Đề tài Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật

Văn bản quy phạm pháp luật(VBQPPL) là văn bản được ban hành ra để điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống hằng ngày, để có thể điều chỉnh được những quan hệ đó nhằm đạt được những mục đích mà nhà nước đã định ra, đòi hỏi các VBQPPL đó phải có đầy đủ quyền uy được bảo đảm bởi nhà nước. Muốn có được quyền uy đó từ nhà nước, đòi hỏi các chủ thể khi xây dựng VBQPPL thuộc thẩm quyền của mình phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định, một trong những nguyên tắc đó là nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 3, khoản 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008(Luật Ban hành VBQPPL 2008): “Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật”. Nội dung của nguyên tắc này cụ thể như thế nào mà có khả năng chi phối rất lớn đến hiệu lực, tính khả thi của VBQPPL, sau đây sẽ là phần phân tích để làm rõ.

doc9 trang | Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 3318 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cấu trúc bài luận trang I. Đặt vấn đề…………………………………………….………………….1 II. Nội dung vấn đề……………………………………………….…………1 Khái niệm Văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng văn bản quy phạm pháp luật………………………………….1 Khái niệm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật…………………………..2 Nguyên nhân của việc phải bảo đảm nguyên tắc hợp hiến, hợp pháp trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật...........................2 Làm rõ nội dung của nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật………………...3 Nội dung của nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ………………….....3 Nội dung của nguyên tắc bảo đảm tính hợp pháp trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ…………………….4 Những giải pháp nhằm nâng cao nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong xây dựng văn bản QPPL pháp luật…………7 III. Tổng kết……………………………………………….……….…………7 * * * * * * * * Một số từ viết tắt 1. VBPL  : Văn bản pháp luật 2. QLNN  : Quản lý Nhà nước 3. HĐND và : Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân UBND 4. VBADPL : Văn bản áp dụng pháp luật 5. TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh 6. XHCN : Xã hội chủ nghĩa 7. BMNN : Bộ máy Nhà nước 8. QSDĐ : Quyền sử dụng đất 9. QSH : Quyền sở hữu 10. Luật TCTAND 2002 : Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002 VKSNDTC : Viện Kiểm sát nhân dân tối cao I. Đặt vấn đề Văn bản quy phạm pháp luật(VBQPPL) là văn bản được ban hành ra để điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống hằng ngày, để có thể điều chỉnh được những quan hệ đó nhằm đạt được những mục đích mà nhà nước đã định ra, đòi hỏi các VBQPPL đó phải có đầy đủ quyền uy được bảo đảm bởi nhà nước. Muốn có được quyền uy đó từ nhà nước, đòi hỏi các chủ thể khi xây dựng VBQPPL thuộc thẩm quyền của mình phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định, một trong những nguyên tắc đó là nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 3, khoản 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008(Luật Ban hành VBQPPL 2008): “Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật”. Nội dung của nguyên tắc này cụ thể như thế nào mà có khả năng chi phối rất lớn đến hiệu lực, tính khả thi của VBQPPL, sau đây sẽ là phần phân tích để làm rõ. II. Nội dung vấn đề. 1. Khái niệm Văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Thứ nhất, về khái niệm VBQPPL: Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật Ban hành VBQPPL: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này