Đề cương bài giảng kinh tế bảo hiểm

Tổn thất là sự thiệt hại của một đối tượng nào đó phát sinh từ một biến cố bất ngờ ngoài ý muốn của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu sử dụng Rủi ro là sự không chắc chắn, khả năng gặp nguy hiểm hoặc bị đau đớn thiệt hại Trong sản xuất con người luôn có nguy cơ gặp phải rủi ro vì những nguyên nhân khác nhau, như: bão lụt, hạn hán, ốm đau, bệnh tật, tai nạn. Mặt khác trong cuộc sống con người cũng phải đối mặt với rủi ro như: bệnh tật, tai nạn Mỗi khi gặp phải rủi ro thường gây nên những hậu quả khó lường làm ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất và đến sức khoẻ của con người. Bởi vậy, ngay từ khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu cầu an toàn đối với con người cũng xuất hiện và nó là một trong những nhu cầu vĩnh cửu. Lúc nào con người cũng tìm cách bảo vệ chính bản thân mình và tài sản của mình trước những rủi ro trong cuộc sống cũng như trong sản xuất. Phương pháp bảo vệ lúc đầu là rất đơn giản và đôi khi là mù quáng, bằng cách họ luôn luôn cầu xin các đấng thần linh và chúa trời phù hộ để được yêu ổn, an toàn. Và chẳng bao lâu con người đã tìm ra cách thức bảo vệ một cách có tổ chức

doc101 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1945 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề cương bài giảng kinh tế bảo hiểm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM VÀ KINH TẾ BẢO HIỂM 1.1. Những vấn đề chung về bảo hiểm 1.1.1. Sự cần thiết khách quan và bản chất của bảo hiểm 1.1.1.1 Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm - Rủi ro và hậu quả của rủi ro (tổn thất) Tổn thất là sự thiệt hại của một đối tượng nào đó phát sinh từ một biến cố bất ngờ ngoài ý muốn của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu sử dụng Rủi ro là sự không chắc chắn, khả năng gặp nguy hiểm hoặc bị đau đớn thiệt hại Trong sản xuất con người luôn có nguy cơ gặp phải rủi ro vì những nguyên nhân khác nhau, như: bão lụt, hạn hán, ốm đau, bệnh tật, tai nạn. Mặt khác trong cuộc sống con người cũng phải đối mặt với rủi ro như: bệnh tật, tai nạn … Mỗi khi gặp phải rủi ro thường gây nên những hậu quả khó lường làm ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất và đến sức khoẻ của con người. Bởi vậy, ngay từ khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu cầu an toàn đối với con người cũng xuất hiện và nó là một trong những nhu cầu vĩnh cửu. Lúc nào con người cũng tìm cách bảo vệ chính bản thân mình và tài sản của mình trước những rủi ro trong cuộc sống cũng như trong sản xuất. Phương pháp bảo vệ lúc đầu là rất đơn giản và đôi khi là mù quáng, bằng cách họ luôn luôn cầu xin các đấng thần linh và chúa trời phù hộ để được yêu ổn, an toàn. Và chẳng bao lâu con người đã tìm ra cách thức bảo vệ một cách có tổ chức - Các biện pháp đối phó với rủi ro (phương thức xử lý rủi ro) Trong cuộc sống và sản xuất ngày càng phát triển thì nhu cầu an toàn cũng được con người ngày càng quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt là khi khoa học, kỹ thuật và công nghệ phát triển, một mặt đã làm tăng năng xuất lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống của con người, nhưng mặt khác nguy cơ gặp rủi ro của con người cũng ngày càng nghiêm trọng. Để đối phó với rủi ro và khắc phục hậu quả tổn thất, lúc này con người đã tìm ra nhiều cách thức khác nhau để phòng vệ. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, những cách thức này thể hiện chủ yếu ở hai nhóm biện pháp là kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro. * Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm biện pháp tránh né rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu tổn thất + Tránh né rủi ro là biện pháp được sử dụng phổ biến trong cuộc sống. Mỗi cá nhân, mỗi tổ chức đều có thể lựa chọn những biện pháp thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra nhằm loại nguy cơ dẫn đến bị tổn thất. Chẳng hạn, để né tránh tai nạn giao thông người ta đã hạn chế việc đi lại, hay để phòng tránh tai nạn lao động, người ta sẽ chọn những ngành nghề ít nguy hiểm hơn … Tuy vậy, trong cuộc sống mà nhất là cuộc sống hiện đại như ngày nay biện pháp này rất khó thực hiện và thậm chí là không thể thực hiện được. + Ngăn ngừa tổn thất. Đây là biện pháp khá chủ động cách thực hiện các hành vi và hành động cụ thể mà các cá nhân và tổ chức đưa ra nhằm giảm mức độ thiệt hại khi gặp rủi ro. Chẳng hạn, để giảm bớt TNLĐ người ta đã tổ chức các khoá học cho người lao động về an toàn, vệ sinh lao động. Hay để phòng chống hoả hoạn, người ta đã thực hiện tốt công tác phòng cháy chữa cháy … + Giảm thiểu tổn thất. Cho dù khi đã gặp phải rủi ro, người ta vẫn có thể có các biện pháp làm giảm thiểu tổn thất. Ví dụ, khi hoả hoạn xảy ra, để giảm thiểu tổn thất người ta đã sử dụng biện pháp cứu hoả. Hay khi bị tai nạn, dể giảm thiểu các thiệt hại về người, người ta đã đưa những người bị thương đi cấp cứu kịp thời và điều trị … * Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. + Chấp nhận rủi ro. Đây là biện pháp mà con người tự chấp nhận tổn thất khi gặp phải rủi ro, điều đó cũng có nghĩa là họ tự bảo hiểm. Chẳng hạn, người ta có thể tự lập ra quỹ dự trữ, dự phòng và quỹ này chỉ được sử dụng để bù đắp tổn thất khi gặp phải rủi ro. Hoặc khi rủi ro xảy ra, người ta có thể đi vay mượn tiền bạc để khắc phục hậu quả. + Bảo hiểm. Đây là biện pháp chuyển giao rủi ro rất có hiệu quả. Có nghĩa là, nhiều người cùng có khả năng gặp phải rủi ro đóng góp tiền bạc để hình thành quỹ bảo hiểm và quỹ này được dùng chủ yếu vào mục đích bồi thường hoặc chi trả khi một hay một số người tham gia đóng góp gặp phải rủi ro tổn thất. Theo đà phát triển của lịch sử và của các hình thái kinh tế xã hội cho thấy, trong số tất cả các biện pháp thuộc hai nhóm biện pháp nêu trên, biện pháp bảo hiểm mà con người áp dụng là phổ biến và có hiệu quả nhất. Bởi lẽ, hậu quả của rủi ro thông qua bảo hiểm sẽ được phân tán cho nhiều người cùng gánh chịu. Bảo hiểm là hình thức chuyển giao rủi ro hữu hiệu nhất. Hơn nữa, bảo hiểm không chỉ thuần tuý là sự chuyển giao, sự chia sẻ rủi ro, mà nó còn là sự giảm thiểu rủi ro, giảm thiểu tổn thất, thông qua các chương trình quản lý rủi ro được phối hợp giữa các cá nhân, các tổ chức kinh tế - xã hội với các tổ chức bảo hiểm. - Mặt khác, trong điều kiện phát triển nền KTTT có sự quản lí vĩ mô của Nhà nước cũng đòi hỏi phải có quĩ dự trữ bảo hiểm. Để tạo ra hành lang môi trường thuận lợi, đặc biệt giữ cho nền tài chính, tiền tệ, giá cả, chính trị xã hội ổn định tất yếu Nhà nước phải có lực lượng dự trữ vật tư, tài chính đủ mạnh để can thiệp vào nền kinh tế mỗi khi có những biến động kinh tế xã hội làm ảnh hưởng tới việc thực hiện kế hoạch Nhà nước đã hoạch định * Bản chất của bảo hiểm - Khái niệm cơ bản về bảo hiểm + Dưới góc độ tài chính, người ta cho rằng: “Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi”. + Dưới góc độ pháp lý, giáo sư Hemard đưa ra khái niệm: “Bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó, một bên là người được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền (phí bảo hiểm hay đóng góp bảo hiểm) cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để trong trường