CẢI CÁCH TÀI CHÍNH AN SINH XÃ HỘI HƯỚNG ĐẾN 
MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM1 
TS. Đỗ Ngọc Huỳnh 
1. Giới thiệu chung 
Trải qua hơn hai thập kỷ thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và 
Nhà nước, hệ thống an sinh xã hội (ASXH) ở Việt Nam đã ngày càng phát 
triển và từng bước hoàn thiện cùng với sự hình thành, phát triển của các chế 
độ bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp 
(BHTN) bảo trợ xã hội và các loại hình ASXH khác. Phạm vi đối tượng tham 
gia và thụ hưởng ngày càng được mở rộng đến hầu hết các tầng lớp dân cư và 
các đối tượng chính sách trong xã hội; chất lượng dịch vụ ngày càng được cải 
thiện; qua đó đảm bảo góp phần thực hiện tốt các chủ trương, đường lối chính 
sách phát triển bảo đảm công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, 
bên cạnh những mặt đã đạt được, hệ thống ASXH ở nước ta vẫn còn những 
tồn tại, hạn chế và đối diện với nhiều nguy cơ, thách thức, trong đó đặc biệt là 
vấn đề đảm bảo ASXH cho các tầng lớp dân nghèo, các đối tượng chính sách 
xã hội cũng như vấn đề đảm bảo tính an toàn, bền vững về tài chính đối với 
các quỹ BHXH và BHYT trong điều kiện xuất phát điểm kinh tế - xã hội còn 
thấp trước yêu cầu và tác động, ảnh hưởng của hội nhập quốc tế. 
Trong bối cảnh nguồn lực tài chính quốc gia còn khó khăn, hạn chế, 
cùng với việc cải cách các cơ chế, chính sách về ASXH, vấn đề đảm bảo 
nguồn lực tài chính lâu dài, bền vững và cơ chế quản lý tài chính phù hợp cho 
các hoạt động ASXH đã và đang trở thành một trong những nhiệm vụ trọng 
tâm cấp bách đối với nền kinh tế trong những năm tới. Theo kinh nghiệm của 
các nước trên thế giới, nhu cầu nguồn lực cho hệ thống ASXH sẽ ngày càng 
tăng cao cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là sự gia tăng 
của tiền lương, thu nhập và mức sống. Chính phủ các quốc gia trên thế giới 
hiện nay, kể cả các nước đã phát triển và các nước đang phát triển, đều đã và 
đang đối mặt với vấn đề bất ổn định và kém bền vững của các hệ thống 
ASXH đang được ngày càng mở rộng, phát triển, đặc biệt là về nguồn lực tài 
chính phục vụ các chương trình, mục tiêu ASXH. 
Bài viết này nhằm mục tiêu khái quát thực trạng hệ thống ASXH ở Việt 
Nam, phân tích, đánh giá những hạn chế, tồn tại và vấn đề chính sách tài 
1 Các quan điểm thể hiện trong tài liệu này là của bản thân tác giả, không nhất thiết phải phản ánh 
quan điểm của các tổ chức, cá nhân có liên quan. Ý kiến đóng góp xin gửi về địa chỉ email: 
[email protected]. 
 2
chính chủ yếu; đồng thời, trên cơ sở xem xét bài học kinh nghiệm cải cách 
ASXH của các nước, đề xuất quan điểm định hướng, mục tiêu, yêu cầu, giải 
pháp và lộ trình cải cách tài chính ASXH hướng tới mục tiêu phát triển bền 
vững ở Việt Nam trong thời gian tới; trong đó trọng tâm phân tích sẽ tập trung 
vào khía cạnh nguồn tài trợ và tính ổn định, bền vững về tài chính ASXH, đặc 
biệt là đối với các loại hình BHXH. 
