Lạm phát là một trong những chỉ báo kinh tế vĩ mô quan trọng nhất và 
thường xuyên được sử dụng trong phân tích kinh tế. Tác động của lạm phát diễn ra 
rất rộng đối với nhiều lĩnh vực và thị trường chứng khoán cũng không phải là 
ngoại lệ.
Thật vậy, phân tích chứng khoán nói chung không thể thiếu những phân tích 
về ảnh hưởng của lạm phát đến cung - cầu phát hành và giao dịch chứng khoán, 
nhất là chứng khoán có thu nhập cố định. Đồng thời, giá trị các khoản đầu tư 
chứng khoán luôn bị ảnh hưởng trực tiếp bởi diễn biến của lạm phát và đây là một 
trong những rủi ro cơ bản trong đầu tư chứng khoán nói chung. Hoạt động sản xuất 
kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết – xương sống của thị trường chứng 
khoán – cũng chịu tác động trực tiếp và gián tiếp ở các mức độ khác nhau bởi lạm 
phát; và điều này đến lượt nó sẽ gây ra biến động giá cổ phiếu niêm yết trên thị
trường.
Trên cơ sở đó, bài viết này tập trung vào tìm hiểu ảnh hưởng của lạm phát 
đến thị trường chứng khoán dưới một số góc độ cơ bản liên quan đến cung cầu và 
hành vi đầu tư cổ phiếu. Phương pháp phân tích là áp dụng các lý thuyết kinh tế và 
kiểm chứng trong thực tế diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam. Thời kỳ
được xét từ 2007 đến nay là giai đoạn lạm phát “hoành hành” và diễn biến ngoài 
tầm kiểm soát tại nhiều thời điểm đi kèm với sự suy giảm đáng kể của thị trường 
chứng khoán trong nước.
Trước hết cần phải điểm lại diễn biến của lạm phát trong tương quan với thị
trường chứng khoán trong thời kỳ này. Có thể chia ra làm 4 giai đoạn khác nhau 
tương ứng với các chính sách mở rộng hay thắt chặt về tiền tệ và/hoặc tài khoá và 
lạm phát leo thang hay được kiềm chế. 
Giai đoạn 1 từ trước cho đến nửa đầu năm 2007. Trong giai đoạn này, chính 
sách tiền tệ được nới lỏng quá mức khiến cung tiền trong lưu thông tăng vọt. Đồng 
thời chính sách tài khoá cũng mở rộng theo. Tuy nhiên, tình trạng nhập khẩu lạm 
phát và hiệu quả đầu tư thấp trở nên rất rõ trong thời kỳ này, chứng tỏ nền kinh tế
không hấp thụ được nguồn cung tiền lớn và một phần đáng kể nguồn vốn được 
chuyển sang đầu tư vào các lĩnh vực không sản xuất và tiêu dùng. Hệ quả là lạm 
3
phát tăng lên mức cao nhất trong vòng 7 năm kể từ 2001 (8,3%) trong khi thị
trường chứng khoán trở nên quá nóng với việc chỉ số Vn-Index liên tục tăng, vượt 
qua mức 1100 điểm và trở thành đỉnh cao nhất trong lịch sử thị trường chứng 
khoán Việt Nam cho đến nay.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2578 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán Việt Nam – lý thuyết và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẢNH HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN THỊ 
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM – 
LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN 
Báo cáo chuyên đề số 1/2011 
1/15/2011 
Phạm Nguyễn Hoàng 
Phòng Phân tích và Dự báo thị trường 
Trung tâm NCKH-ĐTCK (UBCKNN) 
2 
Lạm phát là một trong những chỉ báo kinh tế vĩ mô quan trọng nhất và 
thường xuyên được sử dụng trong phân tích kinh tế. Tác động của lạm phát diễn ra 
rất rộng đối với nhiều lĩnh vực và thị trường chứng khoán cũng không phải là 
ngoại lệ. 
