Ngành chăn nuôi gia cầm hiện đại với qui mô càng lớn, trình độ thâm canh càng cao, các
giống có tiềm năng năng suấtcàng lớn thì những stress về sinh lý và dinh dưỡng càng nhiều
(O’Dea và ctv, 2006). Việc gia tăng các stress thường dẫn đến làm suy y ếu chức năng miễn
dịch, giảm sức đề kháng đối với bệnh, tăng nguy cơ nhiễm các mầm bệnh liên quan đến vệ
sinh an toàn thựcphẩm (Barnes, 1979; Hume và ctv, 2003). Những stress dinh dưỡng thường
liên quan đ ến sự mất cân đối các chất dinh dưỡng, sự có mặt của mầm bệnh và/hoặc các chất
kháng dinh dưỡng trong khẩu phần. Trong những năm gần đây, trong bối cảnh giá lương thực
ngàycàng leo thang do xu hướng sử dụng ngũ cốc và những sản phẩm trồng trọt có tinh bột
để sản xuất nhiên liệu sinh học và giá khô dầu đậu tương ngày càng cao thì việc giảm thiểu
các stress dinh dưỡng càng trở nên nan giải. Để giải bài toán này, cần có một hệ thống các giải
pháp, ngoài việc cân đối khẩu phần tối ưu dựa trên cơ sở những quan hệ cân đối mới như cân
đối năng lượng axit amin, cân đối giữa các axit amin ở dạng tiêu hóa hồi tràng thực và quan
hệ cân đối năng lượng -protein -các chất điện giải vv … thì việc sử dụng các chất bổ sung
nhằm cải thiện sức khỏe đường tiêu hóa, hỗ trợ năng lực của các enzyme nội sinh, vô hoạt các
chất kháng dinh dưỡng đã và đang thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học trên khắp
thế giới. Có thể nói chưa bao giờ các chất bổ sung dùng trong thức ăn chăn nuôi lại phong phú
như hiện nay. Ngoài các chất bổ sung truyền thống như kháng sinh, dược liệu, các hóa chất đã
được sử dụng phổ biến từ lâu thì các chất bổ sung sinh học như probiotic, prebiotic, enzyme
thức ăn, các chất phytogenic, các axit hữu cơ vv… cũng được sử dụng rất rộng rãi. Trong số
đó, probiotic và enzyme thức ăn được đánh giá là có tiềm năng, được sử dụng rộng rãi nhất và
đang là lĩnh vực thu hút sự quan tâm không chỉ các nhà khoa học mà đặc biệt là các nhà sản
xuất thức ăn chăn nuôi thương mại. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả
sử dụng các chế phẩm probiotic và enzyme tiêu hóa (do viện Chăn nuôi phối hợp với viện Vi
sinh vật và Công nghệ Sinh học thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội nghiên cứu, sản xuất) trong
chăn nuôi gà Lương Phượng nuôi thịt.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG
15 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 3597 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của bổ sung các chế phẩm propiotic và enzym tiêu hóa vào khẩu phần đến năng suất sinh trưởng, khả năng tiêu hóa và hiệu qủa sử dung thức ăn ở gà lương phượng nuôi thit, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 21 -T háng 12-2009
20
ẢNH HƯỞNG CỦA BỔ SUNG CÁC CHẾ PHẨM PROPIOTIC VÀ ENZYM TIÊU
HÓA VÀO KHẨU PHẦN ĐẾN NĂNG SUẤT SINH TRUỎNG, KHẢ NĂNG TIÊU
HÓA VÀ HIỆU QỦA SỬ DUNG THỨC ĂN Ở GÀ LƯƠNG PHƯỢNG NUÔI THIT
Trần Quốc Việt, Ninh Thị Len, Lê Văn Huyên,
Bùi Thị Thu Huyền và Nguyễn Thị Hồng.
Bộ môn Dinh dưỡng Thức ăn chăn nuôi và Đồng cỏ Viện Chăn Nuôi.
