Theo từ điển tiếng Việt (Viện khoa học xã hội Việt Nam năm 1992 - trang 1135), “Xu hướng” có nghĩa là xu thế thiên về một chiều nào đó. Sự thiên về những hoạt động nào đó nhằm một mục tiêu có ý nghĩa đối với bản thân trong một thời gian lâu dài.
Từ định nghĩa đó, ta có thể hiểu Xu hướng báo chí đó là xu thế thiên về một chiều hướng nào đó của báo chí, có mục tiêu, ý nghĩa và ảnh hưởng trong thời gian dài. Tác động đến hệ thống báo chí của thế giới.
92 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2835 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các xu hướng phát triển của báo chí thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MÔN: LỊCH SỬ BÁO CHÍ THẾ GIỚI
Đề bài: Các xu hướng phát triển của báo chí thế giới
Giảng viên : Th.S Bùi Tiến Dũng
Hà Nội, 5/2008
MỤC LỤC
KHÁI QUÁT CHUNG
Theo từ điển tiếng Việt (Viện khoa học xã hội Việt Nam năm 1992 - trang 1135), “Xu hướng” có nghĩa là xu thế thiên về một chiều nào đó. Sự thiên về những hoạt động nào đó nhằm một mục tiêu có ý nghĩa đối với bản thân trong một thời gian lâu dài.
Từ định nghĩa đó, ta có thể hiểu Xu hướng báo chí đó là xu thế thiên về một chiều hướng nào đó của báo chí, có mục tiêu, ý nghĩa và ảnh hưởng trong thời gian dài. Tác động đến hệ thống báo chí của thế giới.
Báo chí từ ngày đầu ra đời đã liên tục có những thay đổi để tiến xa hơn. Từ tờ báo chỉ là những bản chép tay rồi đến những bản báo in đầu tiên và phát triển cho tới đa phương tiện như ngày nay, tất cả điều đó đều là kết quả của quá trình phát triển lâu dài với nhiều thách thức. Tùy theo điều kiện lịch sử và xu hướng của công chúng, hệ thống báo chí có những bước đi riêng của mình để đáp ứng lại những điều đó. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, báo chí cũng chịu phần nào ảnh hưởng.
Việc nghiên cứu các xu hướng của báo chí thế giới sẽ góp phần hiểu rõ hơn đặc điểm, thực trạng của nền báo chí toàn cầu hiện nay. Qua đó có cách thức, giải pháp cho phù hợp với tình hình chung.
Được giao tìm hiểu về các xu hướng phát triển của báo chí thế giới, nhóm 6 phát triển đề tài theo hướng tìm hiểu chung về các xu hướng đang diễn ra trên thế giới, rồi đi cụ thể vào từng loại hình báo chí. Trong quá trình tìm hiểu, nhóm cố gắng lý giải nguyên nhân và điều kiện dẫn tới các xu hướng đó và dự đoán hướng phát triển trong tương lai. So sánh các xu hướng đó với thực tại nền báo chí Việt Nam.
Trong quá trình tìm hiểu sẽ không tránh khỏi những thiếu xót, mong nhận được sự góp ý của thầy và các bạn.
CHƯƠNG I – XU HƯỚNG CHUNG CỦA BÁO CHÍ THẾ GIỚI
Toàn cầu hóa thông tin
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế, v.v. trên quy mô toàn cầu.
Toàn cầu hóa thông tin đó là quá trình thông tin ở khắp mọi nơi trên thế giới được truyền tải liên tục, nhiều chiều và dễ dàng tới cho công chúng.
