Sau hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế. Tuy nền kinh tế vẫn ở giai
đoạn đầu của một nền kinh tế thị trường, nhưng khu vực tư nhân đã phát
triển khá mạnh với hơn 200.000 doanh nghiệp và khoảng 2,7 triệu hộ kinh
doanh. Đầu tư của khu vực tư nhân đạt khoảng 200 ngàn tỷ đồng (khoảng
13 tỷ USD) (QLKT, 2005)
1
, tạo ra gần 10 triệu việc làm chiếm 27% lực
lượng lao động của cả nước.
Song, những thành công ban đầu sẽ khó có thể duy trì nếu chính sách
cải cách không tiếp tục được đẩy mạnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy khu
vực kinh tế tư nhân vẫn phải đối mặt với nhiều cản trở trong kinh doanh
như: khó khăn khi vay vốn, khó tiếp cận thị trường, khó tiếp cận công nghệ
và thông tin và rủi ro xuất phát từ chính sách của nhà nước. Những khó
khăn này là do sự yếu kém của cơ sở hạ tầng, yếu kém trong quản lý hành
chính và thiếu một khung khổ pháp lý hiệu quả, đồng bộ để bảo vệ và
khuyến khích doanh nghiệp tăng trưởng.
Hiện nay, đã có nhiều nghiên cứu đưa ra kiến nghị ở tầm quốc gia để
cải thiện môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng thừa
nhận rằng, tuy cùng ở trong một môi trường kinh doanh nhưng sự tăng
trưởng của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân khác nhau đáng kể
giữa các tỉnh thành. Các doanh nghiệp ở phía nam kinh doanh thành công
hơn các doanh nghiệp ở phía bắc (Nguyễn Đình Cung và các cộng sự,
2004).
90 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2850 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các nhân tố tác động đến tăng trưởng của doanh nghiệp khui vực tư nhân ở một số tỉnh phía bắc và phía nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG
TRUNG TÂM TƯ VẤN QUẢN LÝ VÀ ĐÀO TẠO
*************
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG
CỦA DOANH NGHIỆP KHU VỰC TƯ NHÂN
Ở MỘT SỐ TỈNH PHÍA BẮC VÀ PHÍA NAM
Nhóm nghiên cứu:
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Tạ Minh Thảo
Thành viên:
1. PGS. TS. Nguyễn Đình Tài
2 . ThS. Vũ Lan Anh
3. Nguyễn Văn Hưởng
4. Nguyễn Anh Dũng
5. Nguyễn Nam Hải
6. Thái Hồng Thu
7. TS. Lê Mạnh Hùng
8. Bùi Đức Chiến
Hà Nội 2006
MỤC LỤC
2
Danh sách các bảng và hình vẽ
Bảng
Bảng 1: Những khó khăn chủ yếu mà doanh nghiệp thường phải đối phó
qua các giai đoạn
Bảng 2: Cơ cấu đóng góp vào GDP của các khu vực kinh tế, 1995-2004
(%)
Bảng 3: Tỷ lệ % tổng vốn đăng ký của các DN thuộc khu vực tư nhân/
GDP của địa phương sau khi có Luật Doanh nghiệp (1999)
Bảng 4: Số vốn đăng ký kinh doanh bình quân của 1 doanh nghiệp thuộc
khu vực tư nhân theo địa phương qua các năm
Bảng 5: Kết quả phương trình hồi quy
Bảng 6: Nhân tố bên trong tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp ở 4
tỉnh/thành phố
Bảng 7: Nhân tố bên ngoài tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp ở 4
tỉnh/thành phố
Hình
Hình 1: Một số nhân tố qua các giai đoạn của vòng đời doanh nghiệp
Hình 2: Số lượng doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân được thành lập
mới (1991-2005)
Hình 3: Số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh qua các năm của bốn
tỉnh/thành phố
Hình 4: Số vốn đăng ký của doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân qua các
năm của bốn tỉnh/thành phố
Hình 5: Giá trị sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp khu vực tư nhân ở
bốn tỉnh nghiên cứu (Triệu đồng)
Hình 6: Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp khu vực
tư nhân ở bốn tỉnh nghiên cứu (%)
3
LỜI GIỚI THIỆU
Sau hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế. Tuy nền kinh tế vẫn ở giai
đoạn đầu của một nền kinh tế thị trường, nhưng khu vực tư nhân đã phát
triển khá mạnh với hơn 200.000 doanh nghiệp và khoảng 2,7 triệu hộ kinh
doanh. Đầu tư của khu vực tư nhân đạt khoảng 200 ngàn tỷ đồng (khoảng
13 tỷ USD) (QLKT, 2005)1, tạo ra gần 10 triệu việc làm chiếm 27% lực
lượng lao động của cả nước.