*Tác giả liên hệ : Trần Quốc Việt - Bộ môn Dinh dưỡng Thức ăn chăn nuôi và Đồng cỏ
Viện Chăn nuôi - Từ Liêm - Hà nội - Việt nam
Tel: (04) 38.386.126 / 0982.011.584; Fax: (04) 38.389.775; Email: vietvcn@yahoo.com
ABSTRACT
Effects of dietary supplementation of probiotics and feed enzymes on growth performance and feed
utilization efficiency in Luong Phuong broiler chickens.
Tran Quoc Viet, Ninh Thi Len, Le Van Huyen, Bui Thi Thu Huyen and Nguyen Thi Hong
*Corresponding author: Tran Quoc Viet - Department of Animal Nutrition, Feeding and Forage
NIAS - Tu Liem - Hanoi – Vietnam
Five hundred one day old colour chickens (Luong Phuong breed) were used to evaluate efficiency of utilization
of probiotics and feed enzymes in broiler chickens. Chickens were allotted into 10 groups according to factorial
design. The first factor was basal diets (BD) with two kinds of diets: BD1 was formulated based on feeding
allowances for Luong Phuong broiler breed with maize, soybean meal, fish meal and meat and born meal as
main feed ingredients; BD2 was formulated with maize, soybean meal, coconut meal, wheat bran, cassava meal.
ME, crude protein and lysine level of BD2 was less than BD1 5% and fiber level in BD2 was higher than BD1
20%. The second factor was supplements with 4 supplements: (i) feed enzyme (EV) (protease: 108 IU/g;
amylase: 2209 IU/g; cellulase: 1116 IU/g; beta-glucanase: 200 IU/g; xylanase: 1000 IU/g); (ii) probiotic-enzyme
(PEV) (number and activation of enzyme in this product were the same as the EV. Probiotic flora in PEV
product were Bacillus subtilis, Saccharomyces boulardi, Enterococcus faecium, Pediococcus pentosaceus and
Lactobacillus fermentum. Concentration of these flora was 109 cfu/g); (iii) KEZ (KEMZYM® brand V Dry –a
pproduct of Kemin company including protease: 900 IU/g; amylase: 270 IU/g; cellulase: 4139 IU/g; xylanase:
4205 IU/g); (iv) PEA (a probiotic-enzyme product of Alltech company) with amylase (4400 IU/g); protease (264
IU/g) and cellulase (1100 IU/g). Probiotic flora in PEA product were Lactobacillus acidophilus; Enterococcus
faecium and Saccharomyces cerevisiae. Chickens in groups 1, 2, 3 and 4 were given BD1 supplemented with
EV, PEV, KEZ and PEA product respectively. Chicken in group 5 was control group 1. Chickens in groups 6, 7,
8 and 9 were given BD2 supplemented with EV, PEV, KEZ and PEA product respectively. Chicken in group 10
was control group 2. Supplemented doses of EV and PEV were 2,0 kg/tone and these of KEZ and PEA were 0,5
kg/tone. Results showed that supplementation of feed enzymes (EV and KEZ) and probiotic-enzyme (PEV and
PEA) resulted in increasing in digestibility of DM, OM, CP and CF of diet in chickens, but improvement of
digestibility in chickens fed BD2 were higher than chickens given BD1. Growth performance and feed efficiency
in chickens fed basal diets supplemented with EV and PEV were higher than control groups from 7,6%-8,9% and
6,87-9,62% respectively. By enzyme supplementation to diets, formulation of diets for colour Luong Phuong
chickens may be done without utilization of feed ingredients originated in animal.