Ngày nay, ở bất kì đâu bạn cũng đều có thể nắm bắt được toàn bộ thông tin của thế giới trong ngày qua. Đó là kết quả của quá trình toàn cầu hóa thông tin. Thông tin tại mọi ngóc ngách của trái đất được các hãng truyền thông cung cấp một cách nhanh chóng và chính xác tới cho mỗi công dân. Bạn đang ngồi ở nhà và có thể theo dõi tình hình đang diễn ra ở Iraq hay ở Mĩ, hay như tình hình giá xăng dầu trên thế giới hiện nay… điều sẽ ảnh hưởng tới cuộc sống của bạn
1.1 Điều kiện hình thành toàn cầu hóa thông tin
Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật trong các lĩnh vực đăng tải, in ấn tạp chí, báo, sự phát triển các công nghệ phát thanh truyền hình và đặc biệt là internet đã cho phép những thông tin từ một quốc gia có thể được biết đến trên toàn thế giới. Quá trình toàn cầu hóa thông tin được gắn với những thành tựu mới nhất trong kỹ thuật thông tin liên lạc và điện tử. Thông tin trong khoảnh khắc được truyền tải tức thời tới cho người xem và người đọc. Điều đó cho phép hàng triệu người được chứng kiến và tham gia vào các sự kiện.
Mạng internet bao phủ toàn cầu, nhờ đó mà người sử dụng có khả năng nhận được thông tin cần thiết từ các hãng tin một cách dễ dàng. Sự xâm nhập của tiến bộ khoa học kĩ thuật vào các hoạt động báo chí là điều rõ ràng và dễ nhận thấy. Việc áp dụng rộng rãi kỹ thuật điện tử, truyền tải dữ liệu xuyên biên giới, việc hình thành mạng lưới thông tin toàn cầu đã góp phần đưa tin tức nhanh chóng tới công chúng. Điều đó là cần thiết cho một xã hội đang phát triển nhanh.
Một điều kiện thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa nữa là nhu cầu thông tin của công chúng ngày một gia tăng. Các cơ quan báo chí muốn đáp ứng nhu cầu đó thì cần phải đẩy mạnh việc khai thác sự đa dạng của thông tin, không thể bó hẹp thông tin trong phạm vi một quốc gia hay một khu vực.
1.2 Biểu hiện của toàn cầu hóa thông tin
Biểu hiện rõ nhất là việc hình thành rất nhiều hãng thông tấn, hãng tin chuyên khai thác tin tức trên khắp thế giới rồi bán lại cho các cơ quan thông tấn trên thế giới. Với sự chuyên biệt này, các cơ quan báo chí chỉ cần mua lại tin từ các hãng thông tấn đó là có thể có đủ tin tức trên thế giới cung cấp cho công chúng của mình.
Biểu hiện thứ hai đó là thông tin ở mọi nơi được cập nhật liên tục và nhiều chiều. Nếu như trước kia, chỉ những thông tin quan trọng và có ảnh hưởng lớn mới được đề cập, thì ngày nay những thông tin về những con người bình thường ở mọi nơi đều có thể được nhắc tới. Thông tin về những nhân vật nổi tiếng không còn chỉ là thông tin riêng của một quốc gia mà đã trở nên nguồn tin nóng cho những người quan tâm trên thế giới.
Tuy nhiên một vấn đề đặt ra là liệu các thông tin được toàn cầu hóa đó liệu có trung thực? Các chuyên gia đã nhận xét, quốc gia nào làm chủ được thông tin thì quốc gia đó sẽ giành chiến thắng. Không ai dám chắc những thông tin mà các hãng tin đưa ra không mang màu sắc chính trị, phục vụ cho một đảng phái, một nền chính trị nào đó. Điều đó là dễ hiểu trong thời đại thông tin có vai trò quan trọng như ngày nay. Các chính phủ phải điều tiết các dòng thông tin trong tầm kiểm soát của họ, đưa ra những tin tức có lợi và theo những mưu đồ chính trị được tính toán kĩ.