hợp rủi ro xảy ra, sẽ được trả một khoản tiền bồi thường từ một bên khác là người được bảo hiểm, người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt hại theo phương pháp của thống kê”. + Dưới góc độ kinh doanh bảo hiểm, các công ty, các tập đoàn bảo hiểm thương mại trên thế giới: “Bảo hiểm là một có chế, theo cơ chế này một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi roc ho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiẻm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những được bảo hiểm” … + Khái niệm mang tính chung nhất của bảo hiểm: “Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn với quá trình hình thành, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm nhằm xử lý các rủi ro các biến cố bảo hiểm, bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội diễn ra bình thường”. Bản chất của bảo hiểm + Là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội giữa những người tham gia bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu về tài chính phát sinh khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm. Quá trình phân phối này là phân phối lại (diễn ra ngoài lĩnh vực sản xuất) và không đều giữa những người tham gia bảo hiểm (có người đóng góp ít, người đóng góp nhiều), không mang tính hoàn trả trực tiếp (chỉ khi đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro thì mới được bồi thường). + Rủi ro và sự tồn tại của rủi ro là nguồn gốc của bảo hiểm vì bảo hiểm ra đời là để phân tán chia sẻ rủi ro + Cơ chế chuyển giao trong bảo hiểm được thực hiện giữa bên tham gia bảo hiểm và bên bảo hiểm thông qua các cam kết bảo hiểm. Theo cơ chế này bên tham gia bảo hiểm phải nộp phí bảo hiểm và bên bảo hiểm cam kết bồi thường hay chi trả tiền bảo hiểm khi đối tượng bảo hiểm hay người được bảo hiểm gặp phải rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. Tất nhiên rủi ro hay sự kiện bảo hiểm phải là ngẫu nhiên, khách quan mà hai bên đã thỏa thuận. + Phí bảo hiểm mà bên tham gia nộp cho bên bảo hiểm phải được thực hiện trước khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra. Ngược lại, khoản tiền mà bên bảo hiểm trả cho bên tham gia bảo hiểm hay cho người thứ 3 chỉ được thực hiện sau khi sự kiện bảo hiểm hay rủi ro xảy ra gây tổn thất. + Việc san sẻ rủi ro, bù trừ tổn thất trong bảo hiểm được bên bảo hiểm tính toán và quản lý dựa vào số liệu thống kê rủi ro và tình hình tổn thất, cũng như quỹ bảo hiểm mà họ thiết lập được dựa vào nguyên tắc số đông bù số ít. + Bảo hiểm thương mại là một hoạt động dịch vụ tài chính chứ không phải là hoạt động sản xuất Chính vì vậy, lợi ích của các bên phải được luật hóa rất cụ thể và vai trò quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này rất quan trọng và không thể thiếu được đối với mỗi quốc gia. 1.1.2.Đặc điểm và nguyên tắc chung của bảo hiểm . * Nguyên tắc chung của bảo hiểm -Nguyên tắc lấy số đông bù số ít. Dựa trên cơ sở nghiên cứu về qui luật số lớn, người ta có thể xác định được mức độ thiệt hại bình quân cho những khoảng thời gian nhất định. Để bù đắp những thiệt hại dự kiến đó, người ta phải phân tán rủi ro cho nhiều người gánh chịu dưới hình thức bảo hiểm phí mà không ảnh hưởng nhiều đến sản xuất và đời sống của người tham gia bảo hiểm. Số người tham gia bảo hiểm càng đông thì khả năng bù đắp càng lớn, độ an toàn rủi ro càng cao. Ngược lại, khi chỉ có số ít người tham gia bảo hiểm thì không thể duy trì sự hoạt động của các tổ chức bảo hiểm được. Vì vậy, trong bất kì loại hình bảo hiểm nào nguyên tắc này cũng được đề cao. -Các đối tượng tham gia bảo hiểm phải tham gia đóng bảo hiểm phí