2. Khái quát thực trạng hệ thống ASXH 
Có nhiều khái niệm khác nhau về ASXH, kể cả giữa các tổ chức quốc 
tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Tổ 
chức Lao động quốc tế (ILO). Thông thường, ASXH được hiểu là việc đảm 
bảo đời sống cho các tầng lớp dân cư trong xã hội đạt được những tiêu chuẩn 
nhất định để đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội. Trên thực tế nghiên cứu, hoạch 
định chính sách và triển khai thực hiện, ASXH có thể được hiểu theo nghĩa 
rộng, bao gồm toàn bộ các hoạt động đảm bảo đời sống nhân dân.2 
ASXH có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, không 
chỉ giới hạn trong việc tái phân bổ thu nhập và trợ cấp để đảm bảo nhu cầu cơ 
bản cho các tầng lớp dân cư mà còn được thể hiện linh hoạt dưới các hình 
thức bảo trợ xã hội hoặc phòng tránh rủi ro, khắc phục hậu quả đối với các 
thành viên trong xã hội. ASXH thực hiện các chức năng cơ bản là phòng ngừa 
rủi ro, giảm thiểu rủi ro, khắc phục rủi ro và bảo đảm an toàn cuộc sống cho 
mọi thành viên trong xã hội. Do đó, mục tiêu cơ bản của ASXH có thể khái 
quát bao gồm đảm bảo an ninh thu nhập, giảm nghèo, giảm bất bình đẳng, bảo 
vệ các đối tượng yếu thế và đảm bảo sự ổn định, gắn kết xã hội. 
Hệ thống ASXH thường gồm các cấu phần chủ yếu là nhóm BHXH 
(bao gồm các hình thức BHXH và BHYT), bảo trợ xã hội, ưu đãi xã hội, và 
các dịch vụ xã hội khác; trong đó, nhóm BHXH đóng vai trò trọng tâm. Theo 
ILO (1994), hệ thống ASXH nên bao gồm chính sách hỗ trợ xã hội bảo đảm 
thu nhập tối thiểu cho người nghèo, hoàn cảnh sống khó khăn, chính sách bảo 
hiểm xã hội đóng góp bắt buộc cho ốm đau, thương tật, thất nghiệp, hưu trí và 
chính sách bảo hiểm tư nhân tự nguyện đáp ứng yêu cầu của những người có 
thu nhập cao. 
 Ở Việt Nam, Luật Bảo hiểm xã hội được thông qua ngày 29/6/2006, có 
hiệu lực thi hành từ 01/01/2007, quy định các chế độ BHXH bắt buộc, BHXH 
2 Theo Công ước 102 năm 1952 của ILO, hệ thống ASXH bao gồm 9 bộ phận cấu thành là hệ 
thống chăm sóc y tế; hệ thống trợ cấp ốm đau; trợ cấp thất nghiệp; hệ thống trợ cấp tuổi già; trợ cấp 
tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp; trợ cấp gia đình; trợ cấp thai sản; hệ thống trợ cấp cho tình 
trạng không tự chăm sóc được bản thân (trợ cấp tàn tật); và trợ cấp tiền tuất 
 3
tự nguyện và BH thất nghiệp.3 Về BHYT, chính sách BHYT được coi là chế 
độ khám chữa bệnh (KCB) của chính sách BHXH, nhưng do lịch sử hình 
thành và phát triển có sự khác biệt và theo thói quen nên được gọi là chính 
sách BHYT. Trước năm 1992, mọi chi phí KCB do ngân sách Nhà nước chi 
trả. Kể từ năm 1992, chế độ BHYT mới được triển khai. Luật Bảo hiểm Y tế 
được ban hành năm 2008 đã đánh dấu một bước cải cách quan trọng, góp 
phần từng bước phát huy vai trò của bảo hiểm trong khám chữa bệnh, chăm 
sóc sức khoẻ của nhân dân. 
Một số kết quả đạt được: 
- Hệ thống chính sách ASXH đã được hình thành và phát triển với các 
chính sách BHXH và BHYT là nòng cốt trên cơ sở nguyên tắc ba bên cùng 
tham gia (người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước) để giảm bớt 
gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Đây là quá trình cải cách phù hợp với mô 
hình phân phối của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa 
có sự điều tiết của Nhà nước. Quan hệ mức đóng và mức hưởng đã tuân thủ 
các nguyên tắc của hoạt động BHXH theo từng chế độ riêng biệt. 