Không thể phủ nhận những thành tựu của công cuộc toàn cầu hóa thông tin đem lại. Truyền hình, phát thanh, internet, báo chí đã và đang tác động về tình cảm, tư tưởng của công chúng tiếp nhận thông tin, bất kể khoảng cách từ họ tới nguồn thông tin là bao nhiêu. Sự kết hợp giữa thông tin toàn cầu và lợi ích khu vực làm cho hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trở nên hữu hiệu hơn nếu xét từ góc độc hình thành và thao túng công luận.
Quốc tế hóa báo chí
Trong bối cảnh thông tin toàn cầu đang phát triển, các tập đoàn truyền thông, các cơ quan báo chí đều muốn đẩy mạnh ảnh hưởng của mình tở các quốc gia khác. Chính vì vậy mà họ cố gắng đưa tờ báo của mình ra khỏi khuôn khổ của một quốc gia.
Quốc tế hóa báo chí là hình thức mà một tờ báo, ấn phẩm báo chí được phát hành ở nhiều quốc gia, hoặc phát hành ở quốc gia này nhưng được bán ở quốc gia khác.
2.1 Biểu hiện của quốc tế hóa trong lĩnh vực báo in
Báo chí in ấn ở nước này, nhưng lại được phát hành ở nhiều nước trên thế giới.
Báo chí in ấn ở nhiều nước cùng một lúc (thí dụ Nhân dân Nhật báo của Trung quốc, tạp chí Tuyển tập (Readers Digest)
Hai nước liên kết với nhau xuất bản một số báo
Cơ quan báo chí mở nhiều chi nhánh ở nước ngoài
Các tập đoàn báo chí phát triển những tờ báo cho khu vực riêng với ngôn ngữ của khu vực đó.
Biểu hiện của quốc tế hóa báo chí trong lĩnh vực phát thanh
Biểu hiện lớn nhất trong lĩnh vực phát thanh đó là xu hướng phát sóng ra nước ngoài của các tổ hợp truyền thông.
Có tổng số: 80 đài phát thanh ra nước ngoài, phát thanh tới 20.000 giờ trong tuần, bằng 48 thứ tiếng, phủ sóng toàn cầu.
Một số đài tiêu biểu như :
- VOA của Mỹ phát 2001 giờ/ tuần với 40 thứ tiếng
- BBC của Anh phát khoảng 120 giờ/ ngày với 38 thứ tiếng
- Làn sóng Đức phát 100 giờ/ ngày, với 40 thứ tiếng
- Đài CRI (Trung quốc) phát sóng 680 giờ/ngày với 43 thứ tiếng
Những điểm cần chú ý về nội dung:
- Đài phát thanh ra nước ngoài của các nước không có lợi cho nước chủ nhà về mặt kinh tế nhưng quan trọng về mặt chính trị nên được nhà nước quan tâm
- Về cơ cấu tổ chức có nét đặc biệt (có phòng PR - nghiên cứu nhu cầu công chúng, ban dạy tiếng nước ngoài)
- Những nội dung cần chú ý trong thông tin của các nước tư bản qua đài phát thanh:
Mô tả các nước tư bản giàu có thanh bình, là mô hình của nhiều nước vươn tới.
Không đưa ra đầy đủ những mặt trái, mặt tiêu cực của xh TBCN để công chúng phê phán
Đồng nhất mục tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa với chủ nghĩa cộng sản
Phê phán chủ nghĩa Mác , chống phá các nước XHCN, tăng cường các chiến lược diễn biến hòa bình
Biểu hiện quốc tế hóa báo chí trong lĩnh vực truyền hình
Lợi thế của thông tin trong lĩnh vực truyền hình đó là sử dụng hình ảnh
Xu thế nhiều đài truyền hình trên thế giới phát các chương trình truyền hình đối ngoại
Tăng cường các chương trình phát hình gắn với lồng tiếng hoặc có chữ dịch hiện trên màn hình
Hình thành nhiều đài truyền hình của khu vực, đài truyền hình cho châu lục, hoăc đài của các tập đoàn báo chí dành riêng cho khu vực.
