Câu 1: Triết học là gì? Trình bày nguồn gốc xã hội của triết học?
Triết học là gì?
Triết học là hệ thống những quan điểm, quan niệm chung của con người về thế giới ( tự nhiên, xã hội và tư duy) và về vai trò của con người trong thế giới đó.
- Quan điểm chung của con người về thế giới đó và vấn đề thế giới quan triết học hay còn gọi là bản thể luận triết học.
- Vai trò của con người trong thế giới đó là vấn đề nhận thức luận triết học vì con người có nhận thức được thế giới thì mới có thể cải tạo được thế giới và làm chủ được bản thân mình (phương pháp luận).
Như vậy, triết học bao gồm hai vấn đề thế giới quan và phương pháp luận hay bản thể luận và nhận thức luận.
Nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội của triết học:
- Nguồn gốc nhận thức, đứng trước thế giới rộng lớn bao la các sự vật hiện tượng phong phú đa dạng muôn hình nghìn vẻ, con người có nhu cầu phải tồn tại và phát triển như thế nào? còn sự ra đời, tồn tại, mất đi có tuân theo quy luật nào không trả lời các câu hỏi ấy chính là triết học.
- Mặt khác, triết học chính là một hình thái ý thức xã hội có tính chất khái quát và trừu tượng cao. Do đó triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy trừu tượng phát triển ở mức độ nhất định.
+ Triết học ra đời gắn liền với xã hội có giai cấp, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa có triết học.
+ Sự phát triển của sản xuất, sự phân chia xã hội thành hai giai cấp cơ bản đối lập nhau: giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ, sự phân chia lao động trí óc và lao động chân tay là điều kiện vật chất cho sự ra đời của triết học.
+ Giai cấp thống trị có điều kiện về kinh tế nên cũng có điều kiện nghiên cứu triết học. Do đó, triết học bao giờ cũng là thế giới quan của một giai cấp nhất định. Giai cấp nào thống trị về kinh tế cũng thống trị về tinh thần, tư tưởng trong xã hội.
79 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 6091 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề cương ôn thi môn Triết học Mác - Lê nin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề cương ôn thi môn Triết học Mác- Lê nin
Câu 1: Triết học là gì? Trình bày nguồn gốc xã hội của triết học?
Triết học là gì?
Triết học là hệ thống những quan điểm, quan niệm chung của con người về thế giới ( tự nhiên, xã hội và tư duy) và về vai trò của con người trong thế giới đó.
- Quan điểm chung của con người về thế giới đó và vấn đề thế giới quan triết học hay còn gọi là bản thể luận triết học.
- Vai trò của con người trong thế giới đó là vấn đề nhận thức luận triết học vì con người có nhận thức được thế giới thì mới có thể cải tạo được thế giới và làm chủ được bản thân mình (phương pháp luận).
Như vậy, triết học bao gồm hai vấn đề thế giới quan và phương pháp luận hay bản thể luận và nhận thức luận.
Nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội của triết học:
- Nguồn gốc nhận thức, đứng trước thế giới rộng lớn bao la các sự vật hiện tượng phong phú đa dạng muôn hình nghìn vẻ, con người có nhu cầu phải tồn tại và phát triển như thế nào? còn sự ra đời, tồn tại, mất đi có tuân theo quy luật nào không trả lời các câu hỏi ấy chính là triết học.
- Mặt khác, triết học chính là một hình thái ý thức xã hội có tính chất khái quát và trừu tượng cao. Do đó triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy trừu tượng phát triển ở mức độ nhất định.
+ Triết học ra đời gắn liền với xã hội có giai cấp, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa có triết học.
+ Sự phát triển của sản xuất, sự phân chia xã hội thành hai giai cấp cơ bản đối lập nhau: giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ, sự phân chia lao động trí óc và lao động chân tay là điều kiện vật chất cho sự ra đời của triết học.
+ Giai cấp thống trị có điều kiện về kinh tế nên cũng có điều kiện nghiên cứu triết học. Do đó, triết học bao giờ cũng là thế giới quan của một giai cấp nhất định. Giai cấp nào thống trị về kinh tế cũng thống trị về tinh thần, tư tưởng trong xã hội.
