Chúng ta đã bước sang thế kỷ 21-Một thế kỷ được dự báo sẽ có những thay đổi 
to lớn trên phạm vi toàn cầu.Đây cũng là thời cơ và thách thức to lớn với nhiều 
quốc gia, dân tộc.Trong đó Việt Nam chúng ta ,một đất nước đang phát triển,cũng 
không nằm ngoài vòng xoay chung của nhân loại.Làm thế nào  để tranh thủ  được 
thời cơ thuận lợi, xác  định  đúng hướng, có quyết tâm và bản lĩnh vượt thử thách 
để đưa đất nước phát triển nhanh.
Chúng ta cũng biết rằng, sự giàu có và khả năng cạnh tranh của một quốc gia 
ngày nay không còn đơn thuần phụ thuộc vào sự sẵn có của tài nguyên thiên nhiên, 
mà phần lớn phụ thuộc vào sự hiện hữu của nguồn nhân lực có chất lượng cao. 
Nguồn  nhân lực có chất lượng cao, với tư cách là một trong những nguồn lực sản 
xuất, có vai trò vô cùng quan trọng, nếu không nói  đó là yếu tố quan trọng nhất 
quy định khả năng cạnh tranh và hội nhập của một quốc gia. Và có thể sống còn và 
thành công trong cạnh  tranh và hội nhập. Nhất là hội nhập và cạnh tranh trong 
khuôn khổ của WTO , việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao  đủ sức 
đáp ứng các yêu cầu và thách thức của cạnh tranh toàn cầu là việc làm vô cùng cần 
thiết.
Nội dung của đề án gồm 3 phần:
phần i : Cơ sở lý luận về nguồn nhân lực và hội nhập kinh tế
phần iI :  Thực trạng nguồn nhân lực 
phần iII.Các giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực:
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 36 trang
36 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1952 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Các giải pháp nhằm phát triển 
nguồn nhân lực 
lời nói đầu 
 Chúng ta đã bước sang thế kỷ 21-Một thế kỷ được dự báo sẽ có những thay đổi 
to lớn trên phạm vi toàn cầu.Đây cũng là thời cơ và thách thức to lớn với nhiều 
quốc gia, dân tộc.Trong đó Việt Nam chúng ta ,một đất nước đang phát triển,cũng 
không nằm ngoài vòng xoay chung của nhân loại.Làm thế nào để tranh thủ được 
thời cơ thuận lợi, xác định đúng hướng, có quyết tâm và bản lĩnh vượt thử thách 
để đưa đất nước phát triển nhanh. 
 Chúng ta cũng biết rằng, sự giàu có và khả năng cạnh tranh của một quốc gia 
ngày nay không còn đơn thuần phụ thuộc vào sự sẵn có của tài nguyên thiên nhiên, 
mà phần lớn phụ thuộc vào sự hiện hữu của nguồn nhân lực có chất lượng cao. 
Nguồn nhân lực có chất lượng cao, với tư cách là một trong những nguồn lực sản 
xuất, có vai trò vô cùng quan trọng, nếu không nói đó là yếu tố quan trọng nhất 
quy định khả năng cạnh tranh và hội nhập của một quốc gia. Và có thể sống còn và 
thành công trong cạnh tranh và hội nhập. Nhất là hội nhập và cạnh tranh trong 
khuôn khổ của WTO , việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao đủ sức 
đáp ứng các yêu cầu và thách thức của cạnh tranh toàn cầu là việc làm vô cùng cần 
thiết. 
 Nội dung của đề án gồm 3 phần: 
 phần i : Cơ sở lý luận về nguồn nhân lực và hội nhập kinh tế 
 phần iI : Thực trạng nguồn nhân lực 
 phần iII.Các giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực: 
Phần I 
Cơ sở lý luận về nguồn nhân lực và hội nhập kinh tế 
I.Nguồn nhân lực: 
1.Một số khái niệm cơ bản: 
 Nguồn lao động:bao gồm những người trong dân và những người thất nghiệp 
nhưng có nhu cầu tìm việc làm. 
 Nguồn nhân lực:là toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường,Dân số 
trong độ tuổi lao động có khả năng lao động,Những người ngoài độ tuổi lao động 
có khả năng lao động 
 Lực lượng lao động:là bộ phận của nguồn lao động bao gồm những người 
trong độ tuổi lao động,đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân hiện đang tham 
gia lao động hoặc có nhu cầu lao động. 