Key words: Broiler chickens, probiotics, feed enzymes, digestibility, growth performance, feed efficiency.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngành chăn nuôi gia cầm hiện đại với qui mô càng lớn, trình độ thâm canh càng cao, các
giống có tiềm năng năng suất càng lớn thì những stress về sinh lý và dinh dưỡng càng nhiều
(O’Dea và ctv, 2006). Việc gia tăng các stress thường dẫn đến làm suy yếu chức năng miễn
dịch, giảm sức đề kháng đối với bệnh, tăng nguy cơ nhiễm các mầm bệnh liên quan đến vệ
sinh an toàn thực phẩm (Barnes, 1979; Hume và ctv, 2003). Những stress dinh dưỡng thường
liên quan đến sự mất cân đối các chất dinh dưỡng, sự có mặt của mầm bệnh và/hoặc các chất
kháng dinh dưỡng trong khẩu phần. Trong những năm gần đây, trong bối cảnh giá lương thực
TRÂN QUỐC VIỆT– Ảnh hưởng của bổ sung probiotic và enzyme tiêu hóa ...
21
ngày càng leo thang do xu hướng sử dụng ngũ cốc và những sản phẩm trồng trọt có tinh bột
để sản xuất nhiên liệu sinh học và giá khô dầu đậu tương ngày càng cao thì việc giảm thiểu
các stress dinh dưỡng càng trở nên nan giải. Để giải bài toán này, cần có một hệ thống các giải
pháp, ngoài việc cân đối khẩu phần tối ưu dựa trên cơ sở những quan hệ cân đối mới như cân
đối năng lượng axit amin, cân đối giữa các axit amin ở dạng tiêu hóa hồi tràng thực và quan
hệ cân đối năng lượng - protein - các chất điện giải vv … thì việc sử dụng các chất bổ sung
nhằm cải thiện sức khỏe đường tiêu hóa, hỗ trợ năng lực của các enzyme nội sinh, vô hoạt các
chất kháng dinh dưỡng đã và đang thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học trên khắp
thế giới. Có thể nói chưa bao giờ các chất bổ sung dùng trong thức ăn chăn nuôi lại phong phú
như hiện nay. Ngoài các chất bổ sung truyền thống như kháng sinh, dược liệu, các hóa chất đã
được sử dụng phổ biến từ lâu thì các chất bổ sung sinh học như probiotic, prebiotic, enzyme
thức ăn, các chất phytogenic, các axit hữu cơ vv… cũng được sử dụng rất rộng rãi. Trong số
đó, probiotic và enzyme thức ăn được đánh giá là có tiềm năng, được sử dụng rộng rãi nhất và
đang là lĩnh vực thu hút sự quan tâm không chỉ các nhà khoa học mà đặc biệt là các nhà sản
xuất thức ăn chăn nuôi thương mại. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả
sử dụng các chế phẩm probiotic và enzyme tiêu hóa (do viện Chăn nuôi phối hợp với viện Vi
sinh vật và Công nghệ Sinh học thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội nghiên cứu, sản xuất) trong
chăn nuôi gà Lương Phượng nuôi thịt.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các chế phẩm sinh học
Bốn chế phẩm sinh học dạng bột gồm: Hai chế phẩm sản suất trong nước [(chế phẩm đa
enzyme (EV) và chế phẩm probiotic - enzyme (PEV) do Viện Chăn nuôi và Viện Vi Sinh Vật
(VSV) và Công nghệ sinh học (NCSH) thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội phối hợp nghiên cứu
và sản xuất. Hai chế phẩm do các hãng nước ngoài sản xuất chế phẩm đa enzyme (KEZ) của
hãng Kemin Singapore và chế phẩm probiotic-enzyme (PEA) do hãng Alltech của Mỹ sản
xuất. Những thành phần có hoạt tính của các chế phẩm này được trình bày ở Bảng 1.
Gia cầm thí nghiệm và thức ăn.
Bảng 1. Những thành phần có hoạt tính của các chế phẩm sinh học dùng trong thí nghiệm.