Song, những thành công ban đầu sẽ khó có thể duy trì nếu chính sách
cải cách không tiếp tục được đẩy mạnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy khu
vực kinh tế tư nhân vẫn phải đối mặt với nhiều cản trở trong kinh doanh
như: khó khăn khi vay vốn, khó tiếp cận thị trường, khó tiếp cận công nghệ
và thông tin và rủi ro xuất phát từ chính sách của nhà nước. Những khó
khăn này là do sự yếu kém của cơ sở hạ tầng, yếu kém trong quản lý hành
chính và thiếu một khung khổ pháp lý hiệu quả, đồng bộ để bảo vệ và
khuyến khích doanh nghiệp tăng trưởng.
Hiện nay, đã có nhiều nghiên cứu đưa ra kiến nghị ở tầm quốc gia để
cải thiện môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng thừa
nhận rằng, tuy cùng ở trong một môi trường kinh doanh nhưng sự tăng
trưởng của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân khác nhau đáng kể
giữa các tỉnh thành. Các doanh nghiệp ở phía nam kinh doanh thành công
hơn các doanh nghiệp ở phía bắc (Nguyễn Đình Cung và các cộng sự,
2004).
Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu hiện có chỉ dùng phương pháp
định tính để nhận dạng và phân tích các nhân tố tác động đến sự phát triển
của khu vực kinh tế tư nhân mà chưa có kiểm nghiệm thực tế và tính toán
định lượng. Vì vậy, Đề tài sẽ áp dụng phương pháp định lượng để chỉ ra
nhân tố tác động và cách thức chúng tác động đến tăng trưởng của các
1 Báo cáo Kết quả thực hiện Luật Doanh nghiệp- Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TW
4
doanh nghiệp. Hơn nữa, Đề tài cũng sẽ chỉ ra những nhân tố này tác động
khác nhau như thế nào đến doanh nghiệp giữa các địa phương được lựa
chọn nghiên cứu. Việc phân tích nhân tố nào nằm sau quá trình tăng trưởng
của các doanh nghiệp, phát hiện những nhân tố thúc đẩy tăng trưởng và
nhân tố kìm hãm tăng trưởng của các doanh nghiệp là cần thiết đối với Việt
Nam. Hiện nay, Nhà nước ta đang tìm kiếm các biện pháp để khuyến khích
sự tăng trưởng của khu vực doanh nghiệp nói chung và khu vực doanh
nghiệp tư nhân nói riêng, một khu vực mà sự tăng trưởng vẫn chưa xứng
với tiềm năng của nó. Các chính sách đưa ra sẽ có thể mang tính thuyết
phục cao hơn nếu dựa trên những phân tích định lượng về các nhân tố tác
động đến tăng trưởng của doanh nghiệp.