 - Phạm vi đối tượng tham gia các hình thức BHXH và BHYT ngày 
càng được mở rộng, tạo sự bình đẳng giữa những người lao động làm việc 
trong các thành phần kinh tế, khuyến khích người lao động tự giác thực hiện 
nghĩa vụ và quyền lợi BHXH và BHYT; tạo được sự an tâm, lòng tin và sự 
công bằng cho mọi người lao động trong xã hội. Trong vòng 10 năm (1995-
2005), tổng số người tham gia BHXH tăng từ 2,85 triệu người lên 6,2 triệu 
người và tiếp tục tăng mạnh trong thời gian gần đây: 6,7 triệu người năm 
2006; 8,1 triệu người năm 2007 và 8,7 triệu người năm 2008 (bằng gần 25% 
lực lượng lao động cả nước). Về BHYT, số đối tượng tham gia tăng mạnh từ 
3,7 triệu năm 1993 lên 23,7 triệu người năm 2005. Đến cuối năm 2008, đã có 
khoảng 39,2 triệu người tham gia BHYT; trong đó 28,6 triệu người tham gia 
BHYT bắt buộc; 10,6 triệu người tham gia BHYT tự nguyện.4 
- Đã thực hiện chi trả, trợ cấp theo các chế độ BHXH như ốm đau, thai 
sản, hưu trí, tuất và mất sức lao động trực tiếp cho hàng triệu người lao động, 
đảm bảo đúng đối tượng, chế độ, kịp thời và trực tiếp đến người thụ hưởng; 
đến nay hầu như không còn tình trạng nợ đọng lương hưu và các chế độ 
BHXH khác. Về chế độ bảo trợ xã hội, cùng với chính sách phát triển công 
bằng xã hội của Đảng và Nhà nước, đối tượng hưởng bảo trợ xã hội được mở 
3 Riêng các quy định về BHXH tự nguyện sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2008, các quy định về BH 
thất nghiệp sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2009. 
4 Đến năm 2010 ước tính có khoảng 50 triệu người tham gia BHYT, trong đó trẻ em dưới 6 tuổi 
khoảng 7 triệu người, người nghèo và cận nghèo khoảng 13 triệu người. Với tốc độ phát triển hiện 
nay thì đến năm 2015 có thể tiến tới đạt được mục tiêu BHYT toàn dân. 
 4
rộng và tăng nhanh, đảm bảo đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế phát sinh, qua 
đó góp phần đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 1996-2005, có 
trên 8 triệu người thuộc diện được hưởng chế độ ưu đãi, trong đó trợ cấp ưu 
đãi hàng tháng khoảng 1,5 triệu người. Mức trợ cấp cũng được điều chỉnh cho 
phù hợp với tăng trưởng kinh tế, qua đó đảm bảo nâng dần mức sống cho các 
đối tượng thụ hưởng. 
- Hệ thống BHXH Việt Nam được quản lý tập trung thống nhất từ 
Trung ương đến địa phương, được chuyên môn hoá để thực hiện các chính 
sách, chế độ BHXH qua việc tách hoạt động của sự nghiệp quản lý quỹ 
BHXH ra khỏi chức năng quản lý Nhà nước. BHXH Việt Nam thực hiện cải 
cách hành chính, tổ chức thực hiện tốt chức năng quản lý thu - chi BHXH, cải 
tiến quy trình thủ tục xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH trong cả nước, đảm bảo 
tính thống nhất, kịp thời, công bằng và hiệu quả. Đã hình thành cơ chế quản 
lý tài chính thống nhất đối với các loại hình BHXH, tạo căn cứ pháp lý và 
điều kiện thuận lợi cho các hoạt động ASXH ngày càng phát triển trên phạm 
vi rộng và quy mô lớn trên toàn quốc. Quy mô và tiềm lực tài chính của các 
quỹ ngày càng tăng cùng với sự gia tăng của mức đóng góp và chi trả. Tổng 
số dư các quỹ ASXH lên đến hàng trăm ngàn tỷ đồng, tạo cơ sở cho việc phát 
triển quỹ và là nguồn vốn đầu tư lớn cho nền kinh tế. 
Một số tồn tại, hạn chế: 
- Hệ thống ASXH phát triển chưa đầy đủ, toàn diện, thiếu sự liên kết và 
hỗ trợ nhau giữa các chính sách ASXH. Một số chính sách ASXH còn tồn tại 
những bất hợp lý; chưa có các chính sách ASXH đặc thù và phù hợp với dân 
cư nông thôn và các vùng dân tộc, miền núi có điều kiện sống khó khăn. 
- Diện bao phủ mặc dù tăng nhanh nhưng vẫn còn chưa cao, tập trung 
vào các thành phố lớn và các tỉnh đồng nơi có hoàn cảnh sống thuận lợi, chưa 
mở rộng đối với những đối tượng nông thôn, miền núi vùng khó khăn; mạng 
lưới chủ yếu mới bao phủ khu vực kinh tế chính thức. 
- Hệ thống hành chính, sự nghiệp cung cấp dịch vụ ASXH chưa theo 
kịp yêu cầu phát triển thực tế, còn hạn chế trong năng lực tổ chức và quản lý 
đối với các loại hình ASXH. Chất lượng cung cấp các dịch vụ ASXH, đặc 
biệt là dịch vụ y tế, còn hạn chế và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - 
xã hội và sự gia tăng trong mức sống dân cư. 
