Nền kinh tế nước ta trong những năm qua đã đạt được những thành tích đáng
kể, nhất là kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Đời sống kinh tế xã hội ở nông thôn
nước ta đã có nhiều thay đổi. Bên cạnh những thành quả đạt được đó, một trong
những vấn đề xã hội bức xúc nhất vẫn là giải quyết việc làm cho người lao động
nông thôn.
Không có việc làm, nguồn nhân lực sẽ bị lãng phí, tăng trưởng kinh tế bị kìm
hãm, thu nhập của người lao động giảm sút, tệ nạn xã hội và tội phạm phát triển dẫn
đến mất ổn định về kinh tế xã hội.
27 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2053 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Trình bày một số vấn đề liên quan đến lao động và việc làm cho người lao động ở nông thôn nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Trình bày một số vấn đề liên
quan đến lao động và việc làm
cho người lao động ở nông thôn
nước ta hiện nay
Lời nói đầu
Nền kinh tế nước ta trong những năm qua đã đạt được những thành tích đáng
kể, nhất là kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Đời sống kinh tế xã hội ở nông thôn
nước ta đã có nhiều thay đổi. Bên cạnh những thành quả đạt được đó, một trong
những vấn đề xã hội bức xúc nhất vẫn là giải quyết việc làm cho người lao động
nông thôn.
Không có việc làm, nguồn nhân lực sẽ bị lãng phí, tăng trưởng kinh tế bị kìm
hãm, thu nhập của người lao động giảm sút, tệ nạn xã hội và tội phạm phát triển dẫn
đến mất ổn định về kinh tế xã hội.
Chính vì vậy, đề án này không có tham vọng trình bày tất cả các khía cạnh liên
quan đến phát triển nông thôn nói chung mà chỉ có ý định trình bày một số vấn đề
liên quan đến lao động và việc làm cho người lao động ở nông thôn nước ta hiện
nay.
Chương I
Những vấn đề cơ bản về việc làm và ảnh hưởng
của việc làm ở nông thôn tới phát triển
kinh tế xã hội nước ta
I-/ Một số khái niệm cơ bản:
1-/ Việc làm:
Việc làm theo quy định của Bộ Luật lao động là những hoạt động có ích
không bị pháp luật ngăn cấm và đem lại thu nhập cho người lao động (Điều 13 -
Chương II - Bộ Luật lao động).
2-/ Dân số hoạt động kinh tế:
Là những người đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm
nhưng có nhu cầu làm việc.
3-/ Người có việc làm:
Là những người đang hoạt động trong nền kinh tế quốc dân để nhận tiền công
- tiền lương, lợi nhuận; Người có việc làm nhưng không có thu nhập, lợi nhuận đó
là những người làm việc trong gia đình mình và những người trước đó có việc làm
nhưng trong tuần lễ điều tra không có việc làm.
3.1. Người đủ việc làm:
Bao gồm những người có số giờ làm việc trong tuần lễ trước điều tra lớn hơn
hoặc bằng 40 giờ; hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 40 giờ nhưng
không có nhu cầu làm thêm; hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 40 giờ
những được pháp luật quy định (đối với những lao động làm công việc nặng nhọc,
độc hại, nguy hiểm).
3.2. Người thiếu việc làm:
Gồm những người trong tuần lễ trước điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 40
giờ; hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn quy định (đối với những người làm công việc
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm) nhưng có nhu cầu làm thêm giờ và sẵn sàng làm
việc nhưng không có việc để làm.
4-/ Người thất nghiệp:
Là những người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà
trước tuần lễ điều tra không có việc làm và họ có hoạt động đi tìm việc làm hoặc
không đi tìm việc làm vì lý do không biết tìm việc ở đâu; hoặc những người trong
tuần lễ điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ hoặc 183 ngày trên 12 tháng
muốn làm việc nhưng không tìm được việc làm.
5-/ Tỷ lệ người có việc làm:
Tỷ lệ người có việc làm là phần trăm của số người có việc làm so với dân số
hoạt động kinh tế.
Tỷ lệ người có việc làm =
Số người có việc làm
Dân số hoạt động kinh tế x 100
6-/ Tỷ lệ người thất nghiệp:
Tỷ lệ người thất nghiệp là phần trăm của số người thất nghiệp so với dân số
hoạt động kinh tế.