Hiện nay, phần lớn các nghiên cứu về tăng trưởng doanh nghiệp đều
xuất phát từ công trình nghiên cứu của Edith Penrose (1959) về lý thuyết
tăng trưởng doanh nghiệp. Nghiên cứu của bà đưa ra hai vấn đề chính là
nhận dạng các nguồn lực cho tăng trưởng và vai trò của năng lực quản lý
đối với tăng trưởng. Dựa vào đó, các nhà kinh tế đã thêm vào các giả thiết
và xây dựng mô hình hồi quy để kiểm nghiệm tác động của các nhân tố đối
với tăng trưởng doanh nghiệp. Mô hình hồi qui cho phép áp dụng để quan
sát các nhân tố tác động như thế nào đối với tăng trưởng của một tập hợp
doanh nghiệp. Nhờ đó, người ta có thể quan sát các nhân tố tác động tới
tăng trưởng của cả khu vực doanh nghiệp.
Với mục đính nghiên cứu định lượng các nhân tố tác động đến tăng
trưởng doanh nghiệp, Đề tài sẽ sử dụng mô hình phân tích hồi quy để
phân tích các nhân tố tác động dựa trên bộ số liệu điều tra doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam do bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Viện
Nghiên cứu Lao động và Xã hội và Trường Kinh tế Stockholm thực hiện
vào các năm 1997 và 2002. Đề tài sử dụng bộ số liệu điều tra doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam để phân tích và suy luận nhân tố tác động
đến tăng trưởng của doanh nghiệp khu vực tư nhân dựa trên kết luận của
5
nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận là phần lớn các doanh nghiệp khu vực tư
nhân là các doanh nghiệp vừa và nhỏ2.
Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là các nhân tố tác động đến tăng
trưởng doanh nghiệp. Đề tài sẽ nghiên cứu tác động của những nhân tố
này đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân có đăng ký
hoạt động (gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty
hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) và không đăng ký hoạt động (hộ kinh
doanh). Các doanh nghiệp này hoạt động trong các ngành nghề khác nhau.
Vì có rất nhiều nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp và mỗi
doanh nghiệp có đặc điểm riêng, nên các nhân tố tác động tới từng doanh
nghiệp có thể khác nhau. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học đã phân tích và
chỉ ra có một số nhân tố quan trọng có tác động chung đến tăng trưởng
của các doanh nghiệp. Do đó, Đề tài sẽ chỉ tập trung nghiên cứu nhóm
nhân tố này.
Về phạm vi nghiên cứu, Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu hai nhóm
nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài tác động tới tăng trưởng doanh
nghiệp: (i) Nhân tố bên trong là các nhân tố mà nhà quản lý có thể tác
động được (ii) Nhân tố bên ngoài là các nhân tố mà nhà quản lý không thể
hoặc khó có thể tác động được. Do hạn chế về mặt số liệu và thời gian
nghiên cứu, Đề tài sẽ chỉ phân tích dựa trên bộ số liệu điều tra doanh
nghiệp của năm 1997 và 2002 và cho bốn tỉnh ở miền Bắc và miền Nam
gồm: Hà Nội, Hà Tây, TP. Hồ Chí Minh và Long An.
Về phương pháp nghiên cứu, Đề tài sẽ sử dụng mô hình hồi quy do
Geroski (1959) phát triển. Theo đó, các nhân tố bên trong và bên ngoài
được coi là các biến độc lập của phương trình hồi quy.
Để thực hiện những mục tiêu nghiên cứu ở trên, Đề tài “Các nhân tố
tác động đến tăng trưởng của doanh nghiệp khu vực tư nhân ở một số
tỉnh phía Bắc và phía Nam” được chia thành ba chương. Chương I nêu lên
cơ sở lý thuyết về tăng trưởng doanh nghiệp. Chương II nêu lên nhân tố tác
động đến tăng trưởng doanh nghiệp ở Việt Nam và tập trung phân tích
2 Các nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy 96% doanh nghiệp khu vực tư nhân là doanh nghiệp vừa và nhỏ
6
nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp ở các tỉnh được lựa chọn
nghiên cứu. Cuối cùng, Chương III đưa ra một số giải pháp và kiến nghị
nhằm thúc đẩy nhân tố tác động tích cực và giảm thiểu nhân tố tác động
tiêu cực từ góc độ của nhà nước và doanh nghiệp.