- Khả năng cân đối giữa nguồn và sử dụng của hệ thống ASXH, kể cả 
các quỹ BHXH, BHYT và các chế độ bảo trợ xã hội, còn hạn chế và gặp 
thách thức lớn cả trước mắt và trong trung và dài hạn. Theo đánh giá sơ bộ, 
các quỹ BHXH, BHYT ở trong tình trạng báo động trong tương lai gần, đặc 
biệt là đối với quỹ BHYT. Nguồn lực bảo đảm cho ASXH của Nhà nước khó 
 5
đáp ứng được yêu cầu tài trợ ngày càng tăng của các chính sách ASXH, trong 
khi đó nguồn đóng góp từ cộng đồng còn hạn chế, nhất là đối với người 
nghèo, nông thôn, nông thôn và vùng có điều kiện khó khăn. 
Thực tế ở các nước đang phát triển cho thấy, nếu hệ thống ASXH chỉ 
dựa vào những đóng góp của cộng đồng thì sẽ không đảm bảo tính ổn định 
bền vững. Tài trợ của NSNN cho ASXH là cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn 
đầu của quá trình phát triển. Sự phát triển của hệ thống ASXH phụ thuộc lớn 
vào việc lựa chọn chính sách của Chính phủ; trong đó nhiều nhà nghiên cứu 
khuyến cáo nên dành một khoản thu nhất định của ngân sách để tài trợ một 
phần nhu cầu chi tiêu của hệ thống ASXH.5 Trong bối cảnh kinh tế - xã hội 
còn nhiều khó khăn ở trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, mức thu 
nhập bình quân đầu người thấp, các nguồn thu của các quỹ ASXH có giới hạn 
trong khi nhu cầu chi của quỹ thường rất lớn và gắn liền với các mục tiêu 
chính sách xã hội. Do đó, Chính phủ thường cần bố trí một phần ngân sách 
đáng kể trong kế hoạch ngân sách hàng năm phục vụ chi cho các nhu cầu 
ASXH, đặc biệt trong bối cảnh dân số già hoá hiện nay. Đây cũng là một 
trong những khó khăn, thách thức lớn đối với Việt Nam trong thời gian tới; 
trong đó một số vấn đề chính sách trọng tâm về tài chính đối với ASXH cụ 
thể như sau: 
 Thứ nhất, thâm hụt quỹ và yêu cầu cân đối các quỹ BHXH, BHYT và 
tăng chi bảo trợ xã hội đã và đang trở thành một trong những vấn đề trọng 
tâm của hệ thống tài chính nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.Với 
chính sách không ngừng mở rộng độ bao phủ của ASXH trong bối cảnh kinh 
tế xã hội phát triển thấp, mức độ đóng góp còn hạn chế, một số quỹ ASXH đã 
nằm trong tình trạng thâm hụt và đòi hỏi trợ cấp lớn từ ngân sách nhà nước. 
Trong điều kiện nguồn lực ngân sách còn hạn hẹp, yêu cầu tài trợ ASXH tăng 
mạnh có nguy cơ gây nên mất cân đối tài chính quốc gia và những ảnh hưởng 
tiêu cực trong trung và dài hạn. Dưới tác động của khủng hoảng tài chính và 
suy thoái kinh tế toàn cầu, trong thời gian gần đây mức chi và tỷ trọng chi 
ngân sách cho ASXH không ngừng tăng, tiệm cận mức 20% tổng chi thường 
xuyên của ngân sách nhà nước (gần 4%GDP, xem Biểu 1 dưới đây). 
