Đất nước ta đang bước vào nền kinh tế thị trường với rất nhiều những
khó khăn và thách thức mới . Một trong những thách thức đó là việc nhận thức
đúng đắn được Quy luật giá trị (QLGT) và vai trò của QLGT đối với nền kinh tế thị
trường có tính chất đặc thù riêng của nước ta. Hơn nữa nước ta vừa chuyển đổi từ cơ
chế tập chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nên vẫn còn tàn dư những
quan điểm sai lầm của thời kỳ bao cấp , thời kỳ mà rất nhiều quy luật kinh tế cơ ban đã
bi lãng quên như QLGT. Chính vì vậy cho ta thấy được tính cấp thiết của đề tài nghiên
cứu “QLGT và vai trò của QLGT trong nền kinh tế thị trường ở nước ta ” trong giai
đoạn hiện nay là rất hợp lý và cần thiết. Để mỗi chúng ta lắm bắt tốt một quy luật kinh
tế cơ bản và tạo cơ sở để đưa ra những quyết định kinh tế đúng đắn .
Để làm rõ vấn đề mà đề án nghiên cứu thì đề án được bố cục như sau:
(Đề án chủ yếu nghiên cứu những vấn đề từ năm 1986 đến nay)
Chương 1 : Một số vấn đề cơ bản về quy luật giá trị.
Chương 2 : Thực trạng vận dụng QLGT trong thời gian qua và giải pháp nhằn vận
dụng tốt hơn QLGT ở Việt Nam trong thời gian tới.
24 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2845 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng vận dụng quy luật giá trị trong thời gian qua và giải pháp nhằn vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Formatted: Right: 0,63 cm
LUẬN VĂN:
Thực trạng vận dụng QLGT trong thời gian
qua và giải pháp nhằn vận dụng tốt hơn
QLGT ở Việt Nam trong thời gian tới
Formatted: Right: 2 cm, Top: 2,5
cm, Bottom: 2,5 cm, Header distance
from edge: 1,27 cm, Footer distance
from edge: 1,27 cm, Top: (No border),
Bottom: (No border), Left: (No border),
Right: (No border), Not Different first
page header
Formatted: Right: 0,63 cm
Lời Mở Đầu
Đất nước ta đang bước vào nền kinh tế thị trường với rất nhiều những
khó khăn và thách thức mới . Một trong những thách thức đó là việc nhận thức
đúng đắn được Quy luật giá trị (QLGT) và vai trò của QLGT đối với nền kinh tế thị
trường có tính chất đặc thù riêng của nước ta. Hơn nữa nước ta vừa chuyển đổi từ cơ
chế tập chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nên vẫn còn tàn dư những
quan điểm sai lầm của thời kỳ bao cấp , thời kỳ mà rất nhiều quy luật kinh tế cơ ban đã
bi lãng quên như QLGT. Chính vì vậy cho ta thấy được tính cấp thiết của đề tài nghiên
cứu “QLGT và vai trò của QLGT trong nền kinh tế thị trường ở nước ta ” trong giai
đoạn hiện nay là rất hợp lý và cần thiết. Để mỗi chúng ta lắm bắt tốt một quy luật kinh
tế cơ bản và tạo cơ sở để đưa ra những quyết định kinh tế đúng đắn .
Để làm rõ vấn đề mà đề án nghiên cứu thì đề án được bố cục như sau:
(Đề án chủ yếu nghiên cứu những vấn đề từ năm 1986 đến nay)
Chương 1 : Một số vấn đề cơ bản về quy luật giá trị.
Chương 2 : Thực trạng vận dụng QLGT trong thời gian qua và giải pháp nhằn vận
dụng tốt hơn QLGT ở Việt Nam trong thời gian tới.
Quy luật giá trị và vai trò của nó
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Centered, Indent: Left:
-0,18 cm, Right: -0,22 cm
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Right: 0,63 cm
Chương 1
Một số vấn đề cơ bản về Quy luật giá trị
1.1. Một số quan điểm về giá trị .
1.1.1. Quan điểm của trường phái trọng thương .
Chủ nghĩa trọng thương là trường phái có tư tưởng kinh tế mở đầu của giai
đoạn tư bản chủ nghĩa (TBCN).Những nhà kinh tế của chủ nghĩa trọng thương rất coi
trọng đồng tiền. Họ coi tiền là nội dung căn bản của của cải , của giá trị và là biểu hiện
của sự giầu có,… Một quốc gia giầu mạnh theo họ phải là quốc gia có thật nhiều tiền.