Chế phẩm Thành phần có hoạt tính Đơn vị
Tính EV PEV KEZ* PEA**
Amylase IU/g 2209 2209 270 4400
Protease IU/g 108 108 900 264
Cellulase IU/g 1116 1116 4139 1100
-Glucanase BGX/g 200 200 - -
Xylanase IU/g 1000 1000 4205 -
Lactobacillus acidophilus
Enterococcus faecium
Saccharomyces cerevisiae
Cfu/g -
-
-
-
-
-
2,4 x 108
1,7 x 108
4,4 x 108
Bacillus subtilis
Saccharomyces boulardi
Enterococcus faecium
Pediococcus pentosaceus
Lactobacillus fermentum
Cfu/g
Cfu/g
Cfu/g
Cfu/g
Cfu/g
-
-
-
-
-
108
108
107
107
107
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
* Sản phẩm KEMZYM® brand V Dry của hãng KEMIN; ** Sản phẩm LACTO-SAC của hãng Alltech Mỹ. -
VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 21 -T háng 12-2009
22
Năm trăm gà Lương Phượng đã được sử dụng. Thời gian nuôi là 12 tuần (84 ngày). Giai đoạn
ừ 0-4 tuần tuổi, gà được nuôi trong chuồng nền xi măng có chất độn chuồng, thông thoáng tự
nhiên. Sau 4 tuần tuổi gà được nuôi trong lồng cho đến 84 ngày. Khẩu phần cơ sở cho gà thí
nghiệm được phối chế từ các nguyên liệu: ngô, sắn, khô dầu đậu tương, khô dầu dừa, bột thịt
xương, bột cá, dầu thực vật, premix vitamin-khoáng và các axit amin tổng hợp.
Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thiết kế theo phương pháp thí nghiệm hai nhân tố
Bảng 2. Khẩu phần cơ sở cho gà thí nghiệm
Khẩu phần cơ sở 1 Khẩu phần cơ sở 2 Thành phần
0-4 tt 4-8 tt 8-12 tt 0-4 tt 4-8 tt 8-12 tt
Ngô 63,51 67,75 72,69 54,51 46,23 41,56
Sắn khô 0,00 0,00 0,00 0,00 10,00 20,00
Cám mỳ 0,00 0,00 0,00 5,00 6,00 6,00
Khô dầu đậu tương 27,19 21,95 19,33 30,36 26,38 22,29
Khô dầu dừa 0,00 0,00 0,00 5,00 5,00 5,00
Bột cá nhạt 60% Pr 2,00 2,00 0,00 0,00 0,00 0,00
Bột thịt xương 5,00 5,00 5,00 0,00 0,00 0,00
Dầu thực vật 0,65 1,58 1,09 1,36 2,63 1,70
Premix vitamin-khoáng 0,25 0,25 0,25 0,25 0,25 0,25
Choline chloride 60% 0,072 0,099 0,12 0,074 0,11 0,140
L-Lysine HCl 0,026 0,072 0,110 0,066 0,085 0,092
DL-Methionine 0,160 0,190 0,160 0,140 0,190 0,170
L-Threonine 0,000 0,019 0,058 0,000 0,021 0,053
Muối ăn 0,072 0,04 0,058 0,170 0,120 0,096
Natri bicarbonate 0,270 0,250 0,290 0,290 0,280 0,300
Bột đá 0,32 0,44 0,56 0,98 1,04 1,02
Dicanxi phốt phát 0,48 0,36 0,29 1,80 1,67 1,33
Tổng 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
Thành phần dinh dưỡng
Vật chất khô (%) 87,90 87,82 87,62 88,30 88,37 88,14
NLTĐ (ME) (kcal/kg) 3000 3100 3100 2900 3000 3000
Protein thô (%) 21,00 19,00 17,00 20,00 18,00 16,00
Xơ thô (%) 4,10 4,01 3,98 5,03 5,09 5,18
Lysine (%) 1,15 1,05 0,95 1,09 1,00 0,90
Methionine (%) 0,49 0,46 0,43 0,44 0,43 0,41
Canxi (%) 0,90 0,85 0,80 0,90 0,85 0,80
Phốt pho dễ hấp thu (%) 0,45 0,40 0,35 0,45 0,40 0,35
Giá chưa có CBS* (đ/kg) 6390 6291 5870 6170 6036 5560
Giá đã gồm CBS (đ/kg)
- Bổ sung EV 6510 6411 5990 6290 6156 5680
- Bổ sung PEV 6550 6451 6030 6330 6196 5720
- Bổ sung KEZ 6465 6366 5945 6245 6111 6635
- Bổ sung PEA 6500 6401 5980 6280 6146 5670
*CBS: Chất bổ sung
Nhân tố I: Khẩu phần cơ sở (KPCS) gồm 2 khẩu phần: KPCS1 (tạo từ các nguyên liệu: ngô,
khô dầu đậu tương, bột cá, bột thịt xương) phối chế đảm bảo mức dinh dưỡng (giá trị năng
TRÂN QUỐC VIỆT– Ảnh hưởng của bổ sung probiotic và enzyme tiêu hóa ...