hoặc trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trong đó, có quy tắc xử xự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Với khái niệm này, ta thấy một số đặc điểm của VBQPPL, đó là: do cơ quan nhà nước(CQNN) ban hành hoặc phối hợp ban hành, bởi lẽ, các cơ quan nhà nước là chủ thể được nhà nước trao quyền trong hoạt động quản lý, do đó để có thể thực hiện được chức năng quản lý của mình các CQNN phải ra VBPL thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình để thực hiện các hoạt động đó; có chứa đựng các quy tắc xử xự chung, có hiệu lực bắt buộc chung. Quy tắc xử xự chung, hiệu lực bắt buộc chung này nên hiểu theo hướng đó là: đối với các VBQPPL của Trung ương thì có hiệu lực đối với mọi chủ thể trong một quốc gia, buộc mọi chủ thể đó phải xử xự theo các quy định của pháp luật, còn đối với các VBQPPL của địa phương thì chỉ có hiệu lực đối với các chủ thể của địa phương đó mà thôi; được Nhà nước bảo đảm, sự bảo đảm đó có thể là bằng sức mạnh cưỡng chế. Thứ hai, về khái niệm xây dựng VBQPPL: “xây dựng VBQPPL là hoạt động của nhà nước bao gồm những quy trình nhất định để tạo nên những VBQPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quản lý nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra”(trích bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của VBPL – kilobooks.com). Như vậy, đây là khâu quan trọng để tạo ra sản phẩm cuối cùng là một VBQPPL hoàn chỉnh, đáp ứng các yêu cầu về nội dung và hình thức theo quy định của pháp luật, khâu này cũng quyết định việc VBQPPL đó tồn tại trong thời gian bao lâu để điều chỉnh các vấn đề(thời gian tồn tại của văn bản). 2. Khái niệm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong xây dựng VBQPPL. “Bảo đảm tính hợp hiến trong xây dựng VBQPPL tức là đảm bảo cho các VBQPPL được ban hành không trái với các quy định cơ bản nhất, quan trọng nhất trong Hiến pháp”(trích kilobooks.com – bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của VBPL), bởi lẽ, Hiến pháp có tính tối cao nhất trong hệ thống pháp luật, nếu một VBQPPL lại trái với những quy định quan trọng nhất thì liệu những quy định trong VBQP sai trái đó có thi hành được trên thực tế không? Bảo đảm tính hợp pháp chính là sự phù hợp của dự án VBQPPL với các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền ban hành, hình thức, nội dung, thủ tục, thời hạn ban hành. Nếu như bảo đảm tính hợp hiến là sự phù hợp của VBQPPL với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn(một hướng) thì bảo đảm tính hợp pháp là sự phù hợp của VBQPPL với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn hoặc là ngang bằng về hiệu lực, chẳng hạn như: giữa Luật với Pháp lệnh hoặc giữa Luật Đất đai với Luật Nhà ở... 3. Nguyên nhân của việc phải bảo đảm nguyên tắc hợp hiến, hợp pháp trong xây dựng VBQPPL. Một là, việc bảo đảm nguyên tắc này trong xây dựng VBQPPL là xuất phát từ việc nhằm làm cho hệ thống pháp luật từ trên xuống dưới phù hợp nhau (giữa Hiến pháp và các Luật) để có thể điều chỉnh được một vấn đề cụ thể, hơn nữa việc tuân theo nguyên tắc này cũng chính là sự tuân theo quy luật trong sự hình thành nên các chuẩn mực pháp lý: từ những vấn đề lớn nhất, cơ bản nhất, sau đó có sự phân chia dần để có thể đi sâu vào mọi quan hệ xã hội và điều chỉnh các quan hệ đó. Do đó quá trình này không được phép sai lệch, chỉ sai lệch nhỏ cũng sẽ không điều chỉnh tốt một vấn đề nào đó. Hai là, xuất phát từ việc các ngành luật đều có sự liên quan mật thiết với nhau, cùng tham gia vào việc điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm làm ổn định đời sống xã hội. Cho nên yêu cầu đặt ra hiện nay là phải tạo nên sự thống nhất giữa các ngành luật do những chủ thể khác nhau trong QLNN ban hành, nếu đạt được yêu cầu này thì các ngành luật đó không những không có sự mâu thuẫn mà còn có sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong điều chỉnh các vấn đề cuối cùng là đạt được mục đích hợp pháp của nhà nước. Ba là, trong quá trình ban hành ra một VBQPPL thì văn bản đó có thể động chạm tới nhiều văn bản do các chủ thể có thẩm quyền khác ban hành, nên xuất phát từ lý do tôn trọng sự tối cao của Hiến pháp và các chủ thể có thẩm quyền ra các văn bản có giá trị pháp lý ngang với mình, các chủ thể phải tự ý thức được trách nhiệm của mình trong quá trình soạn thảo, thông qua các VBQPPL thuộc thẩm quyền, phải đề cao công tác nghiên cứu các VBQPPL của các chủ thể khác ban hành trước về cùng một vấn đề xem khi mình ban hành văn bản đó có ảnh hưởng đến hiệu lực pháp lý của văn bản đang có giá trị thi hành của các chủ thể khác ban hành hay không, nếu xét thấy văn bản của các chủ thể khác không hợp hiến và trái với văn bản mà mình đang ban hành thì kiến nghị sửa đổi văn bản đó, còn nếu nhận thấy văn bản của mình đang đi ngược lại VBQPPL của chủ thể khác mà văn bản của chủ thể đó có tính hợp hiến, hợp pháp thì phải chỉnh sửa ngay VBQPPL mà mình chuẩn bị ban hành. 4. Làm rõ nội dung của nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong xây dựng VBQPPL. 4.1. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến trong xây dựng VBQPPL, ví dụ. Trước hết, nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ: các nguyên tắc pháp lý được xác định trong VBQPPL mà các chủ thể có thẩm quyền ban hành phải tuân theo những nguyên tắc pháp lý cơ bản đã được Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam xây dựng nên, đó là những nguyên tắc như: Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của nhân dân lao động vào quản lý nhà nước và xã hội, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa... Nếu tuân thủ nghiêm các nguyên tắc hiến định khi xây dựng nên các VBQPPL thì không những VBQPPL đó đã đạt chuẩn mực pháp lý cao mà còn có khả năng tác động đến các đối tượng, các vấn đề một cách hiệu quả nhất, có khả năng làm cho các đối tượng chịu sự tác động phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh pháp luật, làm cho các vấn đề đó phát triển tuân theo quy luật nhất định mà nhà nước mong muốn, ngược lại, nếu không tuân theo các nguyên tắc pháp lý đó thì khả năng VBQPPL mới được ban hành ra đã phải sửa đổi, bổ sung thậm chí là hủy bỏ là điều không thể tránh khỏi. Trong thời gian qua, những VBQPPL phần lớn phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, những VBQPPL trái Hiến pháp được ban hành không nhiều nhưng cũng không phải không tồn tại. Nhiều dự thảo VBQPPL có nội dung trái Hiến pháp được đưa ra thảo luận nhưng đã được phát hiện kịp thời và bị hủy bỏ. “Ví dụ như Dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ do Bộ Giao thông vận tải soạn thảo có nội dung tăng mức xử phạt vi phạm giao thông đường bộ ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Bộ tư pháp cho rằng một hành vi vi phạm nhưng mỗi nơi lại áp dụng quy định khác nhau là vi phạm Hiến pháp. Cụ thể là ở Điều 52 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”(trích kilobooks.com – bảo đảm tính hợp hiến hợp pháp của VBPL). Một ví dụ nữa thể hiện VBQPPL được ban hành nhưng trái với Hiến pháp (chương các quyền và nghĩa vụ của công dân) như sau: “ngày 24/10/2008, Cục Kiểm tra VBQPPL thuộc