5 Xem Grument (2005), Vanzante và Fritzsch (2008). 
 6
Biểu 1: Tỷ trọng chi lương hưu và bảo đảm xã hội so với 
chi ngân sách nhà nước và GDP (%) 
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Chi lương hưu và bảo đảm XH/GDP
Chi lương hưu và bảo đảm XH/Tổng chi cân đối NS
Chi lương hưu và bảo đảm XH/Chi thường xuyên
(Nguồn: số liệu công bố trên các trang web của Bộ Tài chính, Tổng cục thống kê) 
Bên cạnh đó, ngân sách nhà nước còn chịu sức ép lớn từ việc tăng chi 
thực hiện các khoản chi chương trình mục tiêu quốc gia, chi phòng chống, 
khắc phục hậu quả lũ lụt, thiên tai,... Đây là vấn đề tiếp tục gây sức ép lớn cho 
ngân sách cả trước mắt và trong tương lai trung và dài hạn, đặc biệt khi các 
nguồn thu khá lớn hiện nay như thu từ dầu thô và cấp quyền sử dụng đất (thu 
từ tài sản nhà nước) có xu hướng giảm và không bảo đảm tính ổn định, lâu 
dài.6 
Về tình hình tài chính các quỹ bảo hiểm xã hội, hiện nay Quỹ BHYT 
thâm hụt trầm trọng ở mức hàng ngàn tỷ đồng hàng năm. Quỹ BHXH có số 
dư khá lớn do số người đóng góp hiện nay lớn hơn nhiều so với số người đang 
hưởng lợi nhờ có cơ cấu dân số vàng; tuy nhiên tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối 
trong tương lai do các yếu tố: già hoá dân số 7, cải cách tiền lương và điều 
6 Theo một số nghiên cứu, quy mô ngân sách nhà nước và bội chi ngân sách nhà nước ở nước ta có 
xu hướng đang ngày càng gia tăng, trong khi các nước trong khu vực lại có xu hướng thu hẹp. 
7 Theo dự báo, đến khoảng năm 2030, thu chi Quỹ BHXH sẽ bắt đầu mất cân đối do dân số Việt 
Nam bắt đầu già và vì thế mà số đối tượng hưởng BHXH sẽ tăng nhanh. Trong giai đoạn 1999-
2009, số người già (trên 60 tuổi) tǎng 1,4%/nǎm (gần bằng tỷ lệ tăng dân số tự nhiên) và thấp hơn 
nhiều so với thời kỳ 10 nǎm trước (giai đoạn 1989-1999, người già tǎng 2,9%/nǎm, hay khoảng hai 
lần mức tǎng dân số). Trong giai đoạn 2009-2019, dự báo số lượng người già sẽ tǎng nhanh (gần 
5%/nǎm, gấp 4,5 lần mức tǎng dân số cùng thời kỳ). Dự báo dân số Việt Nam sẽ bước vào thời kỳ 
 7
chỉnh lương tối thiểu cùng với điều chỉnh chế độ lương hưu và trợ cấp BHXH, 
quy định mức đóng thấp, mức hưởng cao cũng như các chính sách xã hội 
khác như chính sách việc làm, nghỉ hưu. Theo một số dự báo, cân đối thu - 
chi BHXH được đảm bảo đến khoảng năm 2020, sau đó sẽ giảm dần và đến 
khoảng năm 2030 thì Quỹ BHXH sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất cân đối 
nếu không có điều chỉnh chính sách. 
 Về BH thất nghiệp (BHTN), do tính chất đặc thù, tổ chức triển khai 
cần phải bảo đảm khả năng điều phối giữa các hệ thống quản lý BHXH (thu 
phí và chi trả trợ cấp) và hệ thống quản lý việc làm (theo dõi, quản lý cũng 
như hỗ trợ người lao động). Các doanh nghiệp và người lao động hiện mới 
bước đầu tham gia và rất dễ xảy ra tình trạng lợi dụng trái quy định. Về mặt 
tài chính, BHTN cũng sẽ gặp nguy cơ mất cân đối quỹ như đối với các loại 
hình BHXH và BHYT. Nếu không thực hiện tốt cơ chế quản lý tài chính, Quỹ 
BHTN sẽ có thể lại rơi vào trạng thái bội chi lớn và tạo gánh nặng cho NSNN 
trong khi chưa thực sự phát huy vau trò vốn có của nó đối với việc tái tạo và 
phát triển nguồn nhân lực. 
Về các chính sách bảo trợ xã hội, trong thời gian vừa qua, nhu cầu chi 
ngân sách cho các đối tượng thuộc chính sách bảo trợ xã hội ngày càng tăng 
do sửa đổi, bổ sung đối tượng hưởng bảo trợ xã hội, điều chỉnh mức trợ cấp 
cho các đối tượng và hệ thống hoá các chính sách bảo trợ xã hội.8 Với tổng 
nhu cầu chi rất lớn, việc tăng cường thực hiện chính sách bảo trợ xã hội đã 
ngày càng gây sức ép đối với NSNN, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế xã hội 
khó khăn hiện nay. 