Họ cũng cho rằng sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm công nghiệp không tạo ra giá trị
(trong công nghiệp chỉ có công nghiệp khai thác vàng , bạc là tạo ra giá trị). Qua đó ta
thấy được phần nào sự sơ khai của những tư tưởng kinh tế thời kỳ đầu. Họ vẫn chưa
biết và không thừa nhận và hiểu được QLGT.Trong thời kỳ này có những đại diện tiêu
biểu như : Montchretien , Thomas Mun , Kolber,… Các ông cho rằng chỉ có thương
mại mói tạo ra giá trị hay tiền cho đất nước .Trong thương mại thì cũng chỉ có ngoại
thương mới tạo ra giá trị của cải còn theo họ nội thương không tạo ra giá trị của cải mà
nó chỉ làm nhiệm vụ phân phát của cải cho mọi người. Theo các ông thì trong ngoại
thương thì cần phải mua rẻ bán đắt để lấy phần chênh lệch giữa mua và bán. Những tư
tưởng của các ông được thể hiện phần nào qua những câu phát biểu nổi tiếng :
“ Nội thương là một hệ thống ống dẫn, ngoại thương là máy bơm , muốn tăng
của cải phải có ngoại thương dẫn của cải qua nội thương ”
_Montchretien_
“Thương mại là một hòn đá đối với sự phồn thịnh của một quốc gia ” ,
“Không có phép lạ nào khác kiếm tiền, trừ thương mại ”
_Thomas Mun_
Ta thấy những tư tưởng kinh tế thời kỳ này vẫn còn sơ sài ,mang tính chất chủ quan
cao ,tính khoa học và tính lý luận hệ thống còn thấp, hơn nữa những tư tưởng kinh tế
như mới chỉ là những gì đúc rút từ hoạt động thực tiễn .Nền sản xuất còn rất kém phát
triển cũng là lý do mà những nhà kinh tế chưa thể biết đến những quy luật kinh tế cơ
bản như QLGT và họ cũng không thừa nhận quy luật kinh tế khác .
1.1.2.Quan điểm của trường phái trọng nông .
Formatted: Right: 0,63 cm
Những người thuộc trường phái trọng nông thì phê phán quan điểm của những
người của chủ nghĩa trọng thương. Họ cho rằng những lợi nhuận mà chủ nghĩa trọng
thương có được là nhờ tiết kiệm các khoản chi phí thương mại mà có, còn theo họ
trong thương mại chỉ là “ việc đổi những giá trị này lấy những giá trị khác ngang như
thế ”. Tức là thương mại chỉ trao đổi chứ không làm cho tài sản tăng nên. Điều này cho
ta thấy đã có sự nhận thức tiến bộ và trưởng thành trong quan điểm kinh tế của trường
phái trọng nông.
Những người trọng nông họ cho rằng giá trị chỉ tạo ra được trong nông nghiệp.
Nông nghiệp là nghành kinh tế sản xuất duy nhất , còn đối với công nghiệp chỉ có tiêu
dùng chứ hoàn toàn không có sản xuất. Những sản phẩm mới mà trong công nghiệp
sản xuất ra chỉ là những gì đã có từ trước và họ ghép chúng vào với nhau. Duy nhất
trong nông nghiệp mới có sự tăng nên về chất và lượng, bởi vậy theo họ chỉ có nông
nghiệp mới tạo ra giá trị .Còn trong công nghiệp không những nó không làm tăng thêm
giá trị mà nó còn làm giảm đi mặt lượng thực tế của thực thể , nên họ đôi khi còn coi
công nghiệp là có hại. Đây là một quan điểm sai lầm vì họ đã đơn giản hoá khái niệm
về của cải và họ không nhận thấy được tính hai mặt của thực thể là hiện vật và giá trị .
Trong thực tế thì khối lượng và giá trị của vật phẩm có thể thay đổi hoàn toàn ngược
nhau.
