Song song với sự phát triển chóng mặt của Internet và tăng
tốc độ xử lý của bộ định tuyến là sự phát triển mạnh trong lĩnh vực
chuyển mạch. Mạng số dịch vụ tích hợp băng rộng (B-ISDN) là
một kỹ thuật cho phép truyền thông thời gian thực giữa các thiết bị
truyền thông đầu cuối, sử dụng kỹ thuật ATM. ATM có thểmang
mọi dòng thông tin như thoại, dữ liệu, video; phân mảnh nó thành
các gói có kích thước cố định (gọi là cell), và sau đó truyền tải các
cell trên đường dẫn đã được thiết lập trước, gọi là kết nối ảo. Bởi
vì khả năng hỗ trợ truyền dữ liệu, thoại, và video với chất lượng
cao trên một số các công nghệ băng tần cao khác nhau, ATM từng
được xem như là công nghệ chuyển mạch hứa hẹn nhất và thu hút
nhiều sự quan tâm. Tuy nhiên, hiện nay cũng như trong tương lai
hệ thống toàn ATM sẽ không phải là sự lựa chọn phù hợp nữa.
7 trang |
Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 2274 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Công nghệ ATM, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 2: Công nghệ ATM
Song song với sự phát triển chóng mặt của Internet và tăng
tốc độ xử lý của bộ định tuyến là sự phát triển mạnh trong lĩnh vực
chuyển mạch. Mạng số dịch vụ tích hợp băng rộng (B-ISDN) là
một kỹ thuật cho phép truyền thông thời gian thực giữa các thiết bị
truyền thông đầu cuối, sử dụng kỹ thuật ATM. ATM có thể mang
mọi dòng thông tin như thoại, dữ liệu, video; phân mảnh nó thành
các gói có kích thước cố định (gọi là cell), và sau đó truyền tải các
cell trên đường dẫn đã được thiết lập trước, gọi là kết nối ảo. Bởi
vì khả năng hỗ trợ truyền dữ liệu, thoại, và video với chất lượng
cao trên một số các công nghệ băng tần cao khác nhau, ATM từng
được xem như là công nghệ chuyển mạch hứa hẹn nhất và thu hút
nhiều sự quan tâm. Tuy nhiên, hiện nay cũng như trong tương lai
hệ thống toàn ATM sẽ không phải là sự lựa chọn phù hợp nữa.
Song đối với các ứng dụng có thời gian kết nối ngắn, thì môi
trường hướng kết nối dường như lại không thích hợp do thời gian
để thiết lập kết nối cũng như tỷ lệ phần thông tin mào đầu lại quá
lớn. Với các loại lưu lượng như vậy thì môi truờng phi kết nối với
phương thức định tuyến đơn giản, tránh phải sử dụng các giao thức
báo hiệu phức tạp sẽ phù hợp hơn.
1.2.4 IP và ATM
So sánh giữa IP và ATM
ATM khác với kỹ thuật định tuyến IP ở nhiều điểm. ATM là
một kỹ thuật kết nối có hướng tức là hai hệ thống phải thiết lập
đường truyền trước khi diễn ra quá trình truyền dữ liệu. ATM yêu
cầu các kết nối được thiết lập bằng nhân công hay được thiết lập
động bởi các giao thức báo hiệu. Một điểm khác nhau nữa là ATM
không thực hiện định tuyến theo từng gói tại mỗi node trung gian
(cách mà IP thực hiện) mà đường dẫn ATM qua mạng giữa hai
thực thể phải được tính toán từ trước và cố định trong thời gian
liên lạc. Khi thiết lập kết nối, mỗi chuyển mạch ATM gán một giá
trị nhận dạng hay một nhãn cho chuyển mạch, kết nối và các cổng
ra/vào của chuyển mạch. Kỹ thuật này cho phép hệ thống dành
riêng tài nguyên cố định cho một đường kết nối cụ thể và mỗi
chuyển mạch ATM riêng cần thiết phải xây dựng một bảng chuyển
tiếp chỉ bao gồm các thực thể về các kết nối đang hoạt động qua
chuyển mạch. Ngược lại, với IP một bộ định tuyến phải sử dụng
một bảng định tuyến chứa tất cả các đích đến có thể caca, trong số
này có nhiều đường địa chỉ mà gói tin không bao giờ đi qua.
Quá trình chuyển tiếp một tế bào qua một chuyển mạch ATM
tương tự như quá trình chuyển tiếp một gói tin IP qua một bộ định
tuyến. Cả hai đều sử dụng thông tin trong tiêu đề gói (hay tế bào)
làm khoá tìm kiếm trong bảng định tuyến hoặc bảng chuyển tiếp để
tìm địa chỉ chặng tiếp theo cho gói tin. Tuy nhiên, tốc độ chuyển
tiếp tế bào ATM nhanh hơn tốc độ chuyển tiếp gói tin IP rất nhiều
lần bởi vì các bộ định tuyến IP sử dụng các giao thức định tuyến
được thực hiện trên cơ sở phần mềm và tiêu đề IP có độ dài thay
đổi và lớn hơn tiêu đề của tế bào ATM nhiều lần. Ngược lại tiêu đề
của tế bào ATM rất nhỏ và có độ dài cố định, bảng chuyển tiếp
chứa các kết nối ảo nhỏ hơn nhiều so với bảng định tuyến của IP
và việc chuyển tiếp được thực hiện đơn giản bằng cách “hoán đổi
nhãn”. Một đặc điểm quan trọng làm tăng tốc độ chuyển tiếp ATM
lên đáng kể là cơ chế chuyển tiếp của nó được thực hiện bằng phần
cứng, điều này cho phép thực hiện nhiệm vụ một cách đơn giản và
với tốc độ cực nhanh. Bảng sau so sánh các đặc điểm cơ bản giữa
IP và ATM.
Thuộc tính IP ATM
Hướng kết nối Không Có
Kích cỡ gói tin Thay đổi Không đổi (53B)
Hỗ trợ QoS Không Có
Quyết định chọn
đường
Theo từng gói tin Thiết lập kết nối trước
Trạng thái chuyển
tiếp
Tất cả mạng có thể Kết nối chuyển tiếp
tích cực nội bộ
Cơ sở chuyển tiếp Sự phù hợp dài nhất
của tiến tố địa chỉ mạng
Nhãn có chiều dài cố
định
Thực hiện báo hiệu Không Có
Giải pháp sử dụng mô hình xếp chồng
Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp viễn thông đã
và đang tìm một phương thức chuyển mạch có thể phối hợp ưu
điểm của IP (như cơ cấu định tuyến) và của ATM (như phưng thức
chuyển mạch). Mô hình IP-over-ATM (IP qua ATM) của IETF coi
IP như một lớp nằm trên lớp ATM và định nghĩa các mạng con IP
trên nền mạng ATM. Phương thức tiếp cận xếp chồng này cho
phép IP và ATM hoạt động với nhau mà không cần thay đổi giao
thức của chúng. Tuy nhiên cách này không tận dụng hết khả năng
của ATM. Ngoài ra cách này không thích hợp với mạng có nhiều
router và không hiệu quả trên một số mặt, chẳng hạn như có sự
chồng chéo về chức năng, quản lý mạng phức tạp. Tổ chức ATM-
Forum dựa trên mô hình này đã phát triển công nghệ LANE và
MPOA. Các công nghệ này sử dụng các máy chủ để chuyển đổi
địa chỉ nhưng đều không tận dụng được khả năng đảm bảo chất
lượng dịch vụ của ATM. Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn vấn đề này.