Câu 2: Vấn đề cơ bản của triết học là gì? Tại sao nói đó là vấn đề cơ bản của triết học?
- Vấn đề cơ bản của triết học:
Thế giới xung quanh có thể chia thành hai lĩnh vực lớn tự nhiên và tinh thần, tồn tại và tư duy, vật chất và ý thức, triết học với nhiệm vụ giải thích thế giới cũng phải đề cập đến hai lĩnh vực ấy.
Theo F. Ănghen, vấn đề lớn, cơ bản của triết học là vấn đề về mối liên hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.
- Vấn đề cơ bản của triết học bao gồm hai mâu thuẫn:
Mặt 1: Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Mặt 2: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Đó là vấn đề cơ bản của triết học vì:
Thứ nhất: Căn cứ vào cách trả lời hai câu hỏi trên (cách giải quyết hai hai mặt của một vấn đề cơ bản của triết học) ta có thể biết được nhà triết học này, hệ thống triết học này là duy vật hay duy tâm (mặt 1)
+ Chủ nghĩa duy vật cho rằng: vật chất có trước ý thức, vật chất quyết định ý thức, ý thức có sau vật chất sinh ra và phụ thuộc vào vật chất.
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: ý thức có trước vật chất và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai trường phái:
Duy tâm khách quan ý niệm tuyệt đối quyết định vật chất.
Duy tâm chủ quan ý thức cảm giác của con người quyết định vật chất.
Những nhà triết học thừa nhận hoặc vật chất hoặc tinh thần quyết định được gọi là triết học nhất nguyên. Còn những nhà triết học thừa nhận cả vật chất và tinh thần quyết định ta gọi là triết học nhị nguyên. Triết học nhị nguyên cuối cùng sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Cũng căn cứ vào cách trả lời vấn đề cơ bản của triết học (mặt 2) mà ta biết được nhà triết học đó theo thuyết khả tri hay bất khả tri.
+ Thuyết khả tri cho rằng con người có khả năng nhận thức thế giới.
+ Thuyết bất khả tri (không thể không biết) cho rằng con người không có khả năng nhận thức thế giới.
Thứ 2: Bất cứ nhà triết học nào cũng phải giải đáp vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức khi xây dựng học thuyết của mình, vật chất và ý thức là hai phạm trù của triết học cơ bản bao quát một sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
Thứ 3: Đó là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng với con người và xã hội loài người.
Câu 3: Hãy phân biệt phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong triết học?
Triết học phản ánh thế giới và giải thích thế giới bằng hai phương pháp khác nhau. Đó là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
- Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật trong mối liên hệ phổ biến, trong sự vận động, biến đổi không ngừng,
Phương pháp biện chứng vừa thấy sự tồn tại, phát triển và tiêu vong; xem xét sự vật ở trạng thái tĩnh và trạng thái động; vừa thấy cây, vừa thấy rừng, vừa thấy bộ phận vừa thấy toàn thể; vừa thấy sự riêng biệt vừa thấy cả mối quan hệ qua lại.
- Phương pháp siêu hình chỉ thấy tồn tại mà không thấy phát triển và tiêu vong; chỉ thấy trạng thái tĩnh mà không thấy trạng thái động; chỉ thấy cây mà không thấy rừng, chỉ thấy bộ phận mà không thấy toàn bộ.
Như vậy, qua sự so sánh trên ta thấy phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình là hai phương pháp triết học đối lập nhau trong cách nhìn nhận và nghiên cứu thế giới. Chỉ có phương pháp biện chứng mới là phương pháp thực sự khoa học.
Câu 4: Trình bày vai trò của triết học đối với đời sống xã hội nói chung và đối với sự phát triển của khoa học nói riêng?
Vai trò của triết học đối với xã hội:
Với tư cách là khoa học về thế giới quan và phương pháp luận, triết học có nhiệm vụ giải thích thế giới nó cung cấp cho chúng ta cách nhìn nhận, xem xét thế giới từ đó chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Tuy nhiên, trong các trường phái triết học khác nhau sẽ có vai trò khác nhau đối với đời sống xã hội. Cụ thể là:
+ Triết học duy tâm nhìn chung do chỗ giải thích không đúng về thế giới hiện thực, không phản ánh được quy luật khách quan của thế giới do đó nó không có ý nghĩa đối với đời sống xã hội.
