Đề cương bài giảng môn triết học, Chương IX lý luận hình thái kinh tế-Xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

NỘI DUNG CHƯƠNG IX LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NÓ NHẬN THỨC LẠI VỀ CNXH VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM

ppt47 trang | Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2831 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề cương bài giảng môn triết học, Chương IX lý luận hình thái kinh tế-Xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG MÔN TRIẾT HỌC CHƯƠNG TRÌNH CAO HỌC CHƯƠNG IX LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM NGƯỜI BIÊN SOẠN PGS.TS. NGUYỄN TẤN HÙNG TS. LÊ HỮU ÁI NỘI DUNG CHƯƠNG IX LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NÓ NHẬN THỨC LẠI VỀ CNXH VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM I. LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NÓ 1. Những cơ sở xuất phát để xây dựng lý luận hình thái kinh tế-xã hội - Các quan điểm trước Mác Trong lịch sử, đã có nhiều cách xuất phát để xem xét xã hội: - Chủ nghĩa duy tâm khách quan và tôn giáo: xuất phát từ một lực lượng siêu tự nhiên. - Một khuynh hướng khác, xuất phát từ chính con người, từ chính xã hội loài người - đó là trào lưu chủ nghĩa nhân bản. Tuy nhiên, do hạn chế duy vật máy móc siêu hình, duy tâm chủ quan nên những nhà triết học thuộc trào lưu này chưa có cái nhìn toàn diện đời sống xã hội. Chẳng hạn, CNDV Phoiơbac, chủ nghĩa hiện sinh của Jean Paul Sartre đều tự coi mình là chủ nghĩa nhân bản, nhưng chủ nghĩa nhân bản của Phoiơbắc thì xuất phát từ con người trừu tượng tách rời quan hệ xã hội và hoạt động thực tiễn; còn chủ nghĩa hiện sinh thì xem con người như một thực thể ý thức thuần túy, cuộc sống con người là phi lý (không thể dùng lý trí để giải thích được). - Quan điểm triết học mácxít Xây dựng CNDV lịch sử, Mác và Ăngghen xuất phát từ tiền đề sau đây: + Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử là sự tồn tại của những cá nhân con người đang sống. C. Mác và Ph. Ăngghen viết: “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Như vậy, những tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm bằng con đường kinh nghiệm thuần túy”. (C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.3, tr. 28-29). - Hoạt động xã hội cơ bản của con người trước hết là lao động sản xuất vật chất. Sản xuất là hành vi lịch sử đầu tiên của con người, là yếu tố cơ bản phân biệt con người với con vật, là động lực cơ bản nhất của sự phát triển của xã hội, là cơ sở nảy sinh tất cả những hiện tượng khác trong đời sống xã hội. Mỗi thời kỳ lịch sử có một cách thức sản xuất nhất định, gọi là phương thức sản xuất. Loài người đã biết đến 5 phương thức sản xuất (PTSX): cộng đồng nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, TBCN và XHCN. - PTSX trước hết là phương thức sinh sống của con người, con người sống như thế nào, trước hết phụ thuộc vào việc họ sản xuất như thế nào. C. Mác và Ph. Ăngghen viết: “Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương tiện hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ. Hoạt động sống của họ như thế nào thì họ là như thế ấy. Do đó họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng như với cách họ sản xuất. Do đó, những cá nhân là như thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ” (C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.3, tr. 30). - Phương thức sản xuất quy định đời sống chính trị, tinh thần, quan hệ dân tộc, nhà nước. “Những cá nhân nhất định, hoạt động sản xuất theo một phương thức nhất định, đều nằm trong những quan hệ xã hội và chính trị nhất định... Cơ cấu xã hội và nhà nước luôn luôn nảy sinh ra từ quá trình sinh sống của những cá nhân nhất định, ... của những cá nhân đúng như trong hiện thực, nghĩa là đúng như họ đang hành động, sản xuất một cách vật chất, tức là đúng như họ hành động trong những giới hạn, tiền đề và điều kiện vật chất nhất định, không phụ thuộc vào ý chí của họ” (Sđd, t.3, tr. 36). - Trên cơ sở PTSX, các nhà sáng lập ra CNDV lịch sử tiến lên phân tích hai mặt của PTSX là lực lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX). LLSX quy định QHSX. QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. QHSX tác động trở lại (thúc đẩy hay kìm hãm) sự phát triển của lực lượng sản xuất. - PTSX là yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội (TTXH). TTXH là đời sống vật chất của xã hội. Xã hội còn có đời sống tinh thần phong phú bao gồm những hình thái ý thức xã hội (YTXH), những hoạt động tinh thần gắn liền với những hình thái ý thức xã hội đó. Các nhà sáng lập ra CNDVLS chỉ ra mối quan hệ giữa TTXH và YTXH, vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH và sự tác động to lớn của YTXH trở lại TTXH. 2. Cấu trúc xã hội và phạm trù hình thái kinh tế-xã hội Các nhà triết học trước Mác khi nghiên cứu xã hội chỉ xem xét một mặt, tuyệt đối hóa một bộ phận nào đó của xã hội, do đó chưa đưa ra được một mô hình lý luận phản ánh xã hội trong tính chỉnh thể, toàn vẹn của nó. Xã hội loài người là một bộ phận, một trình độ phát triển cao nhất của thế giới vật chất nên cấu trúc của nó vô cùng phức tạp bao gồm nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, nhiều bộ phận có mối liên hệ tác động lẫn nhau, quy định lẫn nhau. Do đó, xem xét xã hội đòi hỏi phải có một cách tiếp cận toàn diện. Đóng góp khoa học của Mác và Ăngghen là các ông đã xác định đúng vị trí, vai trò của từng mặt, từng bộ phận, vạch ra mối liên hệ bản chất, tất yếu giữa các mặt, các bộ phận của xã hội và chỉ ra quy luật vận động, phát triển của xã hội với tính cách là một hệ thống toàn vẹn. Tất cả những mặt, những mối liên hệ, những quy luật vận động, phát triển của xã hội được các ông nghiên cứu trong chỉnh thể và được phản ánh trong phạm trù hình thái kinh tế-xã hội. Trong Lời nói đầu tác phẩm Góp phần phê phán khoa Kinh tế chính trị, Mác viết: “Kết quả chung mà tôi đã đạt được và đã trở thành kim chỉ nam cho mọi sự nghiên cứu sau này của tôi, có thể trình bày vắn tắt như sau. Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”. (Toàn tập, t.13, tr. 14-15). Xã hội là tổng hợp tất cả những quan hệ giữa người với người. Quan hệ xã hội có nhiều mặt, trong đó, Mác coi quan hệ kinh tế tức quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản nhất, là cơ sở nảy sinh và phát triển của tất cả những quan hệ xã hội khác. Lênin nhận xét: “Bằng cách là trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, ông đã làm nổi bật riêng lĩnh vực kinh tế, bằng cách là trong tất cả mọi quan hệ xã hội ông đã làm nổi bật riêng những quan hệ sản xuất, coi đó là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ khác”. (V.I. Lênin, Toàn tập, t. 1, tr. 159) “Cho đến nay, trong cái mạng lưới phức tạp những hiện tượng xã hội, các nhà xã hội học lúng túng không phân biệt được những hiện tượng nào là quan trọng, và những hiện tượng nào là không quan trọng (đó là căn nguyên của chủ nghĩa chủ quan trong xã hội học), và họ không thể tìm được một tiêu chuẩn khách quan cho sự phân biệt đó. Chủ nghĩa duy vật đã cung cấp một tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan bằng cách tách riêng những quan hệ sản xuất, với tư cách là cơ cấu của xã hội, và bằng cách cho chúng ta có khả năng ứng dụng vào những quan hệ ấy cái tiêu chuẩn khoa học chung về tính lặp lại, tiêu chuẩn mà phái chủ quan cho là không thể đem ứng dụng vào xã hội học được. (V.I. Toàn tập , t. 1, tr. 162). Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, QHSX không tách rời lực lượng sản xuất. Mác chỉ ra rằng QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. LLSX và QHSX hợp thành một phương thức sản xuất. Sự thay đổi trong LLSX dẫn đến sự thay đổi trong PTSX. C. Mác viết: “Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp.” (C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t. 4, tr. 187) Ngoài những quan hệ kinh tế, Mác còn chỉ ra rằng mỗi hình thái kinh tế - xã hội còn bao gồm các quan hệ về chính trị, pháp quyền, đạo đức và các hình thái ý thức xã hội. Toàn bộ những quan hệ kinh tế tạo thành “cơ sở hạ tầng” (tức kết cấu bên dưới) của xã hội; còn các quan hệ chính trị, pháp quyền, đạo đức và các hình thái ý thức xã hội tạo thành “kiến trúc thượng tầng” (tức kết cấu bên trên) của xã hội. Như vậy, Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển nhất định trong lịch sử với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với LLSX ở một trình độ phát triển nhất định và một KTTT dựng bên trên những QHSX đó. Một hình thái kinh tế-xã hội có 3 mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng) và kiến trúc thượng tầng. Các mặt, các bộ phận của đời sống xã hội có mối liên hệ bản chất, tất yếu, ổn định. Điều này được Mác và Ăngghen phản ánh trong quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng và quy luật về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. 