với cả hai sản phẩm. Trong số
nhiều cải tiến ngôn ngữ nhỏ và lớn, Bảng 6 liệt kê một số điểm nổi bật:
Bảng 6. Hỗ trợ SQL mới
Tính năng Mô tả
Đệ qui CONNECT
BY
DB2, cho đến nay, đã hỗ trợ một lệnh đệ qui ANSI SQL. Bây giờ CONNECT BY
theo định dạng Oracle đã được thêm, gồm các hàm khác nhau và các cột giả
(pseudocolumns) như LEVEL và CONNECT_BY_PATH.
Cú pháp (+)
join
Cú pháp này thực sự bị Oracle ngăn cản, nhưng có nhiều ứng dụng và các nhà
phát triển những người vẫn còn sử dụng dạng này của cú pháp OUTER JOIN.
Bảng DUAL Một bảng một hàng, một cột đã sử dụng khắp nơi trong các ứng dụng Oracle như là một bù nhìn (dummy).
Các cột giả
ROWNUM
Cột giả này thường được sử dụng để hạn chế số lượng các hàng trả về và để đếm
các hàng trong một tập kết quả.
Các cột giả
ROWID
Các Rowid được sử dụng để nhanh chóng lấy ra một hàng mà trước đây đã tìm
thấy dựa theo địa chỉ vật lý của nó.
Phép toán SQL
MINUS
Trong Oracle, MINUS (Trừ) được sử dụng thay cho EXCEPT (Loại ra) để một tập
kết quả trừ đi tập khác.
SELECT INTO
FOR UPDATE
Cấu trúc FOR UPDATE trên SELECT INTO cho phép trích ra một hàng khỏi DB2
với mục đích để sửa đổi nó sau này mà không cần sử dụng một con trỏ.
PUBLIC
SYNONYM
Một từ đồng nghĩa chung là một bí danh mà không có một tên lược đồ. DB2 hỗ
trợ các từ đồng nghĩa chung cho các đối tượng bảng, các trình tự và các gói
PL/SQL.
CREATE
TEMPORARY
TABLE
DB2 hỗ trợ các bảng tạm thời toàn cầu được tạo ra ngoài các bảng toàn cầu tạm
thời được khai báo.
Câu lệnh bảng
TRUNCATE
Câu lệnh này nhanh chóng xóa các nội dung của một bảng toàn bộ mà không
thực hiện các bộ kích hoạt.
Độ phân giải
tên tự nhiên
DB2 9.7 không yêu cầu các khung nhìn nội tuyến. Ngoài ra, các tên cột có thể
dễ dàng thừa kế từ các toán tử set (tập hợp) như UNION.
Điều này hoàn thành tổng quan về các thay đổi được thực hiện với DB2 để cho các ứng dụng
Oracle gửi đi SQL dựa vào cơ sở dữ liệu có thể chạy hầu như không thay đổi. Tuy nhiên, có các
phần chính của nhiều ứng dụng đang thực hiện tại chính máy chủ. Ngôn ngữ lựa chọn phía máy
chủ cho các ứng dụng Oracle là PL/SQL. Không có sự khẳng định nào về tính tương thích có thể
được thực hiện nghiêm túc mà không có sự hỗ trợ cho PL/SQL.
Về đầu trang
DB2 hỗ trợ cho PL/SQL
Thông thường, khi một ứng dụng đang được chuyển từ một sản phẩm này sang một sản phẩm
khác, ngôn ngữ SQL và ngôn ngữ thủ tục được dịch từ một phương ngữ SQL sang phương ngữ
khác. Điều này đặt ra một số vấn đề:
Mã dịch kết quả có xu hướng rắc rối do tự động hóa và sự không phối hợp đồng bộ giữa
phương ngữ nguồn và phương ngữ đích.
Các nhà phát triển ứng dụng không quen thuộc với phương ngữ SQL đích. Điều đó làm
cho nó khó gỡ rối mã đã gửi đi. Theo thời gian, việc bảo trì tiếp theo trở thành một sự
thách thức do sự thiếu các kỹ năng.