 Nguồn nhân lực có thể với tư cách là một nguồn lực cho sự phát triển kinh tế 
xã hội,là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn,bao gồm 
nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. 
 Nguồn nhân lực còn được hiểu với tư cách là tổng hợp cá nhân những con 
người cụ thể tham gia vào quá trình lao động,là tổng thể các yếu tố về thể chất và 
tinh thần được huy động vào quá trình lao động.Với tư cách này nguồn nhân lực 
bao gồm những người bắt đầu bước vào độ tuổi lao động trở lên có tham gia vào 
nền sản xuất xã hội. 
2.Phân loại nguồn nhân lực: 
2.1 Căn cứ vào nguồn gốc hình thành. 
a) Nguồn nhân lực có sẵn trong dân số: Bao gồm những người trong độ tuổi lao 
động có khả năng lao động không kể đến trạng thái có làm việc hay không làm 
việc, khái niệm này còn được gọi là dân cư hoạt động có nghĩa là tất cả những 
người có khả năng làm việc trong dân cư tính theo độ tuổi lao động theo qui định. 
 Độ tuổi lao động là giới hạn về những điều kiện cơ thể,tâm lý,sinh lý xã hội mà 
con người tham gia vào quá trình lao động.Giới hạn độ tuổi lao động được qui 
định tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội của từng nước và trong từng thời kỳ. 
 Giới hạn độ tuổi lao động bao gồm: 
 +Giới hạn dưới : qui định số tuổi thanh niên bước vào độ tuổi lao động. ở 
nước ta hiện nay là đủ 15 tuổi 
 +Giới hạn trên : qui định độ tuổi về hưu ,ở nước ta hiện nay là 55 tuổi đối 
với nữ và 60 tuổi đối với nam. 
 Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư chiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong 
dân số,thường từ 50% hoặc hơn nữa tuỳ theo đặc điểm dân số vvà nhân lực 
từng nước. 
 Theo những tài liệu nghiên cứu gần đây cho thấy số người trong độ tuổi 
lao động ở các nước kinh tế chậm phát triển chiếm tỷ lệ thấp(khoảng 55%-57%) 
so với các nước công nghiệp phát triển (khoảng 64%-66%).Chính vì thế gánh nặng 
về số người không lao động ở các nước nghèo càng nặng hơn. 
 Những người trong độ tuổi từ 16-60 (đối với nam) và 16-55 (đối với nữ) theo 
qui định của VIệT NAM đều thuộc nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động. 
 Nguồn nhân lực tham gia hoạt động kinh tế (Dân số hoạt động kinh tế): 
Nguồn nhân lực này không bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả 
năng hoạt động kinh tế nhưng thực tế không tham gia hoạt động kinh tế (thất 
nghiệp, có khả năng làm việc song không muốn làm việc, đang học tập) 
 Nguồn nhân lực dự trữ: Gồm những người trong độ tuổi lao động nhưng vì 
những lý do khác nhau chưa tham gia hoạt động kinh tế song khi cần có thể huy 
động được.Số người này đóng vai trò một nguồn về nhân lực gồm có: 
 Những người làm công việc nội trợ trong gia đình: Khi điều kiện kinh tế của 
xã hội thuận lợi, nếu bản thân họ muốn tham gia lao động ngoài xã hội ,họ có thể 
nhanh chóng rời bỏ công việc nội trợ để làm công việc thích hợp ngoài xã hội. Đây 
là nguồn nhân lực đáng kể và đại bộ phận là phụ nữ,hàng ngày vẫn đảm nhiệm 
những choc năng duy trì,bảo vệ,phát triển gia đình về nhiều mặt,đó là những hoạt 
động có ích và cần thiết.Công việc nội trợ gia đình đa dạng,vất vả đối với phụ nữ ở 
các nước chậm phát triển(do chủ yếu là lao động chân tay) dẫn đến năng suất lao 
động thấp so với những công việc tương tự được tổ chức ở qui mô lớn hơn ,có 
trang bị kỹ thuật tốt hơn, 
 Những người tốt nghiệp ở các trường phổ thông và các trường chuyên nghiệp 
được coi là nguồn nhân lực dự trữ quan trọng và có chất lượng.Đây là nguồn nhân 
lực ở độ tuổi thanh niên có học vấn,có trình độ chuyên môn (nếu được đào tạo tại 
các trường dạy nghề và các trường trung cấp,đại học).Tuy nhiên.khi nghiên cứu 
nguồn nhân lực này cần phân chia tỷ mỷ hơn: 
o -Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động,tốt nghiệp trung học phổ thông,không 
tiếp tục học nữa,muốn tìm công việc làm. 
o -Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động,chưa học hết trung học phổ thông,không 
tiếp tục học nữa,muốn tìm việc làm. 
o -Nguồn nhân lực ở độ tuổi lao động dã tốt nghiệp ở các trường chuyên nghiệp 
(trung cấp, cao đẳng, đại học) thuộc các chuyên môn khác nhau tìm việc làm. 