Thông qua nghiên cứu này, Đề tài mong muốn góp thêm một đánh
giá mang tính định lượng về các nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh
nghiệp khu vực tư nhân ở Việt Nam. Hy vọng rằng những kết luận và giải
pháp của Đề tài sẽ hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách và giới doanh
nghiệp đề ra các giải pháp ở tầm vĩ mô và vi mô để thúc đẩy các nhân tố có
tác động tích cực và giảm thiểu các nhân tố có tác động tiêu cực tới tăng
trưởng của các doanh nghiệp khu vực tư nhân ở Việt Nam.
7
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG DOANH NGHIỆP
1.1. Lý thuyết tăng trưởng doanh nghiệp
Nghiên cứu về doanh nghiệp nói chung và tăng trưởng doanh nghiệp
nói riêng là một chủ đề được rất nhiều nhà kinh tế quan tâm. Phần lớn các
nghiên cứu đều tập trung giải thích tại sao doanh nghiệp tồn tại và tăng
trưởng, nhân tố chủ yếu tác động tới tăng trưởng là gì và tác động như thế
nào. Do mục đích cơ bản của doanh nghiệp là gia tăng lợi nhuận, nên, về
cơ bản, “tăng trưởng doanh nghiệp” được các nhà nghiên cứu hiểu là sự gia
tăng hàng năm về thu nhập của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, họ nghiên cứu
và xác định các nhân tố có tác động đến tăng trưởng của doanh nghiệp. Các
nhà nghiên cứu đã đưa ra một số học thuyết/lý thuyết về doanh nghiệp và
tăng trưởng doanh nghiệp dựa trên cơ sở nghiên cứu định tính và định
lượng. Nghiên cứu cơ bản nhất phải kể đến là lý thuyết tăng trưởng doanh
nghiệp của Penrose cho rằng các nhân tố tác động tới tốc độ tăng trưởng
doanh nghiệp là năng lực quản lý và khả năng phối hợp các nguồn lực của
doanh nghiệp trong sản xuất. Ngoài ra, lý thuyết về giá cả tân cổ điển
truyền thống cho rằng động lực của doanh nghiệp nằm ở tính linh hoạt của
doanh nghiệp và khả năng thích nghi. Lý thuyết về tăng trưởng doanh
nghiệp lại chỉ ra chi phí giao dịch, năng lực điều hành, chiến lược quản lý
là những nhân tố tác động trực tiếp tới tăng trưởng doanh nghiệp. Lý thuyết
tăng trưởng theo giai đoạn nghiên cứu sự phát triển từng bước của doanh
nghiệp kể từ khi mới thành lập đến khi doanh nghiệp suy thoái. Tuy nghiên
cứu về tăng trưởng doanh nghiệp rất đa dạng, nhưng nói chung có ba lý
thuyết về tăng trưởng doanh nghiệp được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm
và dựa trên đó làm nền tảng cho nghiên cứu của mình (Geroski, 1999). Đó
là lý thuyết tăng trưởng của Penrose, lý thuyết về quy mô doanh nghiệp tối
ưu và lý thuyết tăng trưởng theo giai đoạn.
8
1.1.1. Lý thuyết tăng trưởng doanh nghiệp của Penrose
Lý thuyết tăng trưởng của Penrose đề cập tới hai vấn đề. Đó là lý
thuyết về thúc đẩy nguồn lực (“resources push” theory) và “những giới hạn
về quản lý đối với tăng trưởng doanh nghiệp” (“managerial limits to
growth”). Tác giả rất quan tâm đến việc phân tích các nguồn lực cho tăng
trưởng và nhân tố cản trở sự tăng trưởng doanh nghiệp. Theo bà, tăng
trưởng doanh nghiệp đồng nghĩa với việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực
và năng lực quản lý có tác động quan trọng tới tăng trưởng. Penrose đã thể
hiện rõ mục đích nghiên cứu của mình qua bài báo được đăng năm 1955
trên American Economic Review
“Tôi tập trung nghiên cứu nguyên nhân và giới hạn đối với tăng trưởng doanh
nghiệp... Câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là những nhân tố nào của thể chế kinh
tế làm cho doanh nghiệp tăng trưởng, làm doanh nghiệp có thể tăng trưởng hoặc
cản trở tăng trưởng”
Theo Penrose, doanh nghiệp là một tổ chức sử dụng các nguồn lực
theo một cách thức nào đó. Để giải thích sự tăng trưởng của doanh nghiệp,
Penrose đã tập trung nghiên cứu quá trình sản xuất và cạnh tranh của nó.