Thật vậy, phân tích chứng khoán nói chung không thể thiếu những phân tích 
về ảnh hưởng của lạm phát đến cung - cầu phát hành và giao dịch chứng khoán, 
nhất là chứng khoán có thu nhập cố định. Đồng thời, giá trị các khoản đầu tư 
chứng khoán luôn bị ảnh hưởng trực tiếp bởi diễn biến của lạm phát và đây là một 
trong những rủi ro cơ bản trong đầu tư chứng khoán nói chung. Hoạt động sản xuất 
kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết – xương sống của thị trường chứng 
khoán – cũng chịu tác động trực tiếp và gián tiếp ở các mức độ khác nhau bởi lạm 
phát; và điều này đến lượt nó sẽ gây ra biến động giá cổ phiếu niêm yết trên thị 
trường. 
Trên cơ sở đó, bài viết này tập trung vào tìm hiểu ảnh hưởng của lạm phát 
đến thị trường chứng khoán dưới một số góc độ cơ bản liên quan đến cung cầu và 
hành vi đầu tư cổ phiếu. Phương pháp phân tích là áp dụng các lý thuyết kinh tế và 
kiểm chứng trong thực tế diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam. Thời kỳ 
được xét từ 2007 đến nay là giai đoạn lạm phát “hoành hành” và diễn biến ngoài 
tầm kiểm soát tại nhiều thời điểm đi kèm với sự suy giảm đáng kể của thị trường 
chứng khoán trong nước. 
Trước hết cần phải điểm lại diễn biến của lạm phát trong tương quan với thị 
trường chứng khoán trong thời kỳ này. Có thể chia ra làm 4 giai đoạn khác nhau 
tương ứng với các chính sách mở rộng hay thắt chặt về tiền tệ và/hoặc tài khoá và 
lạm phát leo thang hay được kiềm chế. 
Giai đoạn 1 từ trước cho đến nửa đầu năm 2007. Trong giai đoạn này, chính 
sách tiền tệ được nới lỏng quá mức khiến cung tiền trong lưu thông tăng vọt. Đồng 
thời chính sách tài khoá cũng mở rộng theo. Tuy nhiên, tình trạng nhập khẩu lạm 
phát và hiệu quả đầu tư thấp trở nên rất rõ trong thời kỳ này, chứng tỏ nền kinh tế 
không hấp thụ được nguồn cung tiền lớn và một phần đáng kể nguồn vốn được 
chuyển sang đầu tư vào các lĩnh vực không sản xuất và tiêu dùng. Hệ quả là lạm 
3 
phát tăng lên mức cao nhất trong vòng 7 năm kể từ 2001 (8,3%) trong khi thị 
trường chứng khoán trở nên quá nóng với việc chỉ số Vn-Index liên tục tăng, vượt 
qua mức 1100 điểm và trở thành đỉnh cao nhất trong lịch sử thị trường chứng 
khoán Việt Nam cho đến nay. 
Giai đoạn 2 từ nửa cuối 2007 đến nửa đầu 2008 là giai đoạn thắt chặt tiền tệ. 
Biện pháp chính sách của các cơ quan quản lý là kiểm soát lạm phát thông qua việc 
điều hành và kiểm soát tăng tổng phương tiện thanh toán; đảm bảo tăng trưởng tín 
dụng mục tiêu và sau đó tín hiệu rõ nhất cho chính sách này là việc nâng lãi suất cơ 
bản lên 14%/năm và tháng 6/2008. Tuy nhiên, trong khi chính sách tiền tệ được 
thắt chặt thì hoạt động tài khoá vẫn không có dấu hiệu co lại, thậm chí tiếp tục tăng 
khiến cho áp lực lạm phát và lãi suất không giảm đi. Hiện tượng này dường như 
đúng với lý thuyết kinh tế cho rằng mục tiêu chính sách thắt chặt tiền tệ là làm 
giảm lãi suất, song do chính sách tài khoá lại mở rộng nên mục tiêu này sẽ bị triệt 
tiêu và trở nên khó thực hiện; lý do là vì tài khoá mở rộng sẽ có hiệu ứng làm tăng 
lãi suất. Do vậy, xu hướng leo thang của lạm phát vẫn tiếp tục và đã trở thành đỉnh 
điểm tới gần 23% cho năm 2008 - mức kỷ lục về lạm phát trong nền kinh tế trong 
nhiều năm qua. Trái ngược với giai đoạn trước, diễn biến của thị trường chứng 
khoán Việt Nam đã dịu dần sức nóng, chỉ số Vn-Index bắt đầu rời khỏi mốc cao kỷ 
lục ở giai đoạn trước và chuyển sang thời kỳ giảm sâu. 