23
lượng, protein, axit amin thiết yếu...vv) cho gà Lương Phượng thương phẩm. KPCS 2 có hàm
lượng chất dinh dưỡng nghèo hơn KPCS1 (giá trị năng lượng, protein và lysine thấp hơn
KPCS1 từ 5%, hàm lượng xơ thô cao hơn từ 18-20%) với hệ nguyên liệu sử dụng đa dạng hơn
gồm ngô, khô dầu đậu tương, sắn (sau 28 ngày tuổi), cám mỳ và khô dầu dừa.
Nhân tố II: Chất bổ sung, gồm 4 loại: (1) chế phẩm đa enzyme tiêu hóa (EV); (2) chế phẩm
hỗn hợp (đa enzyme + Probiotic) (EPV); (3) chế phẩm đa enzyme của hãng Kemin (KEZ) và
(4) Chế phẩm probiotic-enzyme của hãng Alltech (Mỹ) sản xuất (PEA). Mức bổ sung các chế
phẩm của nước ngoài dựa vào mức khuyến cáo của nhà sản xuất (0,5 kg/tấn đối với KEZ và
PEA). Mức bổ sung chế phẩm EV và EPV được tính toán dựa trên cơ sở đảm bảo hàm lượng
của các enzyme chủ yếu (xylanase và cellulase) tính bằng IU/kg thức ăn tương đương với chế
phẩm của nước ngoài (2,0 kg/tấn cho mỗi loại). Để đánh giá hiệu quả của các chế phẩm sinh
học bổ sung, trong mỗi nhóm khẩu phần có 1 lô đối chứng. Tổng số (2 x 5) 10 lô thí nghiệm,
được bố trí theo kiểu khối, ngẫu nhiên hoàn toàn, mỗi lô có 5 lần lặp lại (10 con đồng đều
trống mái/lần lặp lại), 100 con/lô. Giai đoạn từ 1 đến 28 ngày tuổi, gà ở các lô được nuôi trền
sàn xi măng có chất độn chuồng. Sau 28 ngày tuổi, gà ở các lô được nuôi trên lồng. Trong giai
đoạn từ 42 đến 56 ngày gà ở các lô được ăn KPCS có bổ sung chất chỉ thị (Diatomit) trong
thời gian 12 ngày (7 ngày thích nghi và 5 ngày thu mẫu) để xác định tỷ lệ tiêu hóa (vật chất
khô (VCK), chất hữu cơ (CHC), proitein thô (Pr.th) và xơ thô. Đồng thời với việc thu mẫu
phân, mỗi lồng chọn 3 gà khỏe mạnh, có khối lượng trung bình để lấy mẫu phân trực tràng để
khảo sát một số chỉ tiêu về vi sinh vật (tổng vi khuẩn hiếu khí, tổng VK yếm khí, Lactobacilli
và chỉ số Coliform). Trong suốt giai đoạn thí nghiệm, gà ở các lô được ăn thức ăn dạng bột và
được uống nước sạch tự do. Chế độ chăm sóc, vệ sinh phòng bệnh cho gà ở các lô như nhau.