 Những người đã hoàn thành nghĩa vụ cũng thuộc nguồn nhân lực dự trữ,có 
khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế. Số người thuộc nguồn nhân lực dự trữ 
này cũng cần phân loại để biết rõ có nghề hay không có nghề,trình độ văn hoá,sức 
khoẻ…Từ đó tạo công việc làm thích hợp. 
 Những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp (có nghề hoặc không 
có nghề) muốn tìm việc làm cũng là nguồn nhân lực dự trữ,sẵn sàng tham gia vào 
hoạt động kinh tế. 
2.2 Căn cứ vào vai trò của từng bộ phận: 
 Nguồn lao động chính : Đây là bộ phận nguồn nhân lực nằm trong độ tuổi lao 
động và là bộ phận quan trọng nhất. 
 Nguồn lao động phụ: là bộ phận dân cư nằm ngoài độ tuổi lao động co thể cần 
tham gia vào nền sản xuất xã hội. 
 Nguồn lao động bổ xung: là bộ phận nguồn nhân lực được bổ xung từ các 
nguồn khác (số người hết hạn nghĩa vụ quân sự, số người trong độ tuổi lao động 
thôi học ra trường,số người lao động ở nước ngoài trở về…) 
3.Các tiêu thức đánh giá: 
3.1 Các chỉ tiêu phản ánh số lượng: 
a) Qui mô dân số và tốc độ tăng: 
 Qui mô dân số biểu thị khái quát tổng số dân trong một vùng, một nước hay 
của các khu vực khác nhau trên thế giới. 
 Những thông tin về qui mô dân số hết sức cần thiết trong phân tích so sánh 
với các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội nhằm lý giải nguyên nhân tình hình và 
hoạch định chiến lược phát triển. 
 Qui mô dân số phụ thuộc vào biến động tự nhiên (sinh và tử ) và di cư thuần 
tuý ( nhập cư và xuất cư ) 
 Tốc độ tăng dân số là sự chênh lệch về qui mô dân số ở thời điểm đầu và thời 
điểm cuối của giai đoạn tính bằng phần trăm so với dân số ở thời điểm đầu. 
b) Cơ cấu dân số: 
 Theo tuổi: là sự thể hiện dân số theô từng năm tuổi hay nhóm tuổi. 
 Theo giới tính : là sự phân chia dân số thành hai bộ phận nam và nữ. 
3.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng: 
 Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể 
hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn 
nhân lực.Chất lượng nguồn nhân lực không những là chỉ tiêu phản ánh trình độ 
phát triển kinh tế mà còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống 
xã hội,bởi lẽ chất lượng nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư 
cách không chỉ là một lực của sự phát triển mà còn thể hiện mức độ văn minh của 
một xã hội nhất định. 
a) Chỉ tiêu liên quan đến sức khoẻ: 
 Sức khoẻ là trạng thái thoải mái về thể chất ,tinh thần và xã hội chứ không 
phải đơn thuần là không có bệnh tật.Sức khoẻ là tổng hoà nhiều yếu tố tạo nên 
giữa bên trong và bên ngoài,giữa thể chất và tinh thần. 
 -Cá nhân: chiều cao, cân nặng, tuổi, giới tính… 
 -Tập thể: thành tích hoạt động thể thao, tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp. 
 -Quốc gia (tỉnh, vùng): chiều cao, cân nặng trung bình, tuổi thọ, tỷ lệ chết trẻ em 
dưới 1 tuổi, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng… 
 b) Chỉ tiêu liên quan đến trình độ văn hoá:( không gắn với trình độ chuyên môn, 
nghề) 
 Trình độ văn hoá của người lao động là sự hiểu biết của người lao động đối với 
những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội.Trong chừng mực nhất định 
trình độ văn hoá của dân số biểu hiện mặt bằng dân trí của quốc gia đó.Trình độ 
văn hoá được biểu hiện thông qua các quan hệ tỷ lệ như: 
 -Không biết chữ. 