Tỷ lệ người thất nghiệp =
Số người thất nghiệp
Dân số hoạt động kinh tế x 100
II-/ ảnh hưởng của việc làm ở nông thôn tới phát triển kinh tế xã hội nước ta:
Sau hơn 10 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng nước ta đã thoát khỏi
tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Mặc dù điểm xuất phát của nền kinh tế còn
thấp, sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu, song nhờ phát huy nội lực cùng với tranh
thủ sự hợp tác quốc tế nên nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu
quan trọng:
Sản lượng toàn ngành nông - lâm - ngư nghiệp tăng trưởng nhanh và ổn định,
đạt bình quân 4,3%/năm. Sản lượng lương thực tăng bình quân 1,3 triệu tấn/năm
(tăng 5,7%/năm). Lương thực bình quân đầu người tăng từ 281 kg (1987) lên 398
kg (1997), tạo khả năng đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và đưa Việt Nam
thành một nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới (xuất khẩu trên 3 triệu tấn gạo/năm,
đứng thứ 2 trên thế giới)1.
Để có được những thành tựu quan trọng đó thì vấn đề phân công và sử dụng
lao động nông thôn đóng vai trò vô cùng to lớn. Trong những năm qua chúng ta đã
từng bước giải phóng tiềm năng lao động, người lao động trở thành người chủ thực
sự trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trên cơ sở lấy hộ gia đình làm
đơn vị kinh tế tự chủ sự thay đổi cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế nhiều thành phần
đã tạo ra động lực to lớn để phát triển kinh tế, giúp cho quá trình giải quyết việc
làm, sử dụng lao động có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó chúng ta luôn khuyến khích
người lao động nông thôn lực chọn các công việc, ngành nghề phù hợp với khả
năng của họ. Điều này giúp cho chuyên môn hoá trong lao động ngày càng sâu sắc,
ai thạo việc gì làm việc ấy. Tất cả những hoạt động đó đã giúp cho kinh tế nông
thôn ngày càng phát triển góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội cả nước phát triển.
1 Tham khảo số liệu của Tiến sĩ Nguyễn Lê Minh - Bộ Lao động thương binh
và xã hội.
chương II
thực trạng lao động - việc làm ở nông thôn
nước ta hiện nay
Việc Nam là một nước nông nghiệp. Hiện nay vẫn còn gần 80% dân số sinh
sống ở vùng nông thôn, lực lượng lao động nông thôn chiếm 75% lực lượng lao
động của cả nước. Mỗi năm lực lượng này được bổ sung thêm khoảng 1 triệu người.
Đất canh tác ít, kinh tế nông thôn còn kém đa dạng, tập trung chủ yếu là kinh tế
nông nghiệp. Bởi vậy khả năng thu hút lao động và giải quyết việc làm cho bản thân
số lao động hiện có và số lao động mới gia tăng là hết sức khó khăn.
Nắm bắt được nông thôn là nơi cư trú, sinh sống và làm ăn của một bộ phận
lớn lao động và dân cư cả nước cũng như nắm bắt được tầm quan trọng của phát
triển nông thôn trong bối cảnh phát triển chung của đất nước Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII (tháng 6-1996) đã nhấn mạnh:
“công nghiệp hoá đất nước trước hết là công nghiệp hoá nền kinh tế nông thôn”.
Bàn về lao động và việc làm nông thôn hiện nay ta cần chú ý tới một số nét sau:
1-/ Việt Nam là một nước nông nghiệp có lực lượng lao động nông thôn khá
đông đảo:
Đến năm 1997, nguồn lao động xã hội có khoảng gần 43 triệu người, chiếm
53,37% dân số cả nước. Trong đó khu vực nông thôn có trên 32 triệu người chiếm
khoảng 74,4% tổng nguồn lao động. Cùng với xu hướng giảm dần diện tích đất
canh tác (mỗi năm đất nông nghiệp giảm trung bình 2000ha) mỗi năm ở nông thôn
tăng thêm khoảng 67 vạn lao động1. Thêm vào đó, ruộng đất liên tục bị chia nhỏ,
vụn vặt do bắt nguồn từ hiện tượng lập gia đình sớm, tách hộ nhanh. Theo tài liệu
điều tra của Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp Bộ nông nghiệp và phát triển
1 Số liệu được tham khảo từ bài viết: “Về sử dụng nguồn lao động ở nông
thôn hiện nay” - PTS. Trần Văn Luận - Bộ lao động thương binh và xã hội -
Tạp chí kinh tế dự báo, 1998.
nông thôn năm 1996 thì tại một số huyện của Thanh Hoá, Thái Bình, Ninh Bình
trung bình mỗi hộ có từ 6 đến 12 khoảng đất (mỗi khoảng rộng trên dưới 200 m2).