+ Triết học duy vật vì xuất phát từ bản thân thế giới hiện thực để giải thích, nhìn chung triết học duy vật đã phản ánh được quy luật khách quan, nó có vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người để cải tạo thế giới phù hợp với quy luật của thế giới hiện thực. Do đó triết học duy vật có ý nghĩa đối với đời sống xã hội.
+ Triết học Mác- Lênin có ý nghĩa to lớn đối với đời sống xã hội.
Vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học.
Triết học cũng cung cấp phương pháp nghiên cứu cho các khoa học cụ thể (khoa học tự nhiên và khoa học xã hội ). Mặt khác, triết học cũng đưa ra khoa học cụ thể để làm căn cứ, tài liệu cho sự khái quát lý luận của mình. Vai trò của triết học đối với khoa học ở chỗ nó cung cấp cho khoa học phương pháp nghiên cứu (có phương pháp chủ yếu, phương pháp biện chứng, phương pháp siêu hình ). Chỉ phương pháp biện chứng mới có ý nghĩa to lớn đối với các khoa học, còn phương pháp siêu hình chỉ có ý nghĩa đối với khoa học phân tích.
Trong các hệ thống triết học, triết học Mác- Lênin có vai trò rất quan trọng đối với khoa học tự nhiên cũng như khoa học ở chỗ:
+ Triết học Mác- Lênin cung cấp phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp đúng đắn nhất giúp các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu các lĩnh vực của thế giới khách quan.
+ Nhờ có phương pháp biện chứng duy vật mà nhiều khoa học liên ngành ra đời. Những khoa học này là những khoa học giáp ranh nó có nhiệm vụ nghiên cứu những mối liên hệ giữa các lĩnh vực của thế giới khách quan. Các khoa học liên ngành như Lý- Hoá, Sinh- Hoá, Hoá- Sinh, điều khiển tâm sinh lý.
Câu 5: Phân tích những điều kiện và tiền đề ra đời của triết học Mác?
Là một hình thái ý thức xã hội, triết học Mác ra đời trên cơ sở những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội vào những năm 40 của thế kỷ 19.
+ Điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời của triết học Mác:
- Những năm 40 của thế kỷ 19, chủ nghĩa tư bản đã phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá và quan hệ sản xuất tư nhân TBCN. Mâu thuẫn kinh tế đó biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa công nhân (đại diện cho lực lượng sản xuất mới) và giai cấp tư sản (đại diện cho quan hệ sản xuất ).
- Mâu thuẫn đó ngày càng gay gắt đã dẫn đến đấu tranh, những cuộc mít tinh, biểu tình của công nhân đòi tăng lương, giảm giờ làm cuộc đấu tranh ngày càng mạnh nhưng thất bại.
- Cuộc đấu tranh của phong trào công nhân đòi hỏi phải có lý luận ra đời để dẫn dắt soi đường chỉ lối cho phong trào công nhân đi đến kết quả. Mác- Ănghen tham gia phong trào công nhân, các ông đã nắm bắt được yêu cầu đó của lịch sử hai ông đã xây dựng nên lý luận Mác- xít làm cơ sở phương pháp luận cho đường lỗi, chiến lược, sách lược của phong trào công nhân.
Tiền đề lý luận: Triết học cổ đại Đức, kinh tế chính trị Anh, CNXH không tưởng Pháp là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.
Về triết học:
+ Mác và Ăghen đã kế thừa có chọn lọc chủ nghĩa duy vật của Phơbách (Phơbách là nhà triết học duy vật trong lĩnh vực tự nhiên nhưng duy tâm trong việc giải thích các hiện tượng xã hội về vấn đề con người. Ông nghiên cứu con người tách rời hoàn cảnh lịch sử, là con người trừu tượng chung chung của chủ nghĩa duy vật trước Mác). Khắc phục những tính hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phơ bách, Mác đã xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng. Kế thừa phép biện chứng của Hêghen, xoá bỏ phần duy tâm trong đó Mác đã xây dựng phép biện chứng duy vật.