Bộ Tư pháp đã có văn bản gửi Bộ Y tế về việc kiểm tra Quyết định số 33/2008/QĐ-BYT về việc ban hành tiêu chuẩn sức khỏe của người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới và Quyết định số 34/2008/QĐ-BYT về việc ban hành sức khỏe của người khuyết tật điều khiển mô tô, xe ba bánh. Theo đó, qua kiểm tra bước đầu cũng như việc phân tích đánh giá các ý kiến phản ánh về tính hợp hiến, hợp pháp và hợp lý, thì Bộ Tư pháp đã nhận định việc đưa ra quá nhiều tiêu chuẩn(83 tiêu chuẩn), đặc biệt có những tiêu chuẩn chiều cao, cân nặng và một số tiêu chuẩn khác không phù hợp đã hạn chế quyền hiến định của công dân trong việc khai thác giá trị sử dụng của tài sản- phương tiện giao thông thuộc sở hữu của mình”(diễn đàn pháp luật). Thứ hai, nội dung các quy phạm trong VBQPPL được ban hành để điều chỉnh các vấn đề phải phù hợp và thống nhất với các quy phạm đã được xác định trong Hiến pháp. Bởi lẽ, nếu các quy phạm được xây dựng trong các VBQPPL đó mà trái(không tuân theo tinh thần) của Hiến pháp, thì các quy phạm đó sẽ không có khả năng tác động tốt tới các đối tượng, khả năng nhận được sự phản đối của các đối tượng là điều không tránh khỏi, bởi vì sự không tuân theo quy luật của các chủ thể ban hành văn bản thì một điều tất yếu là các văn bản đó sẽ phải bị loại bỏ, không cho thi hành trên thực tế nhằm tránh những thiệt hại nhất định cho xã hội. Một trong những ví dụ cụ thể cho việc cần phải tuân thủ đúng các quy phạm được quy định trong Hiến pháp: “Theo Ủy ban Pháp luật, nội dung một số văn bản hướng dẫn thi hành còn trái với Hiến pháp. Đơn cử Thông tư 02 ngày 13/1/2003 của Bộ Công an về hướng dẫn tổ chức cấp đăng ký, biển số phương tiện giao thông cơ giới đã quy định: "...Mỗi người chỉ được đăng ký 1 xe môtô hoặc xe gắn máy". Quy định này đã hạn chế quyền sở hữu của công dân, được quy định tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992, vi phạm khoản 1, Điều 221 BLDS là công dân có quyền sở hữu tài sản hợp pháp, không bị hạn chế về số lượng, giá trị”(bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của VBPL – kilobooks.com). Với quy định tại điểm 2 Mục A Phần II các loại giấy tờ của chủ xe khi đến đăng ký xe của Thông tư số 02/2003 của Bộ Công an như trên là hoàn toàn không hợp lý, do đó đã bị sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 17/2005 của Bộ Công an để bảo đảm tính hợp hiến của một VBQPPL. Một ví dụ khác, tại Điều 2 Nghị định số 67 ngày 19/02/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Giám định Tư pháp, đã cho phép cơ quan thuộc Chính phủ được ban hành VBQPPL. Điểm sai của Nghị định này chính là đã đi ngược lại những quy định của Hiến pháp về Tổ chức bộ máy nhà nước. Theo đó, Điều 116 Hiến pháp quy định thì chỉ Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ ra Quyết định, Chỉ thị, Thông tư và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở. Như vậy, Hiến pháp không quy định hay nói cách khác là không cho phép các cơ quan thuộc Chính phủ được ra văn bản dưới hình thức pháp lý quy phạm để thực hiện nhiệm vụ. Thứ ba, nội dung của nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến trong xây dựng VBQPPL còn thể hiện ở nội dung nữa như sau: những cơ quan và nhà chức trách có quyền ban hành VBQPPL thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình cần phải tuân theo những quy định của Hiến pháp đã xác định những cơ quan và nhà chức trách đó có thẩm quyền ban hành loại văn bản nào tại chương quy định về Tổ chức của Bộ máy Nhà nước. Nếu tuân thủ đúng nguyên tắc đó thì đảm bảo sẽ không còn tồn tại một số thực trạng: một số chủ thể có thẩm quyền ban hành VBQPPL nhưng không ban hành những văn bản thuộc quyền của mình mà lại ban hành một văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của một chủ thể khác trong bộ máy nhà nước. Chẳng hạn như việc UBND ban hành Nghị quyết – là văn bản của HĐND mà không phải là Quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, điều này đã vi phạm một cách nghiêm trọng các quy định của Hiến pháp. 4.2. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm tính hợp pháp trong xây dựng VBQPPL, ví dụ. Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện rõ trên các phương diện sau: Một là, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp dưới phải phù hợp với VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên về nội dung và các nguyên tắc. Điều này có nghĩa là chuẩn mực pháp lý để đánh giá một VBQPPL chỉ có thể là VBQPPL khác mà không phải là VBADPL, hơn nữa phải là một VBQPPL có giá trị pháp lý cao hơn hoặc ngang bằng với văn bản được xây dựng. Ví dụ, để đánh giá tính hợp pháp của một Pháp lệnh do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành thì chuẩn mực pháp lý là VBQPPL của Quốc hội mà không thể là VBQPPL của chính UBTVQH ban hành trước đó, càng không thể là văn bản của Chính phủ hay Thủ tướng Chính phủ. Việc sử dụng VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên làm cơ sở cho việc ban hành văn bản thuộc thẩm quyền của mình(cơ quan nhà nước cấp dưới) và sử dụng nó như một tiêu chuẩn bắt buộc phải tuân thủ trong quá trình đối chiếu xem những văn bản mà mình ban hành có hợp lý hay chưa, có trái những văn bản của cơ quan cấp trên hay không cũng là việc bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN trong quá trình xây dựng VBQPPL. Bởi vì, những VBQPPL của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cao hơn thì có hiệu lực pháp lý rộng hơn, có đối tượng điều chỉnh đa dạng hơn, nên đòi hỏi những VBQPPL đó phải có mức độ hoàn chỉnh cao. Từ đó, nếu các VBQPPL của cấp dưới ban hành mà phù hợp với những văn bản này thì tính khả thi sẽ cao và tất nhiên hiệu lực áp dụng đối với các đối tượng tác động sẽ hiệu quả và triệt để hơn, buộc các đối tượng đó phải thi hành những văn bản này vì mức độ hợp hiến, hợp pháp là không thể chối cãi được, chính điều này sẽ khắc phục được những lỗ hổng trong các quy định của pháp luật. Việc tuân thủ nội dung này còn bảo đảm nguyên tắc cấp dưới phải phục tùng cấp trên phù hợp với pháp luật. Một ví dụ cụ thể cho trường hợp cấp dưới soạn thảo ra VBQPPL nhưng không tuân thủ nội dung “VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp dưới phải phù hợp với VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên” của nguyên tắc bảo đảm tính hợp pháp trong xây dựng VBQPPL là: “ mới đây, Cục Kiểm tra VBQPPL – Bộ Tư pháp có văn bản gửi UBND TPHCM để thông báo về tình trạng nhiều văn bản do chính UBND TPHCM ban hành ra để xử phạt hành chính đối với người dân đều trái luật. Cụ thể, trong 8 văn bản do UBND TPHCM ban hành từ 2003 – 2004, đã phát hiện tới 4 văn bản dành cho xử phạt an toàn giao thông. Đó là Công văn số 7696/UB-ĐT ra ngày 14/12/2003 của UBND TP về tăng cường xử phạt vi phạm đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông(không chỉ phạt tiền, đối tượng vi phạm còn bị tạm giữ xe trong 10 ngày) thế nhưng, theo khoản 1 Điều 10 Nghị định số 15/2003/NĐ-CP ngày 19/2/2003 của Chính phủ quy định: chỉ áp dụng hình thức cảnh cáo hoặc phạt tiền, chứ không quy định phải giữ xe, tới nay TPHCM đã bãi bỏ hình thức tạm giữ phương tiện. Sở Tư pháp TPHCM cũng đã đề nghị