Qua nghiên cứu, bà đưa ra hai vấn đề, thứ nhất là nguồn lực và yếu tố dùng
cho sản xuất; thứ hai là yếu tố dùng cho sản xuất và cơ hội sản xuất. Theo
đó, bản thân các nguồn lực chưa thể là đầu vào cho quá trình sản xuất mà
chỉ khi các nguồn lực đó được mỗi doanh nghiệp đưa vào quá trình sản
xuất theo những cách thức nhất định thì chúng mới trở thành nhân tố cho
quá trình tăng trưởng doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực
dựa trên kinh nghiệm, năng lực quản lý, trình độ của đội ngũ lao động và
chiến lược của doanh nghiệp. Vì thế, kết quả có được do các nguồn lực
mang lại là kết quả thực hiện cách thức sử dụng chúng, nghĩa là với các
nguồn lực giống nhau nhưng do cách thức sử dụng khác nhau, mục đích sử
dụng khác nhau và sự kết hợp khác nhau hay khối lượng nguồn lực khác
nhau sẽ đem lại kết quả khác nhau (Kor và Mahoney, 2004).
9
Penrose nhấn mạnh năng lực quản lý có tác động lớn tới tăng trưởng
doanh nghiệp. Năng lực quản lý xuất phát từ kiến thức, kinh nghiệm của
đội ngũ quản lý. Đó là yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình điều hành
doanh nghiệp. Tuy nhiên năng lực của đội ngũ quản lý đem lại tăng trưởng
doanh nghiệp trong một giai đoạn nhất định. Penrose nhận định rằng một
doanh nghiệp là một tổ chức, tổ chức này cần một ban quản lý có kiến thức
sâu sắc về tình hình bên trong doanh nghiệp. Vậy giới hạn về năng lực
quản lý tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp như thế nào? Do năng lực
của ban quản lý có thể chỉ được phát triển trong một thời gian nào đó, trong
khi doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều vấn đề trong sản xuất kinh doanh.
Chính vì thế, tới một thời điểm nhất định, ban quản lý cũ không còn khả
năng để quản lý tốt và điều này có ảnh hưởng tới tăng trưởng doanh
nghiệp. Do đó, để tiếp tục tăng trưởng, doanh nghiệp cần bổ sung yếu tố
mới cho đội ngũ quản lý. Đó là thuê thêm các nhà quản lý mới có năng lực.
1.1.2. Lý thuyết về quy mô doanh nghiệp tối ưu
Về lý thuyết, hầu hết doanh nghiệp hoạt động đều nhằm mục đích tối
đa hóa lợi nhuận với quy mô sản xuất ở điểm thấp nhất của đường chi phí
trung bình (dạng chữ U) trong điều kiện cạnh tranh. Vì thế, trong quá trình
hoạt động, doanh nghiệp có xu hướng chuyển từ quy mô doanh nghiệp ban
đầu sang quy mô có điểm chi phí trung bình thấp nhất. Ở đây tăng trưởng
doanh nghiệp được nghiên cứu là sự chuyển đổi quy mô doanh nghiệp sang
quy mô tối ưu (quy mô với điểm chi phí trung bình là thấp nhất). Theo đó,
tăng trưởng chỉ diễn ra đến khi doanh nghiệp đạt tới quy mô tối ưu và tăng
trưởng tiếp tục diễn ra nếu quy mô tối ưu thay đổi. Lý thuyết này cho rằng
những nhân tố tác động tới quy mô tối ưu của doanh nghiệp bao gồm chi
phí sản xuất, mức độ cạnh tranh, năng lực quản lý, kỹ thuật công nghệ. Đây
là những nhân tố chủ yếu tác động tới quy mô của doanh nghiệp và vì thế
tác động tới tăng trưởng doanh nghiệp. Một kết luận quan trọng của lý
thuyết này là doanh nghiệp nhỏ tăng trưởng nhanh hơn doanh nghiệp lớn
cho đến khi đạt tới quy mô sản xuất hiệu quả.