Các chỉ tiêu theo dõi
Thức ăn cho vào và thức ăn thừa được cân và ghi chép hàng ngày để tính lượng thức ăn ăn
vào và tiêu tốn thức ăn trên 1 kg tăng trọng. Gà ở các lô được cân vào các thời điểm lúc bắt
đầu (1 ngày tuổi) và mỗi khi chuyển giai đoạn để khảo sát tốc độ sinh trưởng. Tỷ lệ tiêu hóa
tổng số một số chất dinh dưỡng của khẩu phần (vật chất khô, chất hữu cơ, protein thô, xơ thô).
Tổng số vi khuẩn hiếu khí (VKHK), tổng số vi khuẩn yếm khí (VKYK), tổng vi khuẩn Lactic
và chỉ số coliform trong phân tươi trực tràng. Tình trạng sức khoẻ của của đàn gà được theo
dõi hàng ngày. Những con ốm, chết, khối lượng cơ thể lúc chết, nguyên nhân ốm, chết được
theo dõi và ghi chép hàng ngày để tính toán tỷ lệ nuôi sống.
Xử lý số liệu
Các số liệu thí nghiệm được xử lý thống kê ANOVA-GLM bằng phần mềm Minitab phiên
bản 13.0. Các kết quả thí nghiệm trình bày trong các bảng số liệu là giá trị trung bình ± sai số
chuẩn (SE). Student - T-Test được sử dụng để so sánh các giá trị trung bình với độ tin cậy
95%. Các giá trị trung bình coi là khác nhau có ý nghĩa thống kê khi giá trị P nhỏ hơn 0,05.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Ảnh hưởng của việc bổ sung probiotic và enzyme vào khẩu phần đến tỷ lệ tiêu hóa thức
ăn ở gà Lương Phượng nuôi thịt.
Ngô và khô dầu đậu tương là nguồn nguyên liệu được dùng phổ biến trong chăn nuôi gà thịt ở
nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường hạt cốc và khô dầu đậu tương
rất không ổn định và giá cả có xu hướng ngày càng tăng như hiện nay, việc xây dựng khẩu
phần tối ưu với giá thấp nhất ngày càng trở nên khó khăn và việc đa dạng hóa khẩu phần, sử
dụng những nguyên liệu giầu năng lượng và protein khác để giảm giá thành là vấn đề đang
VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 21 -T háng 12-2009
24
được quan tâm hàng đầu ở các nước châu Á (Wang và cs, 2005). Việc sử dụng các nguyên
liệu khác như lúa mỳ, đại mạch, cám gạo, khô dầu dừa vv... để xây dựng khẩu phần cho gà
thịt có thể làm giảm áp lực về giá nhưng lại làm tăng hàm lượng các gluxit không phải tinh
bột (NPS) trong khẩu phần, dẫn đến làm tăng khả năng hấp phụ nước và độ nhớt của chất
chứa đường ruột, làm giảm tỷ lệ tiêu hóa và khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng và do đó
làm giảm năng suất sinh trưởng ở gà (Choct và Annison, 1992; Almirall và cs, 1995; Choct và
cs, 1995; Wang và cs, 2005; Lesson và Summer, 2001). Giải pháp tốt nhất để khắc phục tình
trạng này là sử dụng các chế phẩm sinh học như probiotic và enzyme ngoại sinh để bổ sung
vào thức ăn. Rất nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ hiệu quả cải thiện tỷ lệ tiêu hóa thức ăn khi bổ
sung probiotic (Jin và cs, 2000; Mountzouris và cs, 2007) và enzyme (Bedford và Classen,
1992; Almirall và cs, 1995; Yu và cs, 1997) vào khẩu phần cho gà thịt. Nghiên cứu được tiến
hành nhằm khảo sát khả năng cải thiện tỷ lệ tiêu hóa một số chất dinh dưỡng của hai dạng
khẩu phần khác nhau nhờ việc bổ sung các chế phẩm probiotic và enzyme tiêu hóa (Bảng 3)
Bảng 3. Tỷ lệ tiêu hóa vật chất khô, chất hữu cơ, protein thô và xơ thô ở gà Lương Phượng
được ăn các KPCS có và không bổ sung probiotic và enzyme (%).