Giai đoạn 3 từ nửa cuối 2008 đến cuối năm 2009 chứng kiến chính sách nới 
lỏng trở lại cả tiền tệ và tài khoá. Đây là giai đoạn khá đặc biệt khi các doanh 
nghiệp Việt Nam đã trải qua thời kỳ khó khăn từ chính sách thắt chặt tiền tệ của 
giai đoạn trước và thị trường quốc tế bị thu hẹp do tác động của cuộc khủng hoảng 
tài chính khởi phát từ Mỹ vào tháng 9/2008. Trong bối cảnh này, lãi suất cơ bản đã 
được giảm xuống một nửa (còn 7%/năm từ đầu 2009) và Chính phủ chủ trương 
thực hiện 3 gói kích cầu: Gói 1 - Hỗ trợ 4% lãi suất cho các khoản vay sản xuất và 
lưu thông hàng hoá; Gói 2 - Hỗ trợ 4% lãi suất cho các khoản vay đầu tư mới cho 
phát triển sản xuất kinh doanh, cơ sở hạ tầng; và Gói 3 - Hỗ trợ 100% lãi suất cho 
các khoản vay mua sắm máy móc, thiết bị cơ khí phục vụ sản xuất và chế biến 
nông nghiệp. Do độ trễ của chính sách thắt chặt tiền tệ ở giai đoạn trước cộng với 
4 
việc kiểm soát tốt dư nợ tín dụng và tổng phương tiện thanh toán dưới mức mục 
tiêu, kết quả của việc thực thi các chính sách nói trên khá thành công với việc lạm 
phát năm 2009 đã được khống chế và giảm mạnh xuống chỉ còn 6,88% và vẫn đạt 
được chỉ tiêu tăng trưởng GDP dù ở mức thấp, 5,32%. Mặt khác, các chính sách 
này cũng kịp thời giúp tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong 
nước đủ sức chống chọi với suy thoái kinh tế. Có lẽ chính vì điều này nên một số 
nhà quan sát quốc tế đã tỏ ra ấn tượng trước khả năng ứng phó trước “khủng hoảng 
tài chính thế giới 2008” của Việt Nam. Tính đến đầu quý 4/2009, thị trường chứng 
khoán nhờ vậy đã hồi phục và tăng trưởng 165% đối với chỉ số Vn-Index (từ 235,5 
điểm ngày 24/2/2009 lên 624,1 điểm ngày 22/10/2009) và 179% đối với chỉ số 
HNX-Index (các chỉ số tương ứng là 78,06 và 218,38 điểm). 