Những đại diện tiêu biểu cho trường phái trọng nông phải kể tới gương mặt tiêu
biểu là Francois Quesnay (là người sáng lập ra trường phái trọng nông ở Pháp )
ông đã có những đóng góp to lớn cho chủ nghĩa trọng nông ở pháp. Lý thuyết về sản
phẩm thuần tuý cũng đã nói rõ nên quan điểm của trường phái trọng nông về giá
trị.Ông cũng đã từng tuyên bố:
“Chỉ có của cải của dân cư ở nông thôn mới đẻ ra của cải quốc gia”, “Nông
dân nghèo thì xứ sở nghèo”.
_Francois Quesnay_
Hơn nữa phát hiện tiêu biểu của ông về “ Biểu kinh tế ” được các nhà kinh tế học coi
là một trong ba phát minh lớn nhất đương thời (cùng với việc phát hiện ra tiền và máy
in) cũng qua biểu kinh tế thì ông là người đầu tiên phân tích một cách khoa học việc
tái sản xuất. Nhưng điều quan trọng nhất và đóng góp to lớn nhất của trường phái
trọng nông như K . Marx nhận xét :
Formatted: Right: 0,63 cm
“Phái trọng nông đã chuyển việc nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư từ
lĩnh vực lưu thông vào lĩnh vực sản xuất trực tiếp, và do đó đã đặt cơ sở cho việc phân
tích nền sản xuất TBCN ”.
Hơn nữa ta thấy cả hai trường phái trọng thương và trọng nông thực sự vẫn chưa biết
được nguồn gốc của giá trị. Nhưng những gì mà cả hai trường phái đã có được là cơ
sở vững chắc cho nền kinh tế học sau này.
1.1.3. Quan niệm của trường phái trọng công. (Trường phái tư sản cổ điển Anh)
Trường phái này tiếp tục nghiên cứu giá trị ở trong sản xuất trực tiếp, tư tưởng
của những nhà kinh tế ở thời kỳ này đã có những tiến bộ vượt bậc so với những trường
phái đã đi trước. Giai đoạn phát triển của trường phái này gắn liền với tư tưởng kinh tế
theo cấp độ thăng tiến của ba nhà kinh tế tiêu biểu là : William – Petty(1623- 1687),
Adam Smith (1723-1790), David Ricardo (1772-1823).
William Petty là người đầu tiên tìm thấy cơ sở của giá cả tự nhiên ( giá trị ) là
lao động . Ông đã cho rằng giá trị là do thời gian lao động hoa phí quyết định và năng
suất lao động có ảng hưởng đến mức hao phí đó. Nhưng ông cho rằng chỉ có lao động
khai thác vàng bạc mới tạo ra giá trị ( đây là quan điểm chịu ảnh hưởng của tư tưởng
trường phái trọng thương ), bởi vì theo ông mọi lao động khác để có thể so sánh với
nhau đều phải đều phải so sánh với lao động tạo ra tiền tệ. Còn giá trị hàng hoá là sự
phản ánh giá trị tiền tệ cũng như “ ánh sáng cảu mặt trăng là sự phản chiếu ánh sáng
mặt trời ” Đó là phần hạn chế trong học thuyết của ông bởi ông chưa thể phân biệt
được các phạm trù giá trị, giá trị trao đổi với giá cả. Tuy học thuyết của ông còn rất
nhiều thiếu sót và hạn chế ,nhưng thực sự nó đã đặt nền móng quan trọng cho tư tưởng
của trường phái trọng công .