trước khi xảy ra rủi ro. -Rủi ro được bảo hiểm là rủi ro khách quan Những tổn thất do chủ quan, không thực hiện đúng qui định của pháp luật thì không được đền bù. * Đặc điểm chung của bảo hiểm - Phân phối của quĩ bảo hiểm không phải là sự phân phối đồng đều bình quân theo mức đóng góp. Khi tham gia bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có quyền nhận phân phối từ quĩ bảo hiểm nhưng không phải ai cũng nhận được phân phối và được nhận như nhau. Sở dĩ có hiện tượng đó là vì không phải ai tham gia bảo hiểm cũng đều gặp phải rủi ro và ngay cả khi gặp phải rủi ro thì mức độ thiệt hại cũng không giống nhau. - Việc phân phối, sử dụng quĩ bảo hiểm không xác định trước được về qui mô, thời gian diễn ra. Tổ chức bảo hiểm chỉ tiến hành trợ giúp, bồi thường khi rủi ro đã xảy ra và mức độ bồi thường trợ giúp được xác định dựa trên cơ sở những thiệt hại mất mát thực tế hoặc do luật định. Đây là đặc điểm riêng của bảo hiểm, khác với các khâu khác trong hệ thống tài chính. Ví dụ, trong quan hệ đi vay và cho vay của tín dụng thì qui mô tín dụng thời gian hoàn trả, lãi suất,... đã được xác định trước khi diễn ra hoạt động này. - Bảo hiểm là một hình thức dự trữ tài chính nhằm bù đắp và khắc phục những tổn thất thiệt hại đối với sản xuất kinh doanh và đời sống con người khi những biến cố bất lợi xảy ra. Cũng như các quĩ tiền tệ khác quĩ bảo hiểm được tạo lập thông qua quá trình phân phối của cải xã hội, việc tạo lập quĩ bảo hiểm có thể tự nguyện hoặc bắt buộc nhưng đều xuất phát từ nhu cầu cần được đảm bảo an toàn trong sản xuất kinh doanh và đời sống của con người, việc phân phối sử dụng quĩ chỉ được thực hện khi các biến cố bất lợi xảy ra đối với các đối tượng được bảo hiểm; khi các biến cố bất lợi không xảy ra thì người tham gia bảo hiểm không được bồi hoàn số tiền đã đóng bảo hiểm phí. Như vậy hoạt động bảo hiểm vừa mang tính chất bồi hoàn vừa mang tính chất không bồi hoàn, chính đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt quĩ bảo hiểm với các quĩ tiền tệ khác như: ngân sách Nhà nước, quĩ tín dụng... Việc nghiên cứu đặc điểm của bảo hiểm rủi ro có ý nghĩa thiết thực trong việc tổ chức quản lí quá trình tạo lập, phân phối sử dụng quĩ bảo hiểm. 1.1.3 Các yếu tố cấu thành bảo hiểm Ví dụ: Một sinh viên A tham gia bảo hiểm học sinh toàn diện tại công ty Bảo hiểm HN. Số tiền bảo hiểm là 10.000.0000. Hợp đồng có hiệu lực từ ngày 15/8/2006. Phí bảo hiểm đã trả đầy đủ. Ngày 20/10/2006, sinh viên đó bị tai nạn giao thông hậu quả bị vỡ xương phải vào viện phẫu thuật. Đã bó bột 30 ngày, khi tháo bột phát hiện xương bị lệnh phải bó lại. Thời gian điều trị 20 ngày tại bệnh viện. 1.1.3.1 Người bảo hiểm Là người chấp nhận yêu cầu bảo hiểm bằng việc giao kết hợp đồng bảo hiểm, cấp cho bên mua bảo hiểm hợp đồng bảo hiểm hoặc bằng chứng về hợp đồng bảo hiểm và ví thế có những quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận của hợp đồng bảo hiểm. Theo ví dụ trên, doanh nghiệp bảo hiểm là công ty bảo hiểm Hà Nội, ký kết hợp đồng bảo hiểm học sinh toàn diện với sinh viên A. Công ty bảo hiểm Hà Nội có quyền nhận phí bảo hiểm và bồi thường bảo hiểm khi sinh viên A gặp tai nạn 1.1.3.2. Người tham gia bảo hiểm Là các tổ chức, cá nhân đứng ra yêu cầu bảo hiểm và giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm. Để có thể giao kết được hợp đồng bảo hiểm người tham gia bảo hiểm phải đảm bảo các yêu cầu về nănng lực hành vi dân sự năng lực pháp luật dân sự. Theo ví dụ trên sinh viên A (trên 18 tuổi) đủ năng lực hành vi dân sự nên được phép giao kết hợp đồng bảo hiểm và bảo hiểm cho chính mình. Sinh viên