Thứ hai, yêu cầu bảo đảm ASXH cho người nghèo, nông dân và khu 
vực kinh tế phi chính thức. Mặc dù tình trạng nghèo ở Việt Nam đã được cải 
thiện đáng kể trong giai đoạn vừa qua (năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo còn khoảng 
10% theo chuẩn nghèo cũ và 15% theo chuẩn nghèo mới), nhưng tỷ lệ hộ 
nghèo ở khu vực nông thôn, vùng khó khăn vẫn còn cao, thậm chí một bộ 
phận có xu hướng nghèo hơn. Số người nghèo sống ở khu vực nông thôn 
chiếm khoảng 90% số người nghèo của cả nước. Trong điều kiện thực tế nước 
ta hiện nay, khoảng cách phát triển, đặc biệt là thu nhập giữa người giàu - 
người nghèo, nông thôn – thành thị ngày càng tăng cả về giá trị tuyệt đối và 
so sánh tương đối (xem Biểu 2 dưới đây). Mặc dù tỷ lệ tiết kiệm bình quân 
chung tăng đều và đạt khoảng 30% trong thời gian gần đây nhưng tỷ lệ tiết 
kiệm của nhóm dân số thứ nhất là âm 10-20% (thực chất là nhóm đi vay 
già vào khoảng nǎm 2014-2015 khi tỷ lệ người già là hơn 10%. Giai đoạn 2019-2029, tỷ lệ người 
già tiếp tục tǎng ở mức cao (5%/nǎm) và nǎm 2029 sẽ có 16,8 triệu người già (chiếm 17,8% dân 
số). 
8 Theo Nghị định số 67/2007/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ 
xã hội 
 8
ròng); trong khi tỷ lệ tiết kiệm của nhóm dân số thứ 5 tăng đến mức trên 40% 
(xem Biểu 3 dưới đây). Chênh lệch thu nhập và mức sống giữa người giàu và 
người nghèo, giữa nông thôn và thành thị hiện nay rất lớn và có xu hướng gia 
tăng. Đây là một trong những yếu tố gây tiềm ẩn bất ổn định kinh tế xã hội về 
lâu dài. Do vậy, việc bảo đảm ASXH cho người nghèo, nông dân, nông thôn 
và khu vực kinh tế phi chính thức ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong việc 
bảo đảm thực hiện quan điểm phát triển công bằng và bền vững. 
Theo một số đánh giá, người nghèo ở khu vực nông thôn, khu vực có 
hoàn cảnh khó khăn là đối tượng ít được hưởng lợi từ các chương trình phúc 
lợi xã hội, nhất là các dịch vụ giáo dục, y tế. Nghiên cứu về ASXH của 
UNDP (2007) cho thấy tỷ lệ được hưởng dịch vụ ASXH ở nhóm 20% người 
giàu nhất ở Việt Nam hiện nay cao gấp sáu lần nhóm 20% người nghèo nhất. 
Trong khi nhóm giàu nhất nhận được 45% hỗ trợ y tế và 35% hỗ trợ giáo dục 
thì nhóm nghèo chỉ nhận được tương ứng là 7% và 15%. Cơ hội tiếp cận các 
dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, văn hoá, đặc biệt là dịch vụ xã hội 
chất lượng cao, còn có sự khác biệt rất lớn giữa nông thôn và thành thị cũng 
như giữa khu vực chính thức và phi chính thức. 
Biểu 2: So sánh thu nhập bình quân đầu người 2002-2008 
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
2002 2004 2006 2008
Nhóm 1
Nhóm 5
Thành thị
Nông thôn
(Nguồn: Điều tra mức sống dân cư 2002 – 2008) 
 9
Biểu 3: Tỷ lệ tiết kiệm 2002-2008 
-30%
-20%
-10%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
2002 2004 2006 2008
Tỷ lệ tiết kiệm chung
Tỷ lệ tiết kiệm nhóm 1
Tỷ lệ tiết kiệm nhóm 5
(Nguồn: Điều tra mức sống dân cư 2002 – 2008) 
Khu vực kinh tế không chính thức thu hút một tỷ lệ khá lớn lực lượng 
lao động, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp và tạo thu nhập cho người dân. 
Tuy nhiên, đời sống của những người lao động trong khu vực này thường 
không ổn định, nhất là những người lao động cá thể. Năm 2007, tỷ lệ lao động 
ở khu vực phi chính thức tham gia BHXH bắt buộc chỉ đạt khoảng 15%, chủ 
yếu là trong lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn. Do vậy, Nhà nước cần 
quan tâm và có chính sách phù hợp để thực hiện cả hai mục tiêu giải quyết