Tỷ lệ tiêu hóa (%)
Vật chất khô Chất hữu cơ Protein thô Xơ thô
Ảnh hưởng của khẩu phần
KPCS1 75,4a 76,2a 77,6a 69,4a
KPCS2 73,2b 73,9b 73,2b 66,9b
SE 0,4 0,3 0,4 0,6
P 0,001 0,001 0,001 0,005
Ảnh hưởng của bổ sung chế phẩm sinh học
EV 74,2a 74,9a 75,4a 67,9a
PEV 75,4a 76,6a 77,7a 70,5ab
KEZ 75,6a 76,0a 76,0a 70,1ab
PEA 75,1a 76,0a 77,0a 71,8b
ĐC 71,2b 71,8b 70,8b 60,5c
SE 0,6 0,5 0,7 0,9
P 0,001 0,001 0,001 0,001
Ảnh hưởng tương tác KP*bổ sung chế phẩm sinh học
KPCS1-EV 75,8 76,6a 78,2a 68,5a
KPCS1-PEV 75,9 77,0a 78,7a 69,9a
KPCS1-KEZ 76,9 77,5a 78,5a 71,2a
KPCS1-PEA 75,4 76,2ab 77,5ab 71,5a
KPCS1-ĐC1 73,1 73,6abc 75,0abc 65,9a
KPCS2-EV 72,6 73,3c 72,6b 67,2a
KPCS2-PEV 74,8 76,3abc 76,8abc 71,2a
KPCS2-KEZ 74,2 74,5bc 73,5ab 69,0a
KPCS2-PEA 74,8 75,7abc 76,5abc 72,0a
KPCS2-ĐC2 69,4 69,9a 66,6d 55,2b
SE 0,8 0,7 1,0 1,3
P 0,280 0,046 0,004 0,001
Bảng 3 cho thấy, tỷ lệ tiêu hóa vật chất khô (VCK), chất hữu cơ (CHC), protein thô (Pr.th) và
xơ thô ở nhóm được ăn KPCS1 cao hơn rõ rệt so với nhóm gà được ăn KPCS2. Khác với
TRÂN QUỐC VIỆT– Ảnh hưởng của bổ sung probiotic và enzyme tiêu hóa ...
25
KPCS2 (được phối chế từ nguyên liệu có tỷ lệ xơ cao), KPCS1 phối chế từ nguyên liệu truyền
thống gồm ngô, khô dầu đậu tương và một số loại thức ăn nguồn gốc động vật nên tỷ lệ tiêu
hóa các chất dinh dưỡng chủ yếu ở gà ăn khẩu phần này cao hơn là điều dễ hiểu.