+ Như vậy, triết học Mác là kết quả sự kế thừa có chọn lọc, có phát triển thành tựu của triết học cổ điển đưa chủ nghĩa duy vật, phép biện chứng thành chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng gắn bó mật thiết với nhau.
Về kinh tế chính trị cổ điển Anh:
+ Các ông đã tiếp thu tư tưởng kinh tế của Adamsmith, Ricacdor về học thuyết giá trị để từ đó xây dựng nên quan niệm duy vật về lịch sử là đã vạch ra cơ sở kinh tế của những hiện tượng xã hội và xây dựng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác. Với quan niệm duy vật về lịch sử này các ông đã khắc phục tính chất không triệt để của chủ nghĩa duy vật trước Mác, xây dựng chủ nghĩa triệt để.
Về CNXH không tưởng:
+ Tư tưởng của Xanh-xi-măng, Phu-ri-ê, Ô-oan về một xã hội tương lai tốt đẹp là cơ sở cho Mác- Ănghen dựng hình mẫu xã hội CSCN. Với việc ấy Mác- Ănghen đã hiện ra sứ mệnh của giai cấp vô sản và CNXH không tưởng đã trở thành CNXH khoa học vì Mác- Ănghen đã tìm thấy biện pháp, con đường và lực lượng có thể làm cách mạng xã hội đi đến xã hội CSCN. Như vậy tư tưởng về xã hội tốt đẹp không có áp bức giai cấp, không có tư hữu đã có cơ sở hiện thực của nó.
Tiền đề khoa học tự nhiên:
Ba phát minh vĩ đại của thế kỷ 19, điều kiện của sự ra đời của triết học Mác: Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, học thuyết bảo toàn và thuyết tiến hoá.
Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng làm cơ sở cho quan niệm duy vật về thế giới, nó chứng minh tính vĩnh viễn và không thể bị tiêu diệt của vật chất.
Học thuyết tế bào: bác bỏ quan niệm siêu hình về thế giới, thấy được mối liên hệ thống nhất giữa động vật và thực vật.
Học thuyết tiến hoá: Đập tan tư tưởng thần học (các loài do thượng đế tạo ra), đánh đổ quan niệm siêu hình (các loài tồn tại không có sự biến đổi, phát triển).
Ba phát minh ấy góp phần xác định về tính thống nhất vật chất của thế giới. Triết học duy vật biện chứng chỉ có thể được hình thành trên cơ sở những quan niệm duy vật biện chứng do khoa học tự nhiên đem lại.
Câu 6: Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu?
Sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu vì:
- Về điều kiện khách quan:
+ Triết học Mác ra đời là do những yêu cầu của thực tiễn xã hội ở thế kỷ 19 đòi hỏi. Đó chính là thực tiễn đấu tranh của phong trào công nhân cấp thiết cần có một lý luận đúng đắn chỉ đường. Triết học Mác ra đời là đáp ứng yêu cầu ấy.
+ Triết học Mác ra đời chính là sự phát triển hợp logic của lịch sử tư tưởng nhân loại. Nó dựa trên những tiền đề về lý luận những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên thế kỷ 19.
Đó chính tất yếu khách quan cho sự ra đời của triết học Mác.
- Về điều kiện chủ quan:
+ Trong thời kỳ triết học Mác xuất hiện không thiếu những bộ óc thiên tài vĩ đại như Phơ bách, sâu sắc như Hêghen nhưng họ cũng không xây dựng được lý luận Mác xít. Chỉ có Mác- Ănghen mới là những người xây dựng nên học thuyết này.
+ Triết học Mác ra đời là kết quả quá trình đấu tranh lâu dài, bền bỉ, lăn lộn trong thực tế phong trào công nhân của Mác và Ănghen. Đồng thời nó cũng là kết quả của tư duy khoa học của hai ông. Các ông đã nắm bắt và sử dụng thành công phương pháp biện chứng duy vật khi xây dựng học thuyết triết học.
+ Học thuyết triết học Mác ra đời là một tất yếu lịch sử và học thuyết đó là do Mác- Ănghen sáng lập nên cũng là một tất yếu.
Triết học Mác là một giai đoạn phát triển cao nhất của tư tưởng triết học nhân loại.