Biểu hiện của quốc tế hóa báo chí trong lĩnh vực thông tấn
Thu thập thông tin nước ngoài đầy đủ, chính xác là nghĩa vụ và trách nhiệm của các hãng thông tấn
Đa dạng hóa các loại hình thông tin: hình ảnh, âm thanh, các văn bản...
Số lượng ấn phẩm báo ảnh càng ngày càng phát triển
Liên kết các hãng thông tấn quốc tế
Biểu hiện của quốc tế hóa báo chí trong lĩnh vực báo mạng
Hình thành những trang web của các cơ quan báo chí.
Các phiên bản của báo in được cập nhật thông tin nhanh chóng
Hình thành những dịch vụ thông tin mới như chat, thư điện tử, điện thoại qua mạng
Thông tin nhanh chóng, vượt qua mọi trở ngại về không gian và thời gian,
Cần có trình độ cao để có thể loại bỏ thông tin nhiễu, thông tin không có độ tin cậy, thông tin rác rưởi.
Thương mại hóa báo chí
Khái niệm thương mại hóa báo chí hiện nay vẫn còn có nhiều tranh cãi. Có nhiều người cho rằng không nên dùng từ thương mại hóa đối với báo chí, vì điều đó có thể gây hiểu sai là các tờ báo đang “lá cải hóa”
Tuy nhiên nhóm cũng xin tự đưa ra cách hiểu của mình về “thương mại hóa báo chí”. Đó là một quá trình mà các cơ quan báo chí tìm cách tăng thu nhập cho mình bằng các hoạt động kinh tế khác bên cạnh việc kinh doanh các loại hình báo chí thông thường. Đó có thể là các hoạt động quảng cáo cho các sản phẩm, thâu tóm các khâu trong quá trình làm báo: in ấn, phát hành… phát triển thêm các dịch vụ giá trị gia tăng trên tờ báo hoặc cũng có thể tham gia và các lĩnh vực kinh tế khác.
3.1 Điều kiện hình thành thương mại hóa báo chí
Sau cuộc “cách mạng thương mại” những năm 1830 – 1840, các phương tiện thông tin đại chúng trở thành những doanh nghiệp tư bản sinh lời, vì vậy bản thân chúng cũng chịu sự tác động của tất cả các quy luật của hoạt động kinh doanh: cạnh tranh và hạn chế cạnh tranh, tập trung hóa, độc quyền hóa và những luật lệ khác. Tất cả những điều đó để lại dấu ấn trong hoạt động báo chí hằng ngày và hoạt động của những tổ chức hữu quan. Chính vì sau “cuộc cách mạng thương mại”, những nguồn thu của báo chí định kỳ chủ yếu đến từ quảng cáo chứ không phải từ số lượng phát hành nên những tổ chức đặt in quảng cáo bắt đầu hướng đến những ấn phẩm có số lượng phát hành cao nhất. Điều đó làm cho các nhà báo phải thay đổi nội dung và cách trình bày ấn phẩm.
Trong lĩnh vực kinh tế thị trường và trong bối cảnh tương mại hóa toàn cầu, hầu như mọi lĩnh vực nghề nghiệp đều chịu ảnh hưởng của lợi ích về quảng cáo và thương mại. Họ nhận ra vai trò của quảng cáo trên báo chí đối với tư duy của khách hàng. Báo chí cũng nhận ra điều đó. Nhà tài phiệt truyền thông như Rupert Murdoch đã cho chúng ta thấy kinh doanh từ các loại hình truyền thông đem lại lợi nhuận khổng lồ như thế nào. Hoạt động tổ chức của mọi phương tiện thông tin đại chúng đều nhằm đạt được hiệu quả cao về phương diện kinh tế - tài chính, cũng như các phương diện tư tưởng. Nếu chỉ xét về phương diện kinh tế của vấn đề thì cần nêu rõ rằng để đạt được mức sinh lời cao khâu quản lý ở các báo và tạp chí, các đài phát thanh truyền hình cũng phải được xây dựng theo những nguyên tắc giống như những nguyên tắc trong điều hành các doanh nghiệp.