A là người tham gia bảo hiểm. 1.1.3.3 Người được bảo hiểm Là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm, tính mạng, sức khỏe, khả năng lao động, tuổi thọ là đối tượng được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm . Thông thường người được bảo hiểm là người tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, những trường hợp người tham gia bảo hiểm khác người được bảo hiểm. Trong ví dụ trên sinh viên A vừa là người tham gia bảo hiểm vừa là người được bảo hiểm (theo chế độ bảo hiểm sinh viên toàn diện). Trong nhiều trường hợp người tham gia bảo hiểm là con cái mua bảo hiểm nhân thọ cho bố mẹ (người tham gia bảo hiểm là con cái và người được bảo hiểm là bố mẹ), bố mẹ mua bảo hiểm cho con cái (đối tượng tham gia bảo hiểm là bố mẹ và người được bảo hiểm là con cái) 1.1.3.4 Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm Là người được bồi thường hoặc nhận tiền trả bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm. Thông thường quyền lợi bảo hiểm thuộc về người được bảo hiểm. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp người được hưởng quyền lợi lại là người khác. Trong ví dụ trên: sinh viên A vừa là người tham gia bảo hiểm vừa là người được bảo hiểm vừa là người nhận quyền lợi bảo hiểm (khi có tai nạn xảy ra ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của sinh viên A). Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm có thể là bố mẹ cúa sinh viên A nếu sinh viên A bị tai nạn dẫn đến tử vong và được quy định rõ trong hợp đồng bảo hiểm 1.1.3.5 Đối tượng bảo hiểm Là những cái gì mà người tham gia bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm hoặc do pháp luật qui định bắt buộc phải bảo hiểm. Đối tượng bảo hiểm nói chung là tài sản, những lợi ích có liên quan đến tài sản hoặc trách nhiệm dân sự hoặc tính mạng, sức khỏe, khả năng lao động và tuổi thọ của con người. Trong ví dụ trên đối tượng bảo hiểm là tính mạng, sức khỏe của sinh viên A. 1.1.3.6. Rủi ro bảo hiểm Là mức độ hay khả năng xảy ra sự cố bảo hiểm, tức là một hoặc nhiều sự cố dự tính trong các điều kiện bảo hiểm mà khi những sự cố này xảy ra thì người bảo hiểm bắt buộc phải tiến hành trả tiền bồi thường tổn thất cho người tham gia bảo hiểm 1.1.3.7. Tai nạn bảo hiểm Là sự cố bảo hiểm đã xảy ra kéo theo trách nhiệm của người bảo hiểm phải bồi thường tổn thất cho người tham gia bảo hiểm Trong ví dụ trên tai nạn bảo hiểm là tai nạn giao thông của sinh viên A, do tai nạn nên sinh viên A phải vào bệnh viện bó bột. Tai nạn bảo hiểm là sự cố xương bị lệch sau khi bó bột. Tất cả các tai nạn này đều làm phát sinh trách nhiệm của người bảo hiểm là công ty bảo hiểm Hà Nội. Công ty bảo hỉểm Hàn Nội phải trả mọi khoản chi phí hợp lý phát sinh. 1.1.3.8. Giá trị bảo hiểm (GTBH) Là giá trị bằng tiền của tài sản tại ngày ký hợp đồng bảo hiểm Ví dụ: Một lô hàng xuất khẩu có tổng giá trị bảo hiểm (giá CIF) là 200.000 USD. Trong đó của: + Chủ hàng A: 120.000 USD + Chủ hàng B: 80.000 USD Con tàu tham gia bảo hiểm ngang giá trị với số tiền là 300.000 USD. Như vậy toàn bộ giá trị bảo hiểm trong chuyến hành trình của con tàu là: giá trị hàng + giá trị tàu = 500.000 USD 1.1.3.9. Số tiền bảo hiểm (STBH) Là số tiền tính cho từng loại tài sản được bảo hiểm mà trong giới hạn đó người bảo hiểm phải tiến hành trả tiền bồi thường tổn thất khi tai nạn bảo hiểm xảy ra đối với bảo hiểm tài sản, hoặc là số tiền phải trả cho đời sống và sức khoẻ đối với bảo hiểm thân thể. Hay nói cách khác, số tiền bảo hiểm là số tiền tối đa người bảo hiểm phải trả cho người tham gia bảo hiểm Giữa STBH và GTBH có mối quan hệ + Khi