Câu 7: Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt trong lịch sử triết học?
Vì:
- Thứ nhất: Triết học Mác là một hệ thống khoa học có sự liên hệ chặt chẽ giữa các bộ phận trong kết cấu, đó là:
+ Sự thống nhất không thể tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Trong triết học Mác phương pháp không chỉ là biện chứng mà còn là phương pháp duy vật, lý luận không chỉ là duy vật mà còn là lý luận biện chứng.
Hai yếu tố ấy gắn bó với nhau trong một học thuyết hoàn chỉnh. Lý luận và phương pháp thế giới quan và phương pháp luận thống nhất với nhau trong một học thuyết phản ánh đúng hiện thực khách quan.
+ Khắc phục những sai lầm của triết học trước Mác, chủ nghĩa duy vật trước Mác là siêu hình, phép biện chứng là duy tâm, với sự ra đời của triết học Mác, chủ nghĩa duy vật là biện chứng và phép biện chứng là duy vật. Đó chính là cuộc cách mạng trong triết học do Mác- Ănghen thực hiện.
- Thứ hai: Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. Mở rộng chủ nghĩa duy vật vào việc nhận thức đời sống xã hội. Khắc phục được sai lầm chủ yếu của triết học duy vật trước Mác (duy tâm trong cách nhìn nhận, xem xét xã hội ) có tình trạng này là do hạn chế về lập trường giai cấp và do hạn chế về nhận thức. Điểm xuất phát trong quan niệm duy vật về lịch sử của Mác là khẳng định vai trò quyết định của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
+ Thấy được quá trình phát triển của xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, chỉ ra vai trò tích cực của con người, của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Điều này các nhà triết học duy vật trước Mác chưa nhận thấy được. Họ thường cho đó là định mệnh, cho rằng cá nhân là người sáng tạo ra lịch sử.
+ Nhờ sự ra đời của quan niệm duy vật về lịch sử (chủ nghĩa duy vật lịch sử) mà triết học duy vật biện chứng đã trở thành triệt để, nó bao quát cả lĩnh vực tự nhiên và lịch sử. Với quan niệm này chủ nghĩa duy tâm đã bị đẩy ra khỏi nơi ẩn cuối cùng.
Thứ 3: Với sự ra đời của triết học Mác, sự đối lập giữa tri thức triết học và tri thức của khoa học tự nhiên bị xoá bỏ. Trước đây, triết học là khoa học của các khoa học (coi triết học bao trùm lên các khoa học) nay quan niệm ấy bị xoá bỏ. Triết học Mác quan hệ chặt chẽ với khoa học tự nhiên. Triết học luôn bổ sung, phát triển cùng với sự phát triên của các ngành khoa học và của thực tiễn xã hội, luôn hướng tới những vấn đề mới đặt ra và chưa được giải quyết.
Thứ 4: Kết thúc sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn. Lần đầu khái niệm thực tiễn được đưa vào hệ thống triết học và chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Triết học không những giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới.
Lần đầu tiên quần chúng lao động bị áp bức bóc lột có vũ khí lý luận của mình trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.
Câu 8: Lênin đã bảo vệ và phát triển triết học Mác như thế nào?
- Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ19 khi mà CNTB đang phát triển, những vấn đề của bước chuyển cách mạng từ CNTB lên CNXH chưa đặt ra một cách trực tiếp, trước mắt. Lênin đã phát triển triết học Mác trong những điều kiện lịch sử mới. Thời đại CNTB chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, thời đại ra đời của xã hội mới, xã hội XHCN.
- Trong điều kiện mới ấy, kẻ thù của chủ nghĩa Mác tấn công vào những nguyên lý triết học cơ bản của Mác như: chủ nghĩa duy vật, phép biện chứng Lênin đã đấu tranh bảo vệ và phát triển triết học Mác ở những điểm sau:
+ Bảo vệ và phát triển quan niệm duy vật biện chứng và vật chất với định nghĩa kinh điển về phạm trù vật chất được viết trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” 1908.
+ Phát triển sâu sắc và hoàn thiện lý luận phản ánh lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thể hiện trong tác phẩm mới nói trên.