Trong trường hợp của các ứng dụng đóng gói, việc dịch cần phải được lặp lại cho mỗi
bản phát hành mới của ứng dụng.
Cuối cùng, kết quả là một bản mô phỏng, theo định nghĩa thì nó chạy chậm hơn so với
bản ban đầu.
Để tránh những vấn đề này, DB2 9.7 có hỗ trợ PL/SQL riêng. Điều này có nghĩa là gì?
Như bạn thấy trong Hình 3, máy DB2 bây giờ gồm một trình dịch PL/SQL bên cạnh trình biên
dịch SQL PL. Cả hai trình biên dịch tạo mã máy ảo cho Máy chạy thực thống nhất SQL (Unified
Runtime Engine) của DB2. Điều quan trọng cần lưu ý là các công cụ theo dõi và phát triển như
Optim Development Studio được gắn vào trong DB2 ở mức máy chạy thời gian thực.
Hình 3. Hỗ trợ trình biên dịch PL/SQL
Sự tích hợp của PL/SQL vào trong DB2 như là một ngôn ngữ thủ tục lớp đầu tiên có nhiều hàm
ý:
Không phải dịch. Mã nguồn vẫn giữ nguyên như nó đang có trong danh mục lược đồ.
Các nhà phát triển có thể tiếp tục làm việc theo ngôn ngữ mà họ đã quen thuộc. Không có
nhu cầu nào để di chuyển logic sang phương ngữ của DB2 thậm chí nếu logic mới được
viết bằng SQL PL. Các thường trình sử dụng các phương ngữ khác nhau có thể gọi cho
nhau.
Các nhà cung cấp ứng dụng đóng gói có thể sử dụng một mã nguồn dựa vào cả Oracle lẫn
DB2.
Cả PL/SQL và SQL PL đều đưa ra mã máy ảo như nhau cho SQL Unified Runtime
Engine của DB2. Do đó, theo thiết kế, cả PL/SQL lẫn SQL PL thực hiện ở cùng một tốc
độ.
Do hạ tầng của trình gỡ rối gắn trực tiếp vào SQL Unified Runtime Engine, nên PL/SQL
được hỗ trợ tự nhiên bởi Optim Development Studio.
Hình 4 minh hoạ một phiên gỡ rối PL/SQL. Trình gỡ rối này hỗ trợ các tính năng tiêu chuẩn như
bước vào, bước ra và các điểm ngắt (breakpoint). Ngoài ra, nó cho phép người dùng thay đổi các
biến PL/SQL tại chỗ trong khi chương trình đang chạy.
Hình 4. Hỗ trợ trình gỡ rối PL/SQL trong DB2
Các chi tiết cú pháp PL/SQL
Vì vậy, sự hỗ trợ PL/SQL muốn nói chính xác điều gì? Trước tiên, có sự hỗ trợ cú pháp cốt lõi.
DB2 hỗ trợ tất cả các cấu trúc chung của PL/SQL, chẳng hạn như:
nếu thì, ngược lại (if then else).
các vòng lặp while.
:= phép gán.
các biến và hằng cục bộ.
#PRAGMA EXCEPTION và xử lý các trường hợp ngoại lệ.
Các dạng khác nhau cho các vòng lặp (phạm vi, con trỏ và truy vấn).
%TYPE and %ROWTYPE giữ chặt các biến và các tham số cho các đối tượng khác.
Các giao dịch #PRAGMA AUTONOMOUS, cho phép các thủ tục nào thực thi trong một
giao dịch riêng.
Hỗ trợ đối tượng PL/SQL
Có thể sử dụng PL/SQL trong các đối tượng khác nhau cho phép logic thủ tục:
Các hàm vô hướng.
Trước các bộ kích hoạt của mỗi hàng.
Sau các bộ kích hoạt của mỗi hàng.