Các số liệu thống kê cho ta thấy số liệu sau:
Lực lượng
lao động
nông thôn
Lực lượng lao động
nông thôn trong độ
tuổi lao động
Số người thiếu việc làm ở nông thôn
Tổng
số
Từ 15-24 tuổi Từ 25-34 tuổi
Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
32 tr 27 tr 7,2 tr 2,63 tr
36-37
(%)
2 tr
27-28
(%)
Nguồn: Số liệu ở bảng này tham khảo từ bài viết: “Phát triển dạy nghề cho
thanh niên nông thôn nhằm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn”
của Lê Doãn Khải - Tạp chí lao động xã hội, 3/1999.
Các tỉ lệ này cho thấy tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn hiện nay khá trầm
trọng và chủ yếu lại ở vào lứa tuổi thanh niên là số lao động khoẻ mạnh, nhanh
nhạy và có khả năng tiếp thu nhanh các kiến thức mới.
Bên cạnh vấn đề số lượng dân số bước vào độ tuổi lao động tăng nhanh gây ra
hiện tượng dư thừa lao động, hơn nửa triệu lao động dôi dư phải trở về làm ruộng,
trong những năm qua do tinh giảm biên chế ở khu vực Nhà nước cũng được coi là
một lý do đáng kể gây ra sức ép lớn đối với vấn đề việc làm ở nông thôn. Ngày nay
quá trình đô thị hoá diễn ra rất mạnh, đất nông nghiệp mất dần nhất là ở các vùng
ven đô, ven đường giao thông. Theo báo cáo điều tra của Viện quy hoạch và thiết kế
nông nghiệp năm 1996 cho thấy diện tích đất canh tác tính bình quân cho một lao
động nông thôn Việt Nam rất thấp (0,3 ha/1 lao động) thời gian làm việc nông
nghiệp thấp (khoảng 4-7 tiếng/ngày). Chỉ có khoảng 18% lao động nông nghiệp làm
210 ngày/năm còn lại làm dưới 200 ngày/năm. Đặc biệt có khoảng 21% làm việc
90 ngày/năm. Theo tính toán nếu như chỉ là lao động thuần nông, với số lượng
người lao động và với quỹ đất canh tác như hiện thời thì lao động nông thôn dư
thừa khoảng 30% (8-9 triệu người).
Thế nhưng đánh giá một cách khách quan, tình trạng việc làm ở khu vực nông
thôn nhìn chung bước đầu đã có những chuyển biến tích cực, biểu hiện cụ thể là:
Số người hoạt động kinh tế trong 12 tháng qua (xét ở cuối năm 1997) thiếu
việc làm tính đến thời điểm điều tra ở nông thôn cả nước đã giảm từ 27,65% năm
1996 xuống còn 25,47% năm 1997.
Trong 7 vùng lãnh thổ thì có các số liệu sau:
Đồng bằng Sông Hồng (từ 31,9% giảm còn 28,96%)
Đồng bằng Sông Cửu Long (từ 30,94% giảm còn 28,46%).
Các vùng còn lại có 3 vùng giảm 2 vùng tăng. Tuy nhiên tỷ lệ tăng giảm này
không đáng kể.
Nguồn: Báo cáo kết quả điều tra lao động - việc làm năm 1997.
Hơn nữa tỉ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn cuối năm
1997 đã được nâng cao hơn so với năm 1996. Tính chung cả nước đã tăng được từ
72,11% lên 72,90% (với dân số từ đủ 15 tuổi trở lên tới hết độ tuổi hoạt động kinh
tế). Cả trên 7 vùng lãnh thổ đều đạt tỉ lệ thời gian lao động được sử dụng gần 72%
trở lên. Năm 1996 chỉ có 4 vùng đạt tỉ lệ trên 72%, còn 3 vùng tỉ lệ này từ 62% đến
71% (Nguồn: Báo cáo kết quả điều tra lao động việc làm năm 1997).