Adam smith tiếp tục đi theo con đường của W. Petty nhưng ông đã có những
bước tiến xa so với W. Petty . Ông đã có quan điểm đúng về giá trị, ông cho rằng giá
trị trao đổi là do lao động quyết định và giá trị là do lao động để sản xuất ra hàng hoá
quyết định . A. Smith đã phân biệt được giá trị sử dụng và giá trị trao đổi (được coi là
công lao chính của ông ). Hơn nữa ông cũng đã đưa ra nguồn gốc cấu thành của giá trị
trong sản xuất TBCN là tiền lương , lợi nhuận, địa tô và ông cũng phân biệt giá cả tự
nhiên và giá cả thị trường. đó cho ta thấy mặc dù học thuyết của ông đã có nhiều phát
hiện mới nhưng ông vẫn còn nhiều hạn chế. Tuy ông luôn cho rằng lao động là “
Formatted: Right: 0,63 cm
thước đo thực tế của giá trị ” song trong lý luận của ông vẫn còn luẩn quẩn và sai lầm
về giá trị , còn trong nguồn gốc của giá trị ông lẫn lộn giữa hai vấn đề hình thành giá
trị và phân phối giá trị , hơn nữa ông cũng xem thường tư bản bất biến C, ông coi giá
trị chỉ có v và m tạo thành.
David Ricardo là người kế thừa và phát triển học thuyết của W .Petty và
A.Smith để đưa ra một học thuyết khá hoàn thiện. Ông đã nhận thức được giá trị lao
động được quyết định bởi lượng lao động đồng nhất của con người (lao động xã hội)
chứ không phải là lượng lao động hao phí cá biệt. ở đây cho ta thấy ông là người đầu
tiên đã phân biệt được lao động cá biệt và lao động xã hội. D. Ricardo cũng đã phân
biệt được giá trị sử dụng và giá trị nhưng ông vẫn chưa thấy được mối quan hệ giữa
giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Về quan điểm giá trị ông đã bác bỏ lý luận giá trị sử
dụng quyết định giá trị hàng hoá, ông cũng phát biểu rằng:
“ Tính hữu ích không phải là thước đo giá trị trao đổi , mặc dù hàng hoá rất
cần thiết giá trị này .”
“Giá trị khác xa với của cải, giá trị không tuỳ thuộc vào việc có nhiều hay ít
của cải, mà tuỳ thuộc vào điều kiện sản xuất khó khăn hay thuận lợi.”
Ông cũng đã phân biệt được giá cả tự nhiên và giá cả thị trường và theo ông giá cả thị
trường luôn luôn biến động. Còn về vấn đề tăng giá theo ông không phải là do cung
cầu thị trường quyết định, mà theo ông mức giá ở trong tay những người sản xuất và
cung cầu chỉ ảnh hưởng tới giá cả mà thôi. Ngoài ra D. Ricardo đã chứng minh được
rằng giá trị của hàng hoá giảm khi năng suất lao động tăng nên. Và ông cũng đã cho cả
phần C1 vào giá trị của hàng hoá, tức là theo ông giá trị của hàng hoá không chỉ do lao
động trực tiếp tạo ra mà còn là lao động cần thiết trước đó nữa như máy móc nhà
xưởng (ông vẫn chưa biết được phần C). Qua đó cho ta thấy ông đã đóng góp công sức
rất lớn vào việc hoàn thiện tư tưởng của trường phái trọng công cũng như những gì để
lại cho K. Marx kế thừa và phát triển kinh tế học sau này. Tuy ông vẫn còn có những
thiếu sót và hạn chế và đã được K. Marx bổ xung và hoàn thiện .
1.1.4.Quan điểm của Marx về giá trị .
K. Marx được xem như một tổng công trình sư, ông đã kế thừa và phát triển
những tư tưởng kinh tế của những người đi trước và đưa ra những quan điểm mà được
Formatted: Right: 0,63 cm
rất nhiều những nhà kinh tế khác trên thế giới lấy đó làm chuẩn mực cho những lý luận
của họ. Với việc tìm ra lao động cụ thể và lao động trừu tượng K. Marx đã đưa ra quan
điểm đúng về giá trị (giá trị là lao động xã hội của những người sản xuất hàng hoá kết
tinh trong hàng hoá). Như vậy chất của giá trị là lao động trừu tượng của người sản
xuất kết tinh trong hàng hoá. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng,
phương pháp riêng, phương tiện riêng và kết quả cũng riêng. Mỗi lao động cụ thể tạo
ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động giản đơn nó nêu nên cách tiến hành như
thế nào. Còn lao động trừu tượng chính là lao động hao phí đồng chất của con người.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị làm cơ sở cho sự trao đổi ngang bằng. Lao động trừu
tượng nêu nên xem mức hao phí để sản xuất lao động là bao nhiêu. Quả thật việc K.