STBH bằng GTBH thì bảo hiểm này gọi là bảo hiểm đúng giá. Trong ví dụ trên (bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu) chủ tàu tham gia bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu theo đúng giá trị tứclà STBH = GTBH = 500.000 USD. + Khi STBH < GTBH thì bảo hiểm này gọi là bảo hiểm dưới giá trị + Khi STBH > GTBH thì bảo hiểm này gọi là bảo hiểm trên giá trị + Khi tài sản được bảo hiểm bởi nhiều hợp đồng bảo hiểm cho cùng một loại rủi ro với những doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau, những hợp đồng bảo hiểm này có điều kiện bảo hiểm giống nhau, thời hạn bảo hiểm trùng nhau và tổng số tiền bảo hiểm trên các hợp đồng đó lớn hơn nhiều lần so với giá trị bảo hiểm thì đây là bảo hiểm trùng. Thông thường bảo hiểm trùng liên quan đến sự gian lận của người tham gia bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm. Do đó, về nguyên tắc, doanh nghiệp bảo hiểm có thể hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm nếu phát hiện thấy hợp đồng bảo hiểm có sự gian lận. Nếu các doanh nghiệp chấp nhận bồi thường thì lúc này, trách nhiệm của mỗi công ty đối với tổn thất sẽ được phân chia theo tỷ lệ trách nhiệm mà họ đảm nhận. Cụ thể STBT của hợp đồng bảo hiểm A = Giá trị thiệt hại thực tế x STBH của hợp đồng A ∑ STBH - Lưu ý trường hợp đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự thì giới hạn trách nhiệm được xác định bằng các mức trách nhiệm. 1.1.3.10 Bồi thường bảo hiểm Là khoản tiền mà nhà bảo hiểm phải trả cho người được bảo hiểm (hoặc người thụ hưởng hợp pháp trên hợp đồng) khi rủi ro, tổn thất hoặc các trường hợp bảo hiểm khác xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm. Tùy thuộc vào loại hình bảo hiểm mà người ta sử dụng các từ ngữ khác nhau “số tiền bồi thường” cho các loại hình bảo hiểm thiệt hại (tài sản, trách nhiệm dân sự), “tiền bảo hiểm” cho các loại hình bảo hiểm con người. Trong ví dụ về bảo hiểm học sinh toàn diện bồi thường bảo hiểm là số tiền mà công ty bảo hiểm Hà Nội phải chi trả cho sinh viên A 1.1.3.11 Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho bên bảo hiểm. Thời hạn đóng phí bảo hiểm theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Phí bảo hiểm có thể đóng một lần hoặc theo định kỳ. Phí bảo hiểm phụ thuộc vào các yếu tố; giá trị của rủi ro, giá phí cho sự quản lý của người bảo hiểm, dự phòng cho tổn thất lớn hơn. Phí bảo hiểm là giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Do đó, quy mô hưởng quyền lợi bảo hiểm phụ thuộc vào mức phí mà bên mua bảo hiểm đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm. Đối với bảo hiểm tự nguyện, mức phí bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Đối với bảo hiểm bắt buộc, pháp luật quy định mức đóng phí bảo hiểm tối thiểu nên về nguyên tắc mức phí bảo hiểm do các bên thoả thuận không được thấp hơn mức tối thiểu 1.1.3.12.Tỷ lệ phí bảo hiểm: Là mức bảo hiểm phí tính trên một đơn vị của số tiền bảo hiểm cho một thời kỳ bảo hiểm nhất định (thường là một năm), nó được tính theo tỷ lệ % so với số tiền bảo hiểm hoặc là một số tiền tuyệt đối. 1.1.3.13 Thanh toán bảo hiểm Là việc nộp số tiền bảo hiểm phí theo từng đối tượng được bảo hiểm đúng với thời hạn đã được quy định trong hợp đồng bảo hiểm. 1.1.3.13. Phạm vi bảo hiểm Là số lượng tối đa các rủi ro có thể được bảo hiểm. Có nhiều rủi ro xảy ra với đối tượng bảo hiểm trong thời hạn bảo hiểm. Tuy nhiên chỉ có những rủi ro xảy ra do nguyên nhân khách quan, ngẫu nhiên, khi những rủi ro trên xảy ra có thể lượng hóa được mức thiệt hại về mặt tài chính đồng thời việc thiết l
Tài liệu liên quan