3.2 Biểu hiện của thương mại hóa báo chí
Hiện nay những nguồn thu chủ yếu của mọi ấn phẩm đều gồm:
Những khoản thu tài chính từ quảng cáo
Những khoản thu nhờ bán báo, phát sóng…
Những khoản thu từ các hoạt động thương mại dưới các hình thức khác
Những khoản tiền đóng góp từ bên ngoài.
Và nền tảng cho những khoản thu bằng tiền này là khoản thu từ quảng cáo đem lại.
Từ khi khai sinh, mục đích thương mại của báo in đã rất rõ rằng. Tờ Anzeiger (người quảng cáo) xuất bản ở Dresden (Đức) năm 1730, theo nhà nghiên cứu Anthony Smith, đã tự cho mình là phục vụ tất cả những ai trong hay ngoài thành phố muốn mua bán, cho thuê hay đi thuê, cho vay hay đi vay. Ở Mỹ, trong thời gian thuộc địa, thương mại đó là một yếu tố tiên quyết của báo chí. Nhu cầu về buôn bán hàng hóa tiêu dùng, đặc biệt thông tin về những tuyến tàu chở hàng từ bên kia đại dương đã để lại kết quả là các tờ báo ban đầu hầu hết gắn với từ “người quảng cáo” (Advertiser) trên vi-nhét.
Bất kì một tờ báo nào, một tạp chí hoặc một ấn phẩm niên giám nào cũng dành một vài trang cho quảng cáo. Hiện chính quảng cáo là nguồn thu chủ yếu của ấn phẩm. Tùy thuộc vào điều kiện phát hành, truyền thống dân tộc và tình hình kinh tế, ở từng nước các khoản thu từ quảng cáo của các phương tiện thông tin đại chúng có khác nhau. Ở Tây Ban Nha là khoảng 80%, ở Mỹ là 75% và ở Pháp là khoảng 60%
Sức ép về kinh tế đã buộc các cơ quan báo chí bước vào cuộc cạnh tranh dữ dội để thu hút độc giả, thay đổi trong cách thu hút quảng cáo. Nhiều cơ quan đã tiến hành hàng loạt chiến lược để thương mại hóa sâu xa hơn ngành công nghiệp này, khiến cho các mối quan tâm thương mại ngang với hoặc quan trọng hơn chất lượng của xã luận hay trách nhiệm với xã hội. Riêng ngành công nghiệp báo in Mỹ: thu nhập tăng từ 12,2 tủy đô la Mỹ vào năm 1975 lên 54,4 tỷ đô la năm 2000. Nói cách khác, báo in đã thu nhập tăng gấp 2,5 lần từ quảng cáo năm 2000 so với năm 1950. Trong vòng 30 năm qua, lượng nội dung quảng cáo trong báo in Mỹ vượt trên 60% (Báo chí & tuyên truyền 6/2006 trang 43)
Việc các tờ báo hiện nay coi trọng tin tức thương mại hơn và phụ thuộc vào quảng cáo để tăng thu nhập đã khiến cho độ tin cậy vào các tin bài bị giảm xuống, sự tin cậy của công chúng với các nhà báo bị tổn hại nhiều.