Marx phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá có ý nghĩa rất to lớn về
mặt lý luận, nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sơ khoa học thực sự.
Giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế như sự vận động trái
ngược : khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng nên, đi liền với khối lượng giá trị
của nó giảm xuống hay không thay đổi. Lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời
gian lao động xã hội cần thiết để tạo ra hàng hoá đó. Ông cũng đã tìm ra được hoàn
chỉnh công thực cấu thành giá trị của hàng hoá (Giá trị hàng hoá = giá trị cũ +giá trị
mới).Và ông cho rằng lượng của giá trị hàng hoá phụ thuộc vào các nhân tố như: năng
suất lao động, hay phụ thuộc vào đó là lao động gian đơn hay là lao động phức tạp,
trong đó năng xuất lao động càng cao thì thời gian cần để tạo ra hàng hoá càng giảm
và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Còn giữa lao động giản đơn và lao
động phức tạp thì trong cùng một thời gian, lao động phức tạp sẽ tạo ra nhiều giá trị
hơn so với lao động giản đơn.
1.2.Biểu hiện của QLGT
1.2.1. Nội dung của QLGT
QLGT là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. ở đâu có sản xuất
và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của QLGT.
Theo QLGT, sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động
xã hội cần thiết. Trong nền sản xuất hàng hoá thì mỗi người sản xuất sẽ có hao phí lao
động cá biệt, nhưng giá trị của hàng hoá được quyết định bởi lao động hao phí xã hội
Formatted: Right: 0,63 cm
cần thiết. Chính vì vậy người sản xuất muốn bán được sản phẩm thì phải điều chỉnh
cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí chung của xã hội.
Sự vận động của quy luật giá trị là thông qua sự vận độnh của giá cả hàng hoá.
Như ta đã biết giá trị là cơ sở của giá cả nên giá cả phải phụ thuộc vào giá trị. Nếu
hàng hoá nào mất nhiều thời gian lao động xã hội cần thiết thì nhiều giá trị và giá cả
của nó cũng sẽ cao và ngược lại. Hàng hoá trên thị trường ngoài chịu tác động của giá
trị còn chịu tác động của các quy luật kinh tế khác như quy luật cạnh trnh quy luật
cung cầu,… Những tác động đó làm cho giá cả tăng giảm nhưng nó vẫn xoay quanh
trục giá trị của nó. Sự nên xuống quanh trục giá trị của nó đó là
cơ chế hoạt động của quy luật giá trị.
1.2.2. Sự vận động của QLGT trong tự do cạnh tranh.
Trong tự do cạnh tranh các danh nghiệp tự do sản xuất, để bán được hàng trên
thị trường thì các doanh nghiệp phải điều chỉnh để cho hao phí cá biệt của doanh
nghiệp nhỏ hơn mức hao phí của xã hội là doanh nghiệp đã có lợi nhuận. Đối với mỗi
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu. Các doanh
nghiệp luôn cải tiến để cho hao phí của mình nhỏ hơn hao phí của xã hội. Các doanh
nghiệp cứ cạnh tranh với nhau trong nội bộ ngành và dần cạnh tranh với cả giữa những
ngành khác nhau để thu được lợi nhuận, cho tới khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình
quân của xã hội thì lúc này giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản xuất. Lúc này
giá cả hàng hoá sẽ xoay quanh giá cả sản xuất. Nếu xét về mặt lượng, ở mỗi ngành giá
cả sản xuất và giá trị hàng hoá có thể không bằng nhau, nhưng trong toàn xã hội thì
tổng giá cả sản xuất luôn bằng tổng giá trị. Trong mối quan hệ này thì giá trị vẫn là cơ
sở, là nội dung bên trong giá cả sản xuất, giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường,
và giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.