hủy nội dung Công văn trái pháp luật này”(trích Trúc Giang – Báo Lao động). Hai là, việc soạn thảo và ban hành VBQPPL của cơ quan có thẩm quyền chuyên môn phải phù hợp với VBQPPL của cơ quan có thẩm quyền chung. Điều này có nghĩa là khi ban hành văn bản thì cơ quan có thẩm quyền chuyên môn (Bộ; sở, phòng, ban thuộc UBND) phải nghiên cứu các quy định trong văn bản của cơ quan có thẩm quyền chung cùng cấp trước khi bắt tay vào soạn thảo văn bản thuộc thẩm quyền của mình, đảm bảo cho khi văn bản đó có hiệu lực thi hành thì khả năng điều chỉnh đạt được hiệu quả cao và thi hành lâu dài thay vì phải liên tục sửa đổi, bổ sung. Việc tuân thủ nội dung này xuất phát từ lý do: cơ quan có thẩm quyền chung là cơ quan quản lý chung đối với tất cả các ngành lĩnh vực, nên VBQPPL của cơ quan này phải đương nhiên đáp ứng yêu cầu về hợp hiến, hợp pháp, không được phép có sai sót dù là nhỏ nhất- yêu cầu bắt buộc, do vậy tạo nên cơ sở vững chắc để cho cơ quan chuyên môn trực thuộc có thể dựa vào đó để ban hành văn bản thuộc thẩm quyền của cơ quan đó. Ví dụ, VBQPPL của Bộ Tư pháp được ban hành phải không trái về nội dung và hình thức với Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, nếu phát hiện có sai phạm Chính phủ sẽ ra văn bản để hủy bỏ văn bản đó của Bộ. Ba là, việc ban hành ra VBQPPL của các cơ quan nhà nước trong BMNN cần phải phù hợp và thống nhất với các VBQPPL cùng hiệu lực pháp lý của các cơ quan khác có thẩm quyền ngang bằng hoặc không được mâu thuẫn giữa các văn bản có hiệu lực pháp lý khác nhau. Bởi vì, nếu các VBQPPL có hiệu lực pháp lý ngang nhau mà phù hợp và thống nhất với nhau thì sẽ củng cố và hỗ trợ nhau trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong từng ngành, từng lĩnh vực đạt hiệu quả cao hơn, ngược lại nếu nội dung các văn bản này mà không hài hòa, thống nhất với nhau sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện pháp luật, tất nhiên sẽ không đạt kết quả như mong muốn. Một ví dụ cụ thể chứng minh cho việc ban hành VBQPPL có sự mâu thuẫn, chồng chéo hiện nay giữa các cơ quan, đó là “Theo BLDS, đối với tài sản mua bán mà phải đăng ký QSH (như nhà đất) thì thời điểm chuyển QSH được tính kể từ khi bên mua hoàn thành thủ tục đăng ký QSH đối với tài sản đó, cùng quan điểm trên Luật Đất đai cho rằng thời điểm chuyển QSDĐ là từ khi người nhận chuyển nhượng hoàn tất thủ tục đăng ký QSDĐ. Trong khi đó, Luật Nhà ở quy định thời điểm chuyển QSH nhà kể từ khi hợp đồng mua bán được công chứng chứng thực, nghĩa là sớm hơn nhiều so với quy định của BLDS 2005. Hay như về thời gian bảo hành nhà ở, công trình, Luật Nhà ở quy định thời gian bảo hành tối đa công trình tới 36 tháng, trong khi đó Luật Xây dựng chỉ quy định tối đa 24 tháng”(Diễn đàn pháp luật Việt Nam). Ví dụ khác về trường hợp này: “theo quy định tại khoản 3 Điều 25 và điểm c khoản 1 Điều 31 Luật TCTAND 2002, những người sau đây Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Bản án, Quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp... Thế nhưng Điều 68 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 1996 quy định ngoài những người nêu trên thì các Phó Chánh án TANDTC, Phó Viện trưởng VKSNDTC cũng có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Như vậy quy định trong Pháp lệnh 1996 không thống nhất với quy định của Luật TCTAND 2002 về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm”(Diễn đàn pháp luật Việt Nam). Bốn là, khi xây dựng VBQPPL thuộc thẩm quyền của mình các chủ thể ban hành phải tuân theo hình thức pháp lý đã được pháp luật quy định. Bởi vì chính hình thức