10
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đối với doanh nghiệp có quyền lực thị
trường thì quy mô tối ưu khác với vị trí thấp nhất của đường chi phí trung
bình của doanh nghiệp. Trong trường hợp này sự giới hạn tăng trưởng
doanh nghiệp được xác định bởi cầu đối với hàng hóa chứ không phải bởi
sự tối ưu hóa nhờ chi phí. Doanh nghiệp loại này có đường cầu với độ dốc
đi xuống đối với sản phẩm có tính đặc biệt của mình. Chính vì vậy, sự đa
dạng hóa sản phẩm là một nhân tố tác động đến tăng trưởng của loại doanh
nghiệp này.
Một vài nhà kinh tế đã cố gắng chuyển lý thuyết về quy mô doanh
nghiệp tối ưu được đề cập ở trên sang một mô hình đơn giản và có thể kiểm
định trên thực tế (Geroski, 1999). Mô hình như sau:
)()1()( * ttSStS iiii µβ +−+=∆ (1)
Trong đó:
)(tS i là quy mô thực của doanh nghiệp i tại thời điểm t
*iS là quy mô ổn định trong dài hạn của doanh nghiệp i
β là tốc độ doanh nghiệp i hội tụ tới *iS khi *ii SS ≠
)(tiµ là phân phối chuẩn độc lập và đồng nhất.
Trước khi sử dụng phương trình (1), người ta phải xác định *S . Cách
tiếp cận thông dụng nhất là:
)()()(* ttXctS ii ηα ++= (2)
Trong đó:
)(tX là tập hợp nhân tố ngoại sinh có thể quan sát được tạo ra )(* tSi
)(tiη là là phân phối chuẩn độc lập và đồng nhất.
Thay phương trình (2) vào phương trình (1) ta có:
)()1()()( ttStXctS iii νβα +−++=∆ (3)
và ở đây )()()( ttt iii ηµν +=
Nếu 0=α , phương trình (2) chỉ ra *S là không đổi qua thời gian và
giống nhau cho tất cả doanh nghiệp
Nếu 0≠α , thì *S phụ thuộc vào tập hợp biến ngoại sinh )(tX .
11
Những nhân tố tác động tới tăng trưởng doanh nghiệp là các biến
ngoại sinh có thể quan sát được trong thực tế và thông tin về chúng hoàn
toàn có thể thu thập được. Chúng bao gồm:
Chi phí sản xuất
Mức độ cạnh tranh
Năng lực quản lý
Kỹ thuật công nghệ
Đa dạng hóa sản phẩm
Nguồn nhân lực
Số năm hoạt động của doanh nghiệp
Hình thức pháp lý (loại hình tổ chức doanh nghiệp)
Địa điểm hoạt động
Chính sách và khung khổ pháp lý
Và một số nhân tố khác.
1.1.3. Lý thuyết tăng trưởng theo giai đoạn
Mặc dù lý thuyết này hiện nay không còn được sử dụng thông dụng
nữa (Gerosky, 1999), nhưng trong nhiều năm, đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu chu kỳ sống của doanh nghiệp và giai đoạn tăng trưởng doanh
nghiệp, xây dựng mô hình quá trình tăng trưởng hay tập trung phân biệt các
thời kỳ mà doanh nghiệp tăng trưởng.