Thủ tướng Vajpayee của Ấn Độ, trong cuộc phỏng vấn với BBC năm 2003 đã nói lên mối lo ngại về sự gia tăng tính thương mại và tính giật gân trong báo chí. Ông nhấn mạnh các loại hình báo chí phải thể vai trò quan trọng của mình bằng tính có tư tưởng và giá trị: “Nếu không có lý tưởng, báo chí sẽ trở thành hàng hóa và không thể tác động đến suy nghĩ của độc giả nữa”. Ở Đài Loan, giáo sư báo chí Kuan Chung-Hsiang, Đại học Shih Hsin đã tiên đoán rằng trong tương lai gần các loại hình báo chí Đài Loan sẽ tiếp tục xuống cấp vì ảnh hưởng của các nhóm lợi ích chính trị và thương mại. Ở Úc, khi các nhà báo mới bị coi là “người kinh doanh nhỏ hiệu quả” đang cung cấp sản phẩm của họ cho người dân, nhà nghiên cứu Katrina Mandy Oakham tin vào sự đổi thay lớn mà các nhà báo không còn là người giám sát xã hội hay các thành viên ưu tiên của “quyền lực thứ tư” nữa mà “họ là những doanh nhân sản xuất hàng hóa phục vụ thị trường”. Nhà báo Michelle Grattan thậm chí cho rằng “tính thương mại” đã nổi lên như là “giá trị cốt lõi” của báo chí. Như vậy, điều mọi người lo ngại có thể đã thành hiện thực: báo chí được xem như là hàng hóa.
Vai trò của nhà báo đã thay đổi sâu sắc nếu chúng ta đồng ý với ý tưởng của Simon Canning trên tờ The Autrailian: “Mọi thứ có thể sẽ thay đổi và nhà báo sẽ sớm thấy công việc của họ không chỉ là phản ánh sự kiện, mà chính là phương tiện mà các nhà quảng cáo phát tán thông điệp của mình”. Thậm chí báo chí và thương mại luôn sát cánh kề vai, Canning cũng chỉ ra rằng quảng cáo đã kiếm được rất nhiều lợi nhuận bằng cách đặt các thông điệp quảng cáo của họ cạnh tin tức. Như thế, các nhà báo đã “bị ép” để cho ra những tin tức thương mại giống như thế trở thành tin tức”.
Internet cung cấp một môi trường tuyệt vời cho ngành quảng cáo và do đó báo chí điện tử dù muốn hay không cũng bị ảnh hưởng. Một ví dụ mà Canning đưa ra là phần mềm quảng cáo có tên là IntelliTXT của công ty quảng cáo trực tuyến Vibrant Media ở Mỹ. Khi các nhà quảng cáo sử dụng hệ thống này, họ có thể biến hàng trăm từ trong bài báo có tiềm năng gây thu hút về sản phẩm của họ mà bạn đọc có thể đọc sang dạng có kết nối đến quảng cáo. Và chỉ cần di con chuột tới vị trí từ đó, một màn hình nhỏ sẽ hiện ngay ra mời gọi người đọc nhấn vào trang quảng cáo chính thức. Ứng dụng này khiến các chuyên gia báo chí Mỹ lo ngại về việc nhà báo chọn từ khi viết, bởi họ sẽ hướng tới những từ dễ được chuyển sang kết nối tới trang quảng cáo. Sự can thiệp khá sâu cả về nội dung và hình thức này rõ ràng đã ảnh hưởng đến tính chính xác, sự công bằng và đạo đức báo chí.
3.3 Ảnh hưởng của thương mại hóa với báo chí
Trong bối cảnh thương mại hóa báo chí, Lynette Sheridan Burns cho rằng các nhà báo ngày nay luôn phải tìm cách dung hòa giữa cạnh tranh nghề nghiệp, quan tâm thương mại và trách nhiệm đạo đức liên quan đến việc khai thác thông tin và thể hiện thông tin. Bà cho rằng “báo chí là một công việc phức tạp – cố gắng làm hài lòng tổng biên tập – ông chủ của bạn, bản thân bạn và toàn bộ độc giả”
Vì các cơ quan báo chí là các doanh nghiệp, các nhà báo phải làm hài lòng ông chủ mình và để làm điều đó, họ phải tuân thủ những nguyên tắc riêng của phòng tin”. Quy tắc này có thể là nhà báo phải hiểu cơ quan mình sẽ chọn cái gì đưa tin và cái gì không. Những yếu tố này không thể nói là không làm khó xử cho họ và họ sẽ quen với việc được bảo là làm gì, hơn là làm điều mình muốn.