1.2.3. Sự vận động của QLGT trong cơ chế độc quyền.
Vì các tổ chức chiếm được vị trí độc quyền nên có quyền áp đặt giá cả độc, giá
cả độc quyền thấp khi mua, và giá cả độc quyền cao khi bán.Tuy nhiên điều đó không
có nghĩa là quy luật giá trị thặng dư không còn hoạt động.Về thực chất thì giá cả độc
quyền vẫn không tách rời và không phủ định cơ sở của nó là giá trị. Các tổ chức độc
quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền thực ra là họ đã chiếm đoạt một phần giá
trị thặng dư của người khác, và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Ta thấy nguồn gốc
Formatted: Right: 0,63 cm
của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp
độc quyền, một phần lao động không công của công nhân của các xí nghiệp không độc
quyền,…. Qua đó cho ta thấy dù trong môi trường kinh tế nào thì quy luật giá trị vẫn
luôn phát huy tác dụng của mình.
1.3. Vai trò của QLGT.
1.3.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành,
các lĩnh vực của nền kinh tế. Vai trò này của quy luật giá trị thông qua sự biến động
của hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Khi một mặt hàng
nào đó mà cung nhỏ hơn cầu thì lúc đó giá cả hàng hoá sẽ cao hơn giá trị, hàng hoá
bán sẽ rất chạy, lãi xuất lúc đó sẽ rất cao nên người sản xuất sẽ đổ xô vào sản xuất mặt
hàng đó. Do đó sẽ có một lượng vốn được rút ra từ ngành khác để cho vào đầu tư sản
xuất mặt hàng bán chạy đó. Trái lại khi mà sản phẩm đó cung đã vượt quá cầu thì giá
cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá không bán chạy được và có thể bị lỗ vốn. Như vậy
người sản xuất sẽ buộc phải thu hẹp quy mô sản xuất hoặc chuyển sang sản xuất hàng
có lãi suất cao hơn. Để lắm bắt được mối quan hệ của cung cầu về hàng hoá đó thì ta
thông qua giá cả trên thị trường sẽ thể hiện mối quan hệ đó. Qua đó cho ta thấy giá cả
có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Sự biến động của nó có thể ảnh hưởng đến
rất nhiều yếu tố khác của thị trường. Liên hệ với nước ta hiện nay đang trong quá trình
đổi mới nên vẫn còn rất nhiều điều mới mẻ trong nền kinh tế. Bởi vậy để quản lý nền
kinh tế tốt ta phải chú ý quản lý cơ chế giá sao cho thể hiện đúng được thực trạng của
thị trường.
1.3.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động.
Trong cơ chế thị trường tự do cạnh tranh mỗi doanh nghiệp sản xuất là một chủ
thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trong nền
kinh tế thì các chủ thể hoạt động trong những môi trường khác nhau nên chi phí lao
động cá biệt khác nhau, người có chi phí thấp hơn mức chi phí của xã hội, người có chi
phí cao hơn chi phí của xã hội. Doanh nghiệp sản xuất nào có chi phí lao động cá biệt
càng nhỏ thì lợi nhuận thu được càng cao, còn nếu chi phí cao hơn chi phí cá biệt của
xã hội thì doanh nghiệp bị lỗ ở tình thế bất lợi. Chính vì vậy mà doanh nghiệp nào
cũng muốn giành chiến thắng trong cạnh tranh và đều không muốn bị lùi ra khỏi chiến
Formatted: Right: 0,63 cm
trường. Để làm được điều đó thì doanh nghiệp phải cố gắng tìm mọi cách để giảm chi
phí cá biệt của chính mình. Muốn vậy doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới cải tiến kỹ
thuật, cải tiến tổ chức quản lý,… tăng năng suất lao động. Tất cả mọi doanh nghiệp
đều lỗ lực cạnh tranh và ngày càng thúc đẩy quá trình cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển ngày một hoàn thiện
hơn. Qua đây cho ta thấy QLGT có vai trò rất lớn đối với nền sản xuất xã hội. Quy luật
giá trị kích thích sản xuất dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết, nó thúc đẩy giảm
những hao phí đó và phát triển sản xuất dựa trên cơ sở khoa học kỹ thuật mỗi ngày
một tiến bộ.
1.3.3. Lựa chọn tự nhiên, phân hoá người sản xuất thành kẻ giầu người nghèo.
Trong quá trình cạnh tranh của nền kinh tế thị trường thì không phải mọi doanh
nghiệp đều giành phần thắng cả, mà phải có kẻ thắng người thua. Những người có chi
phí cá biệt thấp thì sẽ giành chiến