 -Biết chữ nhưng chưa tốt nghiệp tiểu học. 
 -Tốt nghiệp tiểu học. 
 -Tốt nghiệp trung học cơ sở. 
 -Tốt nghiệp phổ thông trung học. 
 Trình độ văn hoá của dân số hay của nguồn nhân lực là một chỉ tiêu hết sức 
quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực và tác động mạnh mẽ tới quá 
trình phát triển kinh tế xã hội.Trình độ văn hoá cao tạo khả năng tiếp thu và vận 
dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. 
 c) Chỉ tiêu liên quan đến trình độ chuyên môn kỹ thuật: 
 Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào 
đó,nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao 
đẳng, đại học và sau đại học, có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc một 
chuyên môn nhất định.Do đó trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực được đo 
bằng: 
 -Tỷ lệ cán bộ trung cấp. 
 -Tỷ lệ cán bộ cao đẳng ,đại học. 
 -Tỷ lệ cán bộ trên đại học… 
 Trong mỗi chuyên môn có thể phân chia thành những chuyên môn nhỏ hơn 
như đại học :bao gồm kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ…thậm chí trong từng chuyên 
môn lại chia thành những chuyên môn nhỏ hơn nữa. 
 Trình độ kỹ thuật của người lao động thường dùng để chỉ trình độ của người 
được đào tạo ở các trường kỹ thuật,được trang bị kiến thức nhất định. Những kỹ 
năng thực hành về công việc nhất định.Trình độ kỹ thuật được biểu hiện thông 
qua các chỉ tiêu sau: 
+không qua đào tạo. 
+công nhân kỹ thuật không bằng 
+công nhân kỹ thuật có bằng (các loại cấp bậc khác nhau) 
+Trung học chuyên nghiệp 
+Cao đẳng, đại học. 
+Trên đại học. 
 Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường kết hợp chặt chẽ với nhau,thông qua 
chỉ tiêu số lượng lao động được đào tạo và không được đào tạo trong từng tập thể 
nguồn nhân lực. 
d) Chỉ tiêu chỉ số phát triển con người HDI: 
 Tổng hợp phản ánh chất lượng nguồn nhân lực, một trong những chỉ tiêu mới 
được đưa ra để phản ánh 
 +Tuổi thọ bình quân. 
 + Thu nhập bình quân GDP/người. 
 Chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế mà còn 
nhấn mạnh đến chất lượng cuộc sống, sự công bằng và tiến bộ xã hội. 
 +Tỷ lệ người biết chữ hoặc số năm đi học bình quân. 
 Ngoài ra tuỳ thuộc vào đặc điểm mỗi nước có thể dùng thêm một số chỉ tiêu 
khác dể so sánh.Ngoài 4 chỉ tiêu phản ánh chất lượng nguồn nhân lực có thể bổ 
xung và khai thác trên góc độ nh 
 -Truyền thống dân tộc bảo vệ tổ quốc. 
 -Truyền thống về văn hoá văn minh dân tộc. 
 -Phong tục tập quán ,lối sống... 
 Nhìn chung chỉ tiêu này nhấn mạnh đến ý chí năng lực tinh thần của người lao 
động. 
4.Vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế-xã hội: 
 Nguồn nhân lực là nguồn lực con người và là một trong những nguồn lực 
quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế-xã hội,vai trò đó bắt nguồn từ vai trò 
của yếu tố con người. 
4.1.Con người là động lực cửa sự phát triển: 
 Bất cứ một sự phát triển nào cũng đều phải có một động lực thúc đẩy. Phát 
triển kinh tế xã hội được dựa trên nhiều nguồn lực:nhân lực (nguồn lực con 
người), vật lực (nguồn lực vật chất:công cụ lao động,đối tượng lao động,tài nguyên 
thiên nhiên…),tài lực (nguồn lực về tài chính tiền tệ)…Song chỉ có nguồn lực con 
người mới tạo ra động lực cho sự phát triển,những nguồn lực khác muốn phát huy 
được tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn lực con người. Sản xuất ngày càng phát 
triển,phân công lao động ngày càng chi tiết,hợp tác ngày càng chặt chẽ tạo cơ hội 
để chuyển dần hoạt động của con người cho máy móc thiết bị thực hiện(các đông 
cơ phát lực) làm thay đổi tính chất của lao động từ lao động thủ công sang lao 
động cơ khí và lao động trí tuệ.Nhưng ngay cả trong điều kiện đạt được những tiến 
bộ khoa học kỹ thuật hiện đại như hiện nay thì cũng không thể tách rời nguồn lực 
con người bởi lẽ: 
 -Chính con người tạo ra máy móc thiết bị hiện đại đó.Điều đó thể hiện mức độ 
hiểu biết và chế ngự thiên nhiên của con người. 