Tuy nhiên ở các nước phương Tây họ có một giải pháp, đó là tách biệt các hoạt động quảng cáo với phần hoạt động báo chí đích thực. Điều đó giúp cho bản chất của tin tức sẽ không bị ảnh hưởng, thông tin vẫn chính xác và đảm bảo sự trung thực. Ở đa số các quốc gia, người ta nghiêm cấm hình thức quảng cáo lén lút, núp dưới các bản tin, tin tức. Một vài nước còn đưa ra cả luật lệ cho việc đó.
Trong báo chí, cũng như những ngành nghề khác, thời gian là tiền. Các tổng biên tập luôn muốn có nhiều tin hơn trong thời gian ngắn hơn, áp lực đặt lên nhà báo. Hậu quả là họ có thể trở thành những cỗ máy được lập trình để hoạt động. Họ thiếu thời gian để nghiên cứu, điều tra, để tìm hết các ngóc ngách, phương diện của vấn đề. Nhiều khi các ông tổng biên tập muốn mọi phương diện của một câu chuyện tội phạm đi quá cả phạm vi giá trị thông tin câu chuyện bởi họ có thể in nhiều bản hơn để bán. Ngược lại cũng có những câu chuyện không bao giờ được khám phá bởi chi phí lớn về việc đi lại hoặc chúng không giúp bán được nhiều báo
Vấn đề khác của báo chí hiện nay liên quan đến tính thương mại là báo chí trả tiền cho nguồn tin bằng các tấm séc (chequebook journalism). Tuy nhiên vấn đề này vẫn con tranh cãi, nhưng cho thấy báo chí dùng tiền để mua tin là chuyện bình thường. Theo Hargreaves, checkbook journalism nghĩa là báo chí trả tiền cho nguồn tin, thậm chí là tội phạm đang chờ xét xử, để khai thác các câu chuyện, không quan tâm tới hiệu quả của sự can thiệp của đồng tiền có thể có đối với tính tin cậy của thông tin. Câu hỏi đặt ra là: liệu nhà báo sẽ có những thông tin trung thực từ nguồn tin hay không? Nếu nguồn tin đòi tiền thì động cơ của họ là gì?
Nhưng đối với McClellan, một cựu chuyên gia các vấn đề thời sự của kênh truyền hình số 9 và số 7 của Úc, các tấm séc là việc việc cần thiết cho việc thực hành nghề báo. McClellan cũng cho biết tiền được chi ở Úc chỉ bằng phần nhỏ so với Anh, Mỹ và hầu hết tiền được trả là nhỏ hơn 10.000 đô là và số tiền lớn nhất được trả cũng không khác mấy so với 20 năm trước. Hầu hết chi phí séc ở Úc là cho những câu chuyện cá nhân nổi bật như Delta Goodrem và Belinda Emmett. Ở Anh hay Mỹ, phí séc ngày càng cao hơn và nhiều hơn. Monica Lewinsky được cho là đã bỏ túi khoảng 400.000 bảng cho một cuộc phỏng vấn năm 1999 sau vụ scandal với cựu tổng thống Mỹ.
Bối cảnh của các nước tư bản là trong nền kinh tế thị trường, khi mỗi cơ quan báo chí là một doanh nghiệp, nó phải nghĩ trước tiên đến việc làm sao để sống còn, rồi mới nghĩ đến việc truyền tải thông tin đến cho độc giả của mình. Nghịch lý là nhu cầu cao về thắng lợi kinh tế khó có thể đảm bảo một nền báo chí công bằng và trách nhiệm. Điều đáng lo ngại là quan tâm đến lợi ích kinh tế đã không chỉ là do sức ép bên ngoài, mà nó có thể phát sinh từ bên trong,