Có nhiều nghiên cứu khác nhau dựa trên lý thuyết này. Nói chung
các nghiên cứu đều cho rằng doanh nghiệp phải trải qua nhiều giai đoạn
tăng trưởng (Churchill và Lewis, 1983). Số lượng các giai đoạn tăng trưởng
rất đa dạng, chủ yếu là qua ba (Cooper, 1979), năm (Greiner, 1972) hay
bảy (Flamholtz, 1986) giai đoạn. Cũng có nhà nghiên cứu xây dựng mô
hình lên tới 10 giai đoạn tăng trưởng (Adizes, 1989). Thậm chí có nghiên
cứu đưa ra tới 20 giai đoạn tăng trưởng (Kiriri, 2000).
Trong số đó được nhắc đến nhiều nhất là nghiên cứu của Greiner
năm 1972. Tác giả lý luận rằng doanh nghiệp tăng trưởng qua năm giai
12
đoạn: sáng tạo (“creativity”), sự điều khiển (“direction”), ủy quyền
(“delegation”), điều phối (“coordination”) và hợp tác (“collaboration”).
Các nhà nghiên cứu còn xem xét giai đoạn tăng trưởng thông qua
việc phân tích các nhân tố. Một số nhân tố chủ yếu có thể dùng để xác định
doanh nghiệp đang ở giai đoạn nào của vòng đời gồm có:
Quy mô doanh nghiệp
Số năm hoạt động của doanh nghiệp (tuổi đời doanh nghiệp)
Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp
Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp
Khó khăn chủ yếu mà doanh nghiệp phải đối phó
Hình 1: Một số nhân tố qua các giai đoạn của vòng đời doanh nghiệp
Quy mô doanh nghiệp. Thông thường, quy mô doanh nghiệp được
xác định bởi doanh số bán, tổng tài sản và/hoặc số lượng người lao
động (Timmons, 1994). Thời gian đầu thành lập, doanh nghiệp có cơ
cấu tổ chức đơn giản, sản xuất sản phẩm đơn nhất, hoạt động trên địa
bàn hẹp. Phải sau một thời gian, doanh nghiệp mới thích nghi để
hoạt động trên địa bàn rộng, với cơ cấu chức năng phức tạp hơn, sản
13
Tiền
thành lập Thành lập
Tăng
trưởng
Tăng
trưởng
vững chắc
Suy
thoái/Phụ
c hồi
Quy mô
doanh nghiệp
Tuổi đời
doanh
nghiệp
Tốc độ tăng
trưởng
xuất nhiều dòng sản phẩm khác nhau. Đó là thời kỳ doanh nghiệp bắt
đầu tăng trưởng nhờ đó tăng quy mô doanh nghiệp. Barrie (1974)
cho rằng doanh số và lợi nhuận là nhân tố cơ bản để xác định đường
vòng đời vì các số liệu này là thực tế, có thể thu thập được, và có ý
nghĩa phản ảnh tương lai của doanh nghiệp. Khi so sánh doanh số và
lợi nhuận của doanh nghiệp qua thời gian và vẽ đồ thị xu hướng tăng
trưởng của doanh nghiệp, người ta có thể nhận biết doanh nghiệp
đang ở giai đoạn nào của vòng đời.
Số năm hoạt động của doanh nghiệp (tuổi đời doanh nghiệp). Khi
biết tuổi đời của doanh nghiệp người ta có thể một cách tương đối
doanh nghiệp đang ở giai đoạn nào của vòng đời (Timmons, 1994).
Nhưng luận điểm này bị một số học giả phê phán. Số năm hoạt động
của doanh nghiệp không thể cho biết giai đoạn trong vòng đời của
doanh nghiệp, vì nếu một doanh nghiệp không có kế hoạch thành lập
và hoạt động hiệu quả thì doanh nghiệp cần nhiều thời gian hơn để
có thể đứng vững và tăng trưởng so với một doanh nghiệp có kế
hoạch thành lập và hoạt độ