2-/ Mặc dù có lực lượng lao động đông đảo về số lượng, song chất lượng
nguồn lao động nông thôn lại hết sức khiêm tốn, nếu không muốn nói là
còn yếu kém:
Lao động nông thôn có ưu thế phần đông là lao động trẻ khoẻ, song cái hạn
chế lớn nhất là trình độ chuyên môn, kỹ thuật không cao. Hơn nữa số lao động có
chuyên môn nghiệp vụ qua đào tạo tại khu vực nông thôn lại phân bố không đều,
không hợp lý theo chuyên môn của mình. Kết quả nghiên cứu của trung tâm nghiên
cứu dân số và nguồn lao động trong chương trình KX03 do Trung tâm khoa học xã
hội nhân văn quốc gia chủ trì cho thấy: Chiều cao trung bình của lao động nông
thôn là 156 cm, trọng lượng trung bình là 48 kg, trẻ, khoẻ. Tuy nhiên chỉ có 10% số
lao động có trình độ trung học, cao đẳng và đại học trở lên trong khu vực nông thôn
là được đào tạo về lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp. Về trình độ văn hoá, các số
liệu ở chương trình KX03 này cho thấy: Tỷ lệ tốt nghiệp PTTH là 59%, tốt nghiệp
PTCS là 10%, tốt nghiệp tiểu học là 10%; biết đọc, biết viết là 4,5% chưa biết chữ
là 1,5%.
Xã hội ngày càng phát triển với trình độ khoa học công nghệ hiện đại đòi hỏi
phải có đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn hoá cao, biết phát triển và hoàn
thiện mình. Thế nhưng trong các cơ sở sản xuất có tới 55% số lao động đang làm
việc chưa qua đào tạo nghề, trong các hộ ngành nghề tỷ lệ là 84% riêng lao động trẻ
thì tỷ lệ này là 65,4%. Với chất lượng lao động như vậy thì quả là một thách thức
lớn cho nước ta nếu muốn nông nghiệp và nông thôn phát triển.
Do trong một thời gian dài chúng ta chưa có một chiến lược đào tạo nghề cho
lao động nông thôn nên phần lớn lao động nông thôn nói chung và lao động trẻ
nông thôn nói riêng hiện đang làm việc trong tình trạng không được đào tạo nghề
một cách hệ thống. Tình trạng này đã cho thấy một bức tranh rất đáng lo ngại ở
nông thôn là: có tới 95,6% lao động trẻ làm việc chủ yếu bằng cơ bắp, lao động trí
óc và kỹ thuật chỉ chiếm 4,4% (Nguồn: tham khảo từ bài viết: “Phát triển và dạy
nghề cho thanh niên nông thôn nhằm công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn” - Lê Doãn Khải - Tạp chí lao động xã hội, tháng 3/1999).
Rõ ràng, đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản của việc chậm
chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH-HĐH trong nông nghiệp nông thôn và
đây cũng là một thách thức lớn trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
3-/ Về cơ cấu kinh tế, phân bố và sử dụng nguồn lao động:
Mặc dù trong mấy thập niên qua chúng ta đã đẩy mạnh công tác phân bố lại
lao động dân cư trên phạm vi toàn quốc song sự chênh lệch mật độ dân cư giữa các
vùng khá lớn, diện tích đất nông nghiệp bình quân trên một lao động chênh lệch gấp
nhau tới 3 lần. Cơ cấu lao động nông thôn còn lạc hậu kèm với nó là quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm chạp và kém hiệu quả. Về cơ bản ở nông
thôn Việt Nam vẫn là sản xuất tự cung, tự cấp, hệ số sử dụng ruộng đất chỉ đạt từ 1 -
2 lần. (Nguồn: số liệu tham khảo từ bài viết: “Về sử dụng nguồn lao động ở nôn
thôn hiện nay” - PTS. Trần Văn Luận - Bộ lao động thương bình và xã hội - Tạp chí
kinh tế dự báo, 1999).
Trong nông thôn, cơ cấu lao động xã hội có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ
trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp với mức độ còn
chậm.