+ Làm sâu sắc thêm và phát triển hoàn chỉnh hệ thống các quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật qua tác phẩm “Bút lý triết học ” viết năm 1944- 1946.
+ Học thuyết về nhà nước và cách mạng xã hội, tác phẩm “Nhà nước và cách mạng ”.
+ Bảo vệ và phát triển của Mác- Ănghen về vai trò của ý thức xã hội, của hệ tư tưởng và của nhân tố chủ quan trong sự phát triển của khoa học xã hội, tác phẩm “Làm gì” 1901- 1902.
+ Chống sự giải thích chủ quan về các hiện tượng xã hội, coi lực lượng quyết định quá trình lịch sử là hoạt động của các cá nhân có đầu óc phê phán, thừa nhận và khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân và các giai cấp trong lịch sử, chỉ rõ trong những điều kiện khách quan nào thì hoạt động của những cá nhân kiệt xuất.
+ Lịch sử có kết quả và mục đích của họ được thực hiện đã được Lênin phân tích rõ trong tác phẩm “Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ nghĩa xã hội ra sao” năm 1894.
+ Mặt khác, Lênin còn vận dụng triết học duy vật biện chứng vào việc phân tích thời đại mới. Thời đại chủ nghĩa đế quốc, thời đại chiến tranh đế quốc và cách mạng XHCN trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của CNTB” năm 1916 và các tác phẩm có liên quan. Gắn liền với tên tuổi của Lênin là sự phát triển sáng tạo học thuyết của Mác về cách mạng XHCN.
Với những việc làm trên đây, Lênin đã tạo ra một giai đoạn phát triển mới đó là giai đoạn Lênin trong sự phát triển của triết học Mác.
Câu 9: Hãy nêu vị trí và ý nghĩa của giai đoạn Lênin trong sự phát triển triết học Mác?
- Xét về mặt thời gian, giai đoạn Lênin là giai đoạn phát triển sau và là sự kế thừa của triết học Mác (Triết học Mác ra đời vào giữa những năm 40 của thế kỷ 19 dó là thời kỳ của CNTB đang phát triển. Giai đoạn Lênin là sự phát triển tiếp tục của Mác trong điều kiện lịch sử mới của thời đại- thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng XHCN)
- Về mặt lý luận giai đoạn Lênin là giai đoạn phát triển cao của triết học Mác, là sự hoàn chỉnh của triết học Mác.
- Với sự ra đời của giai đoạn Lênin, từ đây triết học Mác được mang một cái tên mới- tên tuổi của Mác được gắn với tên tuổi của Lênin, đó là triết học Mác- Lênin.
- Với sự ra đời của giai đoạn Lênin, triết học Mác- Lênin đã đáp ứng được yêu cầu mới của thời đại và phong trào công nhân.
Câu 10: Phân tích đối tượng và đặc điểm của triết học Mác- Lênin?
a. Đối tượng của triết học Mác- Lênin:
Triết học nói chung và triết học Mác- Lênin nói riêng có đặc điểm chung là nó không nghiên cứu bộ phận này hay bộ phận khác của thế giới mà nghiên cứu thế giới hiện thực nói chung.
Trên cơ sở giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học. Triết học Mác- Lênin nghiên cứu quy luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên xã hội và tư duy.
Điều đó có nghĩa là: mọi sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất đều vận động phát triển theo những quy luật đặc thù vốn có của nó đồng thời cũng tuân theo những quy luật chung nhất của thế giới vật chất. Hai loại quy luật này độc lập và tương đối vói nhau nhưng đồng thời có mối liên hệ lẫn nhau. Quy luật chung nhất phải được biểu hiện qua quy luật đặc thù.
Quy luật đặc thù do các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu như vật lý, hoá học, sinh học, xã hội học.
Quy luật chung nhất do triết học nghiên cứu. Quy luật chung không tách rời quy luật đặc thù cho nên triết học cũng không tách rời khoa học cụ thể.
b. Đặc điểm của triết học Mác- Lênin: có ba đặc điểm:
- Sự thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học. Tính Đảng của triết học chính là muốn nói triết học đó thuộc chủ nghĩa duy vật hay duy tâm. Tính giai cấp của triết học là muốn nói nó là một quan điểm của