 -Ngay cả đối với máy móc thiết bị hiện đại nếu thiếu sự điều khiển,kiểm tra 
của con người thì chúng chỉ là vật chất.Chỉ có tác động của con người mới phát 
động chúng và đưa chúng vào hoạt động. 
 Vì vậy nếu xem xét nguồn lực là tổng thể những năng lực (cơ năng và trí năng) 
của con người được huy động vào qua trình sản xuất thì năng lực đó là nội lực con 
người. 
4.2 .Con người là mục tiêu của sự phát triển: 
 Phát triển kinh tế-xã hội suy cho cùng là nhằm mục tiêu phục vụ con người, 
làm cho cuộc sống con người ngày càng tốt hơn, xã hội ngày càng văn minh.Nói 
khác đi con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội và 
như vậy nó thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng.Mặc dù 
mức độ phát triển của sản xuất quyết định mức độ tiêu dùng song nhu cầu tiêu 
dùng của con người lại tác động mạnh mẽ tới sản xuất, định hướng của phát triển 
sản xuất thông qua quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường.Nếu trên thị 
trường nhu cầu tiêu dùng của một loại hàng hoá nào đó tăng lên, lập tức thu hút 
lao động cần thiết để sản xuất hàng hoá đó và ngược lại. 
 Nhu cầu con người là vô cùng phong phú, đa dạng và thường xuyên tăng 
lên.Nó bao gồm nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần, về số lượng và chủng loại 
hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng, điều đó tác động tới quá trình phát 
triển kinh tế xã hội. 
4.3. Yếu tố con người trong phát triển kinh tế xã hội: 
 Con người không chỉ là mục tiêu, động lực của sự phát triển, thể hiện ở mức 
độ chế ngự thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho con người mà còn tạo ra 
những điều kiện để hoàn thiện chính bản thân con người. 
 Lịch sử phát triển của loài người đã chứng minh rằng trải qua quá trình lao 
động hàng triệu năm mới trở thành con người ngày nay và trong quá trình đó mỗi 
giai đoạn phát triển của con người lại làm tăng thêm sức mạnh chế ngự thiên 
nhiên,tăng thêm động lực cho phát triển kinh tế xã hội. 
 Như vậy động lực, mục tiêu của sự phát triển và tác động của sự phát triển tới 
bản thân con người cũng chính nằm trong chính bản thân con người.Điều đó lý 
giải tại sao con người được coi là yếu tố năng động nhất, quyết định nhất của sự 
phát triển. 
II.Tiến trình hội nhập kinh tế: 
1.Khái niệm hội nhập kinh tế: 
 Hội nhập kinh tế là gắn kết nền kinh tế nước mình với nền kinh tế khu vực và 
thế giới, tham gia vào sự phân công lao động quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế 
đa phương, chấp nhận tuân thủ những qui định chung được hình thành trong quá 
trình hợp tác và đấu tranh giữa các nước thành viên của tổ chức ấy. 
2. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế: 
 Khái niệm thương mại được mở rộng ra nhiều,nó không chỉ bao gồm thương 
mại hàng hoá mà còn liên quan đến các loại hình dịch vụ như ngân hàng, tài chính, 
bảo hiểm, viễn thông, vận tải, du lịch, tư vấn ,đầu tư, bản quyền, sở hữu trí 
tuệ…Nói một cách hình tượng thì thương mại ngày nay không chỉ bao gồm phần 
cứng (hàng hoá) mà cả phần mềm (dịch vụ, bản quyền, tài sản trí tuệ,,,) Trong đó 
phần mềm ngày càng chiếm vị trí quan trọng hơn, đồng thời xu hướng chung là 
các quốc gia đều phải mở cửa kinh doanh với bên ngoài. 
 Theo xu hướng ấy, các nước đều phải giảm thiểu trong nhiều trường hợp them 
chí xoá bỏ hàng rào thuế quan.Thí dụ trong khuôn khổ AFTA các nước thành viên 
cam kết cắt giảm thuế quan xuống mức 0-5% theo một lộ trình nhất định.Trong 
khuôn khổ WTO các nước công nghiệp phát triển phải giảm thuế suất nhập khẩu 
hàng công nghiệp xuống còn 3,4% còn về nông sản chỉ còn 6%.Các nước đang 
phát triển được duy trì thuế suất cao hơn tương ứng ở mức 12,3 và 10%. 