Theo kết quả điều tra lao động việc làm toàn quốc năm 1997 (Bộ lao động
thương binh và xã hội và Tổng cục thống kê) cho thấy tỷ lệ lao động nông nghiệp
chiếm 77,98%, công nghiệp và xây dựng chiếm 6,86% còn dịch vụ chiếm 15,06%
(trong tổng số 27.857.460 lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế xã hội ở
nông thôn). Tỉ lệ này của các vùng được biểu thị ở bảng sau:
cơ cấu phân bố lao động nông thôn theo ngành kinh tế
(năm 1997)
Đơn vị: người
Vùng Tổng số
Chia theo nhóm ngành kinh tế
Nông - Lâm - Ngư Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ
Số lượng % Số lượng % Số lượng %
Nông thôn cả nước 27.857.460 21.721.150 77,98 1.910.205 6,85 4.196.105 15,06
Miền núi và trung du 5.500.581 5.087.070 92,48 113.630 2,07 299.881 5,45
Đồng bằng sông Hồng 5.723.913 4.393.281 76,82 458.802 8,02 867.830 15,16
Khu bốn cũ 4.021.525 3.319.453 82,54 249.403 6,20 452.669 11,26
Duyên Hải miền trung 2.785.685 2.087.961 74,95 210.499 7,56 487.225 17,49
Tây Nguyên 1.104.727 984.637 86,33 25.630 2,32 94.760 8,55
Đông Nam Bộ 2.320.972 1.287.482 55,47 359.594 15,49 673.896 29,04
Đồng bằng sông Cửu Long 6.400.057 4.587.266 71,68 492.647 7,69 1.320.144 20,63
Nguồn: Điều tra lao động việc làm toàn quốc năm 1997 (Bộ LĐ - TB và xã hội và Tổng cục thống kê)
Trong thời gian qua một số địa phương đã có nhiều mô hình chuyển dịch cơ
cấu lao động giải quyết việc làm tăng thu nhập. Ví dụ: huyện Quỳ Hợp là một
huyện miền núi phía Tây Bắc tỉnh Nghệ An. ở Quỳ Hợp diện tích đất trồng lúa nước
rất hạn chế (chỉ chiếm 29,7% diện tích gieo trồng và 3,8% diện tích đất tự nhiên).
Huyện đã biết khai thác triệt để tiềm năng kinh tế của một huyện miền núi, mà trước
hết là tiềm năng kinh tế rừng để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về tính chất và cơ
cấu của nền sản xuất. Bởi vậy tỷ trọng giá trị nông - lâm nghiệp trong GDP giảm
mạnh từ 78,5% năm 1994 xuống 66,7% năm 1996. Tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp đã bắt đầu tăng lên từ 14,34% lên 24,3% trong khoảng thời gian tương
ứng. Số lượng đàn gia súc, gia cầm cũng tăng lên đáng kể trong khoảng thời gian từ
năm 1991 - 1996 cụ thể: đàn trâu bò tăng từ 11.455 con lên 29.437 con, đàn lợn
tăng từ 23.550 con lên 30.859 con và đàn dê tăng từ 300 con lên 1.500 con.
Sở dĩ kinh tế huyện Quỳ Hợp có chiều hướng phát triển tích cực đó là do
huyện đã tiến hành chuyển dịch cơ cấu nền sản xuất nói chung và cơ cấu ngành
nông - công nghiệp nói riêng. Tuy nhiên sự tăng trưởng và chuyển dịch kinh tế như
trên là chưa ngang tầm với tiềm năng của huyện.
4-/ Tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn đã và đang được
thực hiện, nhằm tiến tới một nông thôn phát triển bền vững, kinh tế tăng
trưởng, công bằng xã hội được thực hiện. Nó không tách rời với việc xoá
đói giảm nghèo bởi người nghèo ở nông thôn chiếm phần lớn trong số
người nghèo của cả nước.
Mặc dù nước ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, nhưng hiện tượng
hộ đói, hộ nghèo ở nông thôn vẫn còn phổ biến. Sau 10 năm đổi mới tổng sản lượng
lương thực tăng gấp 2 lần, song bình quân lương thực trên đầu người chỉ tăng
khoảng 60 kg và vẫn còn ở mức 300 kg/người/năm. Ngay ở Đồng bằng Sông Cửu
Long - vựa lúa của cả nước mà bình quân lương thực trên đầu người mới đạt mức
600 kg/người/năm. ở khu vực này sản lượng lương thực tăng 4 lần từ 2,7 triệu
tấn/năm lên 11 triệu tấn/năm. Diện tích cây lương thực bình quân đầu người giảm từ
0,5 ha/người xuống còn 0,15 ha/người. Người nông dân nếu chỉ làm trồng trọt thì
cùng lắm mới đủ ăn chứ không thể trở thành giàu có được bởi vì làm nông nghiệp
thì hệ số sử dụng đất thấp, năng suất thấp, giá của nông sản lại không cao.