3. Phép biện chứng của sự vận động, phát triển các hình thái kinh tế - xã hội a) Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Để sản xuất được, con người phải có hai mối quan hệ: quan hệ giữa người với tự nhiên (LLSX) và quan hệ giữa người với người (QHSX). ● Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trong đó người lao động là yếu tố hàng đầu. ● Quan hệ sản xuất bao gồm 3 mặt: QH về chiếm hữu tư liệu sản xuất, QH về quản lý và phân công lao động và QH về phân phối sản phẩm. Trong 3 mặt trên thì quan hệ về chiếm hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. ● LLSX quyết định QHSX. QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất thay đổi về chất thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo. ● QHSX tác động trở lại sự phát triển của LLSX. Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì sẽ thúc đẩy sự phát triển của LLSX. Ngược lại, nếu QHSX không phù hợp nó sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. b) Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (CSHT) và kiến trúc thượng tầng (KTTT) ● Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội. ●Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những hiện tượng xã hội hình thành và phát triển bên trên cơ sở hạ tầng, bao gồm những tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng với những tư tưởng đó. ● CSHT quyết định KTTT. CSHT như thế nào thì KTTT như thế ấy; khi CSHT có những biến đổi căn bản thì KTTT sớm muộn cũng biến đổi theo. ● KTTT có sự tác động trở lại CSHT. KTTT tiến bộ có vai trò thúc đẩy sự phát triển của đời sống kinh tế; còn ngược lại, KTTT lạc hậu thì kìm hãm sự phát triển của kinh tế. c) Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử-tự nhiên - Xã hội là bộ phận đặc thù của tự nhiên. Sự phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách quan không phụ thuộc ý thức xã hội. Ngoài những quy luật phổ biến của thế giới vật chất, xã hội còn có những quy luật đặc thù của xã hội và của từng thời kỳ lịch sử. - Mặt khác, xã hội là lĩnh vực hoạt động có ý thức, có mục đích của con người. Con người nhận thức và vận dụng quy luật khách quan một cách tự giác để đề ra mục đích cho sự phát triển xã hội, giải quyết những mâu thuẫn xã hội. Như vậy, sự phát triển của xã hội vừa là quá trình tự nhiên tuân theo quy luật khách quan, vừa là quá trình tự giác, có ý thức có mục đích của con người. Chính vì thế, Mác khẳng định: sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử-tự nhiên. 4. Tính khoa học và vai trò phương pháp luận của phạm trù hình thái kinh tế-xã hội - Lý luận HTKT-XH là cơ sở khoa học của phương pháp tiếp cận toàn diện về xã hội, vì nó nghiên cứu xã hội trong hệ thống cấu trúc của nó, thấy được mối quan hệ giữa các mặt, các bộ phận của xã hội. - Nó chỉ ra tính quy luật của đời sống xã hội. - Nó khắc phục những hạn chế của các quan điểm duy tâm và duy vật siêu hình về xã hội. - Nó chỉ ra sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử-tự nhiên. - Nó là cơ sở lý luận của các đảng cộng sản trong việc xây dựng hình thái kinh tế-xã hội XHCN và CSCN. Alvin Toffler, nhà tương lai học Mỹ đưa ra một cách tiếp cận khác – cách tiếp cận theo nền văn minh. Ông phân chia lịch sử thành 3 nền văn minh (3 làn sóng): văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp. Tuy có những đóng góp nhất định, nhưng cách tiếp cận này còn mang tính phiến diện, không thể thay thế cho cách tiếp cận theo hình thái kinh tế - xã hội. II. NHẬN THỨC LẠI VỀ CNXH VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM 1. Dự báo của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin về chủ nghĩa xã hội Trên cơ sở phân tích mâu thuẫn cơ bản của CNTB, C. Mác và Ph. Ăngghen dự kiến sự thay thế hình thái kinh tế-xã hội TBCN bằng hình thái kinh tế-xã hội CSCN (giai đoạn đầu là XHCN). Xã hội cộng sản theo dự báo của Mác và Ăngghen có những nét đặc trưng sau: - Là xã hội có LLSX phát triển cao (công nhiệp hiện đại), dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và một nền kinh tế được tổ chức một cách có kế hoạch. - Xã hội không còn bị phân chia thành giai cấp đối kháng, không còn có sự phân biệt sâu sắc giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn. - Con người được giải phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột, khỏi mọi sự bất bình đẳng và sự ràng buộc bởi chế độ tư hữu, hình thức phân công lao động từ trước đến nay, bởi những giới hạn về địa phương, chủng tộc, giới tính ... Mọi cá nhân được phát triển tự do và toàn diện trong sự sự phát triển của toàn thể cộng đồng xã hội. - Sự đối kháng giai cấp, thù địch dân tộc, nhà nước bạo lực, chiến tranh … sẽ được thay thế bằng sự liên hợp của tất cả các dân tộc. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, các ông vạch rõ: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. (C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t. 4, tr. 628). - Sự thay thế chế độ tư bản bằng chế độ cộng sản được thực hiện bằng cuộc cách mạng vô sản. - Giữa CNTB và CNXH có một thời kỳ quá độ kinh tế và chính trị, trong đó nhà nước thuộc về tay nhân dân lao động do giai cấp vô sản lãnh đạo (Chuyên chính vô sản). 2. CNXH theo mô hình kế hoạch hóa tập trung và vai trò lịch sử của nó Sau khi Lênin qua đời, tiếp đến là việc Liên Xô phải đối phó với Chiến tranh thế giới do chủ nghĩa phát xit gây ra vì thế CNXH được tổ chức theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Trong điều kiện như vậy, mô hình này đã phát huy vai trò tích cực của nó. Song nó dần bộc lộ những nhược điểm nhất định. Đầu những năm thập kỷ 80, nền kinh tế ở các nước XHCN rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Sai lầm trong cải tổ dẫn đến sự sụp đổ CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Đây không phải là sự sụp đổ của CNXH nói chung, mà chỉ là sự phá sản của một mô hình CNXH (mô hình kế hoạch hóa tập trung). 3. Những biến đổi của thời đại và vấn đề đi lên CNXH - Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã dẫn đến việc hình thành LLSX hiện đại. Tính xã hội và tính quốc tế của LLSX được nâng cao cùng với quá trình toàn cầu hóa và sự hình thành, phát triển của nền kinh tế tri thức. - Trong các nước tư bản, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của LLSX và hình thức chiếm hữu TBCN càng ngày càng trở nên gay gắt. Trình độ khoa học kỹ thuật và tính giác ngộ cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ngày càng được nâng cao. - Tình trạng baọ lực và chiến tranh là không thể khắc phục được trong khuôn khổ chế độ TBCN. Với những tiền đề về kinh tế, khoa học , kỹ thuật, với những mâu thuẫn không thể giải quyết được trong phạm vi của CNTB, việc quá độ lên CNXH với tính cách là một hình thái kinh tế-xã hội cao hơn CNTB là tất yếu khách quan. 4. Về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam a) Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam Trong lịch sử nhân loại, có nhiều dân tộc bỏ qua một HTKT-XH lỗi thời, tiến lên một HTKT-XH mới cao hơn. Nước ta lựa chọn con đường đi lên CNXH là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. CNTB đã lỗi thời. Trong thời đại ngày nay, độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. - Thế nào là bỏ qua chế độ TBCN + Về kinh tế: bỏ qua sự xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất TBCN. + Về chính trị: bỏ qua sự xác lập địa vị thống trị của kiến trúc thượng tầng TBCN. - Mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta: xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường. b) Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam - Nước ta đi lên CNXH trong điều kiện sản xuất nhỏ là phổ biến - Cơ sở vật chất của CNXH chỉ có thể là một nền công nghiệp hiện đại - CNH-HĐH ở nước ta cần và có thể rút ngắn nhờ vận dụng những thành tựu khoa học và cộng nghệ hiện đại. c) Kết hợp giữa phát triển LLSX với xây dựng QHSX phù hợp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam - Phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, quản lý và phân phối phù hợp với điều kiện LLSX ở nước ta. - Giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. d) Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở Việt Nam - Không ngừng đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng và Nhà nước - Xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân - Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. - Phát triển giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. - Giải quyết các vấn đề xã hội, chống các hiện tượng tiêu cực, thực hiện công bằng và dân chủ xã hội.