 Giảm thiểu dần và đi tới xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, dùng thuế suất thay 
cho các biện pháp hành chính phi thuế quan,Chỉ được phép áp dụng một số biện 
pháp hạn chế để bảo vệ môi trường, vệ sinh, bản sắc văn hoá, an ninh…Trong tình 
hình hiện nay khi chất xám chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong sản phẩm việc bảo hộ 
bản quyền, sở hữu trí tuệ, nhãn mác sản phẩm… được qui định rất chặt chẽ. 
 Nhà nước không được bao cấp cho doanh nghiệp,riêng đối với nông sản thì 
được phép bao cấp ở một số khâu hỗ trợ cho sản xuất, mở cửa cho các doanh 
nghiệp nước ngoài vào kinh doanh, đầu tư,tạo sân chơi bình đẳng cho doanh 
nghiệp trong và ngoài nước 
 Các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá 
tập trung sang cơ chế thị trường được hưởng một số ưu đãi về mức độ cam kết và 
thời gian thực hiện. 
3.Một số ưu nhược điểm khi tiến hành hội nhập kinh tế: 
 + ưu điểm: 
 -Tự do hoá thương mại và thực hiện cải cách toàn diện theo hướng thị trường. 
 -Hàng hoá xuất nhập khẩu có thể tiếp cận thị trường tốt hơn. 
 -Thu hút vốn đầu tư nước ngoài và các lợi ích khác. 
 +Nhược điểm: 
 -Mất khả năng kiểm soát và điều tiết đối với một số ngành trong quá trình hội 
nhập dẫn đến việc chiếm lĩnh sức mạnh thị trường của các công ty đa quốc gia làm 
tổn hại đến lợi ích của khách hàng và người lao động. 
 -Thất nghiệp tăng. 
 -ảnh hưởng đến ngân sách: vai trò của thuế quan như là một nguồn thu lớn của 
ngân sách sẽ mất đi vị trí to lớn của nó và tạo ra khó khăn về ngân sách cho chính 
phủ. 
4.Hội nhập kinh tế con đường tất yếu của đất nước: 
 Về mặt chủ quan: Nhờ công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta đã phát triển 
nhanh chóng, trạng tháI nền kinh tế đã thay đổi một cách cơ bản.Nếu như trong 
những năm 70-80 của thế kỷ trước hầu như cái gì cũng khan hiếm thì ngày nay 
nền kinh tế đã đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế.về 
nhiều mặt hàng tỷ suất hàng hoá khá cao.Tình hình đó đặt ra yêu cầu cấp bách 
phải tiêu thụ được mới tái sản xuất mở rộng được.nói một cách khác nhân tố đầu 
ra có ý nghĩa hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định.Một mặt phải rất quan tâm 
việc thúc đẩy tiêu thụ trong nước vì tới hơn 80 triệu dân,một thị trường không 
phải là nhỏ.Mặt khác do thu nhập của các tầng lớp dân cư còn chưa cao, sức mua 
chưa lớn điều tất yếu là phải thúc đẩy xuất khẩu ra thị trường bên ngoài, ở đầu 
vào mặc dù khả năng tích luỹ của nền kinh tế nước ta ngày càng lớn, trình độ khoa 
học công nghệ và quản lý kinh tế ngày càng được nâng cao song trong qua trình 
công nghiệp hoá hiện đại hoá nước ta vẫn cần tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ và 
kỹ năng quản lý từ bên ngoài,Đồng thời có đẩy mạnh xuất khẩu mới có ngoại tệ để 
nhập máy móc thiết bị, nguyên vật liệu cần thiết.Chúng ta chủ động hội nhập kinh 
tế khu vực và thế giới vì lợi ích của chính bản thân nước ta. 
 Về mặt khách quan: Chúng ta đang sống trong một thế giới mà xu thế toàn cầu 
hoá đang phát triển nhanh chóng, gia tăng mạnh mẽ về qui mô và phạm vi giao 
dịch hàng hoá, dịch vụ xuyên quốc gia, dòng vốn đầu tư lan toả ra toàn cầu , công 
nghệ kỹ thuật truyền bá nhanh chóng