Theo kết quả điều tra cho thấy hộ gia đình nông thôn nghèo tuyệt đối chiếm
khoảng 29,6% - 35,65% số hộ đói 5,7% - 7,9%. Các gia đình nghèo đói thường có
nhiều ở vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, vùng thường xuyên bị mất mùa (Nguồn:
tham khảo số liệu báo cáo vấn đề xoá đói giảm nghèo - thầy Nguyễn Hải Hữu - Bộ
lao động thương binh và xã hội).
Xoá đói giảm nghèo đang được coi là nhiệm vụ trọng tâm của chương trình phát
triển hoá nông thôn đang được Đảng và Nhà nước quan tâm, nó không chỉ đem lại
công bằng văn minh cho xã hội mà còn có tính nhân đạo rất cao.
5-/ Luồng di dân tự do từ nông thôn ra đô thị ngày càng tăng. Trong luồng di
dân gồm có người di dân thông thường và người di dân tạm thời:
ở những người di dân thông thường: quá trình di dân của họ là để thay đổi về
không gian sinh sống và làm việc nhằm mục đích tạo ra một nơi sinh sống mới tốt
đẹp hơn. ở đây ta đặc biết chú ý tới người di dân tạm thời, họ là những người di dân
đến thành phố tìm việc trong thời gian nông nhàn, khi đến thời kỳ mùa vụ thì họ
quay trở về quê cũ để làm công việc đồng áng.
Di dân nói chung và di dân tạm thời nói riêng ảnh hưởng tới chất lượng và số
lượng nguồn lao động nông thôn. Bên cạnh việc làm giảm đi sức ép về việc làm ở khu
vực nông thôn còn ảnh hưởng tới chất lượng: Di dân tạm thời đa số là những người
trong độ tuổi lao động, trẻ, có sức khoẻ, có khả năng chấp nhận lao động nặng nhọc
làm những công việc mà người dân đô thị không muốn làm. Phần lớn người di dân tạm
thời là nam giới, hệ số giới tính là 4,57 (cứ 457 nam thì có 100 nữ) trong khi hệ số này
của di dân thông thường là 1,03 như vậy việc nặng nhọc ở nông thôn sẽ không có nhiều
người có sức lực cáng đáng. Điều này làm cho chất lượng nguồn lao động ở nông thôn
sẽ ngày càng suy giảm nếu không có những giải pháp xử lý hữu hiệu (Nguồn: tham
khảo từ bài viết: “Những đặc trưng chính của người di dân tạm thời tìm việc làm ở đô
thị Hà Nội” - Tạp chí thông tin thị trường lao động, năm 1998).
Hơn nữa, nếu không được quản lý và tổ chức thì di dân tạm thời cũng là nguồn
gốc của tệ nạn xã hội, như người lao động ở chợ lao động bị các cai, trùm bóc lột
tàn nhẫn thậm chí bị đe doạ đến tính mạng và đây còn là nguồn gốc của các tệ nạn
xã hội ở thành phố.
chương III
Những giải pháp chính để giải quyết vấn đề lao động - việc làm trong khu vực
nông thôn
Giải quyết vấn đề lao động - việc làm ở nông thôn phải đặt trong bối cảnh
chung của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Coi trọng thực hiện
CNH-HĐH trong phát triển nông nghiệp (gồm cả lâm nghiệp - ngư nghiệp - diêm
nghiệp) và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất
lớn là nhiệm vụ quan trọng cả ở trước mắt và lâu dài.
1-/ Phát triển kinh tế xã hội nói chung, phát triển nông nghiệp và xây dựng
nông thôn nói riêng nhằm tạo mở việc làm.
Đây là nhánh hoạt động quan trọng nhất liên quan tới vấn đề giải quyết việc
làm cho người lao động, nó quyết định cơ bản tới việc tăng hoặc gi