Các thủ tục.
Các khối ẩn danh.
Các gói PL/SQL.
Hỗ trợ các gói PL/SQL
Hầu hết PL/SQL trong các ứng dụng Oracle được chứa trong cái gọi là Các gói (PACKAGE).
Một gói PL/SQL —không lẫn với một gói DB2— là một bộ sưu tập của các đối tượng riêng với
khả năng phân biệt giữa các đối tượng có thể truy cập bên ngoài và những đối tượng chỉ là các
trình trợ giúp để sử dụng bên trong gói. ANSI SQL tương đương với một gói được gọi là
MODULE. Bây giờ DB2 cung cấp hỗ trợ cho các mô đun SQL ANSI cũng như các gói PL/SQL.
Đặc biệt, cung cấp các khả năng sau đây:
GÓI TẠO [HOẶC THAY THẾ] (CREATE [OR REPLACE] PACKAGE), xác định các
mẫu ban đầu cho các thường trình nhìn thấy bên ngoài. Nó cũng xác định tất cả các đối
tượng không theo thủ tục, nhìn thấy bên ngoài, như các biến và các kiểu.
THÂN GÓI TẠO [HOẶC THAY THẾ] (CREATE [OR REPLACE] PACKAGE
BODY), triển khai thực hiện tất cả các thường trình riêng và chung cũng như tất cả các
đối tượng riêng khác.
Trong một gói hoặc thân gói, các đối tượng sau đây có thể được định nghĩa:
o Các biến và các hằng số.
o Các kiểu dữ liệu.
o Các ngoại lệ.
o Các hàm vô hướng.
o Các thủ tục.
o Các con trỏ.
Khởi tạo gói.
Các từ đồng nghĩa chung trên các gói.
Về đầu trang
DB2 cung cấp các gói lập sẵn phổ biến
Một số các ứng dụng Oracle sử dụng các gói do RDBMS cung cấp. Đặc biệt, các thư viện cung
cấp việc tạo báo cáo, e-mail hoặc truyền thông chéo có thể rất phổ biến. Để tạo điều kiện hỗ trợ
các ứng dụng này cho DB2, DB2 cung cấp các gói được liệt kê trong Bảng 7:
Bảng 7. DB2 cung cấp các gói kèm theo
Gói Mô tả
DBMS_OUTPUTCung cấp các khả năng lập báo cáo cơ bản có thể bật hoặc tắt từ dòng lệnh.
UTL_FILE Một mô-đun cho phép làm việc với các tệp trên máy chủ DB2.
DBMS_SQL Một gói cung cấp một SQL API để thực hiện SQL động ngoài các câu lệnh hiện có EXECUTE và EXECUTE IMMEDIATE.
UTL_MAIL Một mô-đun cho phép gửi các thông báo e-mail từ SQL.
UTL_SMTP Một mức API thấp hơn tương tự như UTL_MAIL tạo ra sự tích hợp SMTP.
DBMS_ALERT Một gói, khi được sử dụng, cho phép các phiên làm việc khác nhau truyền tin bằng cờ hiệu với nhau.
DBMS_PIPE Một mô-đun cho phép các phiên làm việc gửi từng dữ liệu khác nhau.
DBMS_JOB Cung cấp một API tương thích tích hợp với bộ xếp lịch các nhiệm vụ của DB2.
DBMS_LOB Một API của Oracle để xử lý LOB báo hiệu các hàm LOB lập sẵn của DB2.
DBMS_UTILITYMột bộ sưu tập các thủ tục khác nhau được sử dụng trong các ứng dụng.
Về đầu trang
Các phần mở rộng JDBC cho riêng Oracle
JDBC là một giao diện khách hàng Java chuẩn. Tuy nhiên, có các phần mở rộng đã được thêm
vào trình điều khiển JDBC của Oracle để hỗ trợ các kiểu dữ liệu không theo tiêu chuẩn riêng.
Để tối đa hóa mức độ tươn