Bảng 3 cũng cho thấy, các nhóm gà được ăn KPCS có bổ sung các chế phẩm sinh học (EV;
PEV; KEZ và PEA) đều có tỷ lệ tiêu hóa VCK, CHC, Pr.th và xơ thô cao hơn rất rõ rệt so với
các nhóm đối chứng. Tỷ lệ tiêu hóa VCK của các nhóm gà được ăn KPCS có bổ sung các chế
phẩm sinh học cao hơn so với đối chứng từ 4,2% đến 6,2% (P=0,001) và tỷ lệ này đối với
CHC; Pr.th và xơ thô lần lượt là: 4,3 - 6,7%; 6,5 - 9,7% và 12,2 - 18,7% tương ứng. Qua đó
thấy, hiệu quả của việc bổ sung các chế phẩm sinh học đối với tiêu hóa xơ thô của khẩu phần
có xu hướng cao hơn so với các thành phần khác như VCK, CHC và protein thô. Không thấy
có quan hệ tương tác giữa KPCS và việc bổ sung các chế phẩm sinh học đối với tỷ lệ tiêu hóa
VCK (P = 0,280), với CHC, protein thô và xơ thô thì quan hệ tương tác rất rõ rệt, đặc biệt đối
với tỷ lệ tiêu hóa xơ thô (P=0,001). Quan hệ tương tác này thể hiện ở sự khác biệt về hiệu quả
cải thiện tỷ lệ tiêu hóa do bổ sung các chế phẩm so với đối chứng ở các KPCS1 và KPCS2 rất
khác nhau. Tỷ lệ tiêu hóa CHC của gà ở nhóm được ăn KPCS1 cao hơn so với đối chứng
4,4%, tỷ lệ này của gà ở nhóm được ăn KPCS2 là 7,2%. Tương tự như vậy, đối với tỷ lệ tiêu
hóa protein thô (4,3% so với 12,3%) và xơ thô (6,7% so với 26,6%). Thông qua phân tích
tương tác ta thấy, việc bổ sung các chế phẩm sinh học gồm các enzyme tiêu hóa và probiotic-
enzyme tỏ ra có hiệu quả cao ở KPCS2, đặc biệt đối với tiêu hóa xơ thô của khẩu phần.
Ảnh hưởng của việc bổ sung probiotic và enzyme tiêu hóa vào khẩu phần đến sinh
trưởng của gà Lương Phượng nuôi thịt
Tốc độ sinh trưởng của gà thí nghiệm được trình bày ở Bảng 4. Các số liệu ở Bảng 4 cho thấy,
trong giai đoạn từ 0 đến 2 tuẩn tuổi, tốc độ sinh trưởng của nhóm gà được ăn KPCS1 cao hơn
nhóm được ăn KPCS2 14,8%, nhưng tỷ lệ này là 6,96% ở giai đoạn từ 2 đến 4 ttuôi và 2,8% ở
giai đoạn từ 4 đến 8 ttuổi. Trong giai đoạn vỗ béo, sự khác biệt về tốc độ sinh trưởng giữa các
nhóm rất nhỏ (0,9%) và không có ý nghĩa thống kê. Những kết quả trên cho thấy, ở giai đoạn
trước 8 tuần tuổi, đáp ứng về sinh trưởng của gà Lương Phượng thương phẩm tỏ ra tích cực
hơn đối với KPCS1, nhưng ở giai đoạn sau 8 tuần tuổi, có thể nuôi chúng bằng KPCS2 (nghèo
dinh dưỡng hơn) mà không ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của chúng. Kiểu đáp ứng này
thường gặp ở gia cầm do tốc độ sinh trưởng và nhu cầu của chúng trong giai đoạn gà con và
gà dò cao hơn so với giai đoạn vỗ béo (NRC, 1994; Lesson và Summers, 2001). Hơn nữa
trong giai đoạn vỗ béo (8-12 ttuổi), gà có khả năng sử dụng thức ăn giầu chất xơ tốt hơn nên
không có sự khác biệt về tốc độ sinh trưởng giữa hai nhóm được ăn KPCS 1 và 2.
Mục tiêu của nghiên cứu này không nhằm khảo sát các KPCS để từ đó rút ra khẩu phần nào là
thích hợp. Giả thuyết mà nghiên cứu này đưa ra là, với hai KPCS có giá trị dinh dưỡng và hệ
nguyên liệu sử dụng khác nhau thì hiệu quả của việc bổ sung các chế phẩm sinh học có khác
nhau không ?. Các kết quả ở bảng 4 cho thấy, đáp ứng về tốc độ sinh trưởng (g/con/ngày) của
gà thí nghiệm đối với việc bổ sung các chế phẩm sinh học khác nhau giữa các lô và các giai
đoạn sinh trưởng. Trong giai đoạn từ 0 đến 2 tt, chế phẩm EV tỏ ra có hiệu quả nhất, tốc độ
sinh trưởng bình quân của nhóm gà được ăn thức ăn có bổ sung chế phẩm n