Giai đoạn 4 từ cuối năm 2009 đến nay diễn ra việc thu hẹp chính sách tiền 
tệ. Các gói hỗ trợ lãi suất đã được chấm dứt và lãi suất cơ bản đã hai lần được nâng 
lên: 8%/năm (từ 1/12/2009) và 9%/năm (từ 5/11/2010). Các loại lãi suất chính 
khác cũng được điều chỉnh tăng mạnh. Ngoài ra, cơ quan quản lý còn tiếp tục điều 
chỉnh kỳ hạn và khối lượng bơm tiền qua nghiệp vụ thị trường mở (bắt đầu thực 
hiện từ giữa tháng 10/2010) để kiểm soát và hạn chế bớt dòng tiền đổ vào nền kinh 
tế. Đây rõ ràng là các biện pháp nhằm thu hẹp tiền tệ để hướng tới mục tiêu kiềm 
chế lạm phát khi mà chỉ báo này (CPI) đã tăng lên tới trên 9% năm 2010. Mặc dù 
đã chấm dứt các biện pháp nới lỏng tiền tệ-tài khoá từ giai đoạn trước và thực hiện 
thu hẹp tiền tệ, nhưng do tăng trưởng tín dụng vẫn cao (29,81% tính đến 
31/12/2010, vượt quá mục tiêu 25%), đồng thời tăng trưởng tổng phương tiện 
thanh toán năm 2010 cũng ở mức cao so với tăng trưởng GDP (25,3% so với 
6,78%) và một số nguyên nhân khác, nên chỉ số lạm phát vẫn tăng và đã vượt lên 
gần mức hai con số. Trong bối cảnh lạm phát cao như vậy, giao dịch trên thị 
trường chứng khoán không còn sức tăng mạnh như năm trước, trải qua những diễn 
biến tăng giảm thất thường và nhìn chung sụt giảm. 
Diễn biến và quan hệ giữa lạm phát và thị trường chứng khoán Việt Nam 
qua 4 giai đoạn nêu trên từ 2007 đến nay có thể quan sát và so sánh ở hai biểu đồ 
dưới đây: 
5 
Biểu đồ 1: Lạm phát tại Việt Nam từ 2001-2010 (%) 
Nguồn số liệu: TCTK 
Biểu đồ 2: Diễn biến chỉ số Vn-Index qua 4 giai đoạn từ 2007 đến nay 
Qua diễn biến 4 giai đoạn như trên, có thể rút ra một số tương quan rõ rệt 
chung nhất giữa lạm phát và thị trường chứng khoán tại Việt Nam thời gian qua 
như sau: Khi lạm phát tăng có mức độ trong bối cảnh cung tiền tăng mạnh và mở 
rộng chi tiêu Chính phủ thì thị trường chứng khoán tăng trưởng nóng; khi lạm phát 
0.8
3.9 3.1
7.8 8.3 7.5 8.3
23
6.9
9.19
0
5
10
15
20
25
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Lạm phát (%)
Giai đoạn 1: Lạm 
phát tăng và nới 
lỏng quá mức tiền 
tệ-tài khoá 
Giai đoạn 2: 
Lạm phát cao kỷ 
lục và thắt chặt 
tiền tệ 
Giai đoạn 3: Lạm 
phát được kiềm 
chế và tiền tệ nới 
lỏng trở lại 
Giai đoạn 4: 
Lạm phát tăng 
cao và tiền tệ 
thu hẹp 
6 
tăng quá cao vượt quá tầm kiểm soát trong bối cảnh thắt chặt tiền tệ thì thị trường 
chứng khoán suy giảm nhanh. Ở trạng thái ngược lại, khi lạm phát giảm trong bối 
cảnh thực thi chính sách tiền tệ và tài khoá nới lỏng thì thị trường chứng khoán 
tăng trưởng trở lại. Cuối cùng, ở trạng thái trung tính, khi lạm phát tăng có mức độ 
nhưng không đến mức quá cao và trong môi trường thu hẹp tiền tệ thì thị trường 
chứng khoán sẽ “lưỡng lự” và cũng trong xu thế thu hẹp. 
Để có cơ sở rõ hơn về vấn đề này, chúng ta có thể áp dụng một số lý thuyết 
kinh tế sau để giải thích cho ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán 
Việt Nam. Nhằm đơn giản hơn trong phân tích, có thể giới hạn trong việc nghiên 
cứu ảnh hưởng của môi trường lạm phát tăng (không xét lạm phát giảm) đến giao 
dịch trên thị trường chứng khoán như thế nào. Theo ý nghĩa này, có 3 cơ chế khiến 
cho lạm phát có thể ảnh hưởng mạnh đến cung cầu và hành vi giao dịch chứng 
khoán trên thị trường. 
Thứ nhất, lạm phát ảnh hưởng gián tiếp đến thị trường chứng khoán thông 
qua tác động đến tình hình sản xuất hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp nói 
chung và các doanh nghiệp niêm yết nói riêng. Lạm phát là biểu hiện của sự tăng 
lên và kéo dài của mức giá cả chung trong nền kinh tế; và một trong những nguyên 
nhân dẫn tới lạm phát là do chi phí tăng cao (lạm phát chi phí đẩy). Do vậy, lạm 
phát tăng thường đồng nghĩa với việc chi phí đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh 
doanh của các doanh nghiệp tăng lên. Ví dụ, lạm phát khiến chi phí lãi vay của 
doanh nghiệp đắt đỏ hơn bởi vì các tổ chức cho vay như ngân hàng thương mại đã 
phải nâng lãi suất huy động lên để đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền. 
Khi chi phí sản xuất tăng cao, giá thành các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp sẽ 
phải tăng theo để đảm bảo sản xuất – kinh doanh hoặc có lợi nhuận. Tuy nhiên, sức 
tiêu thụ sản phẩm-dịch vụ của doanh nghiệp sẽ sụt giảm do giá bán cao, đặc biệt 
trong ngắn hạn và khi người tiêu dùng tìm tới các sản phẩm thay thế. Điều này 
khiến cho lợi nhuận mục tiêu của doanh nghiệp khó được đảm bảo và thậm chí sụt 
giảm, dẫn tới lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp trong tương lai bị định giá thấp. 
Kết quả là giá cổ phiếu của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường bị ảnh hưởng 
theo hướng suy giảm với các mức độ khác nhau. Nếu lạm phát càng tăng mạnh thì 
7 
hệ quả này diễn ra càng nhanh và giá cổ phiếu càng bị ảnh hưởng mạnh. Nếu lạm 
phát tăng quá cao lại diễn ra trong môi trường chính sách tiền tệ - tài khoá thắt chặt 
thì hậu quả còn nặng nề hơn vì thanh khoản trên thị trường bị co hẹp đáng kể do 
luồng vốn lưu thông trên thị trường sụt giảm. Điều này trên thực tế đã diễn ra rõ 
nhất trong năm 2008 (ứng với giai đoạn 2 nêu trên). Trong bối cảnh lạm phát lên 
tới mức hai con số kỷ lục như trên, các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn do 
thiếu vốn đầu tư và thị trường bị thu hẹp. Do vậy, kết quả kinh doanh của các 
doanh nghiệp niêm yết trong quý 2 và quý 3/2008 thấp hơn rất nhiều so với cùng 
kỳ năm 2007, dẫn tới giá cổ phiếu sụt giảm mạnh trên thị trường. 
Thứ hai, lạm phát có thể tác động trực tiếp đến tâm lý nhà đầu tư và giá trị 
của các khoản đầu tư trên thị trường chứng khoán. Lạm phát tăng là một trong 
những biểu hiện bất ổn của nền kinh tế. Do vậy, lạm phát tăng cao có thể dẫn tới 
nguy cơ khủng hoảng niềm tin vào nền kinh tế, nhất là khi Chính phủ tỏ ra bất lực 
trong việc kiềm chế lạm phát leo thang. Trong môi trường này, tâm lý nhà đầu tư 
trên thị trường chứng khoán cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng và thị trường chứng 
khoán sẽ không còn là một địa chỉ thu hút vốn đầu tư bởi nó cũng chính là một 
“phong vũ biểu” của nền kinh tế. Nếu điều này xảy ra, sẽ xuất hiện “tâm lý bầy 
đàn” trong việc bán tháo cổ phiếu do khủng hoảng niềm tin. Hậu quả sẽ là cung cổ 
phiếu lớn gấp nhiều lần so với cầu và thị trường diễn ra tình trạng kém thanh khoản 
nghiêm trọng. Điều này càng trở nên hiện thực khi các nhà đầu tư cảm thấy sự mất 
mát trên thị trường chứng khoán do giá trị các khoản vốn đầu tư vào chứng khoán 
của họ đã bị giảm đi về mặt giá trị tương đối so với môi trường khi lạm phát chưa 
tăng. Sự trớ trêu trong hoàn cảnh này là thị trường chứng khoán càng trở nên kém 
hấp dẫn hơn so với các hình thức đầu tư khác như gửi tiết kiệm do lãi suất đã được 
tăng để đảm bảo lãi thực trên hệ thống ngân hàng, hoặc so với đầu tư vào vàng do 
sức tăng giá của vàng lớn hơn với vai trò là “nơi trú ẩn” an toàn trong môi trường 
bất ổn kinh tế. Có lẽ hiện thực này đã diễn ra ứng với giai đoạn 4 nêu trên với 
những biểu hiện rất rõ như lạm phát tăng đáng kể, lãi suất trên thị trường tiền tệ 
tăng cao, giá vàng leo lên các mức kỷ lục lịch sử và thị trường chứng khoán nhìn 
chung đi xuống. Nếu chưa kể đến các yếu tố kinh tế khác có tác động như ảnh 
8 
hưởng của thị trường thế giới, cung tiền, tính chất mùa vụ, v.v…, những diễn biến 
trên rõ ràng chịu ảnh hưởng của môi trường lạm phát và diễn ra phù hợp với các 
quy luật kinh tế. 
Thứ ba, lạm phát tăng cao sẽ ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán thông 
qua con đường thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát. Có thể 
xem xét ảnh hưởng này trước hết với trái phiếu theo mô hình định giá trái phiếu 
như sau: 
Trong đó: 
P0 : Giá trái phiếu đầu kỳ 
Pn: Giá bán trái phiếu cuối kỳ n 
Cn: Lãi suất coupon thời kỳ n 
YTM: Lợi suất khi đáo hạn của trái phiếu 
Khi cơ quan quản lý triển khai chính sách tiền tệ thắt chặt trong môi trường 
lạm phát, mức lãi suất chung trên thị trường có xu hướng tăng. Điều này dẫn tới 
yêu cầu và thực tế lợi suất khi đáo hạn (YTM) của trái phiếu tăng theo. Do quan hệ 
nghịch biến giữa giá và lợi suất trái phiếu, giá trái phiếu trên thị trường sẽ giảm 
xuống và để tránh rủi ro này, nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu có xu hướng bán ra trái 
phiếu hoặc cơ cấu lại danh mục đầu tư. Hệ quả là thị trường trái phiếu diễn ra tình 
trạng bán tháo trái phiếu và gây ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường đấu thầu và huy 
động vốn trái phiếu. Trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng diễn ra hiện 
tượng này vào cuối năm 2008 khi nhiều tổ chức đầu tư nước ngoài đẩy mạnh bán 
ra trái phiếu do lo ngại lãi suất thị trường tăng để kiềm chế lạm phát. 
Đối với thị trường cổ phiếu, ảnh hưởng tiêu cực của lạm phát có thể được 
giải thích thông qua mô hình định giá cổ phiếu Gordon như sau: 
9 
Trong đó: 
P0: Giá cổ phiếu thời kỳ đầu 
Div (0,1): Cổ tức (thời kỳ đầu và cuối kỳ) 
kE: Lợi suất yêu cầu khi đầu tư vào cổ phiếu 
g: Tỷ lệ tăng trưởng cổ tức hàng năm của doanh nghiệp 
Do việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát, tương tự 
như trên, lãi suất trên thị trường có xu hướng tăng. Từ kết quả trên đây đối với thị 
trường trái phiếu (YTM tăng), và lãi suất danh nghĩa khi gửi tiền trên hệ thống 
ngân hàng đã tăng, nhà đầu tư sẽ khó có thể chấp nhận một mức lợi suất đầu tư vào 
cổ phiếu thấp (kE). Nói cách khác, lợi suất yêu cầu kE sẽ phải tăng theo, do vậy 
chênh lệch lợi suất đầu tư và tỷ lệ tăng trưởng của doanh nghiệp (kE – g) tăng lên, 
đồng nghĩa với giá cổ phiếu (P0) giảm xuống. Với dự báo giá cổ phiếu giảm như 
vậy, thị trường cổ phiếu sẽ chuyển sang giai đoạn suy thoái do các hoạt động bán 
trước cổ phiếu để phòng ngừa rủi ro giảm giá. Mặt khác, khi lạm phát và lãi suất 
tăng, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng xấu theo 
hướng giảm đi do chi phí tăng và lợi nhuận kỳ vọng sụt giảm. Hệ quả của điều này 
cũng là (kE – g) tăng lên và dẫn tới xu hướng tương tự (giá cổ phiếu giảm xuống). 
Như vậy, trong môi trường lạm phát tăng cao, giao dịch trên thị trường 
chứng khoán nhìn chung bị ảnh hưởng theo hướng tiêu cực một cách ngẫu nhiên 
thông qua cơ chế tác động của chính sách tiền tệ thắt chặt được triển khai có hiệu 
quả (khiến lãi suất thực dương). 
Trong bốn giai đoạn xem xét ở phần đầu, không có một giai đoạn nào diễn 
ra theo đúng cơ chế thứ 3 này. Lý do cơ bản là vì không có một chính sách tiền tệ 
thắt chặt triệt để; ví dụ, giai đoạn 2 thắt chặt tiền tệ nhưng chính sách tài khóa vẫn 
mở nên lãi suất không giảm, giai đoạn 4 chỉ là thu hẹp tiền tệ và dù lãi suất sau 
P
Div g
k g
Div
k gE E
0
0 1
1
10 
cùng có tăng mạnh đảm bảo bù rủi ro lạm phát nhưng tăng trưởng tín dụng và tổng 
phương tiện thanh toán trong nền kinh tế vẫn tăng. 
Để kết luận, có thể nói ảnh hưởng của diễn biến lạm phát đến thị trường 
chứng khoán tại Việt Nam trong 4 năm qua là hoàn toàn mang tính khách quan và 
phù hợp với các quy luật thị trường. Nói cách khác, không có sự “trái quy luật” nào 
diễn ra trong quan hệ giữa diễn biến của thị trường chứng khoán Việt Nam và lạm 
phát thời gian qua. Việc thực thi phối hợp các chính sách kinh tế khác nhau nhằm 
mục tiêu định hướng lạm phát đã thực sự khiến cho thị trường chứng khoán vận 
động theo những hướng khác nhau một cách logic. Chỉ khi nào việc quản lý điều 
hành thị trường tiền tệ, tài khoá và các chính sách khác không đồng bộ mới xảy ra 
việc cơ chế tác động của lạm phát đến thị trường chứng khoán không hoạt động 
hoặc kém hiệu lực. Để có thể xác định được một cách chính xác nhất ảnh hưởng 
của lạm phát đến thị trường chứng khoán như thế nào, cần phải có những nghiên 
cứu nhằm xây dựng các mô hình kinh tế lượng để có thể đo lường mức độ ảnh 
hưởng của lạm phát cùng với các biến số độc lập khác đến giao dịch chứng khoán 
trên thị trường. Tuy nhiên, điều này là một trở ngại không nhỏ liên quan đến nguồn 
số liệu và tính phức tạp của bản thân vấn đề. Do vậy, việc áp dụng các lý thuyết 
kinh tế để giải thích cho những thực tế như đã trình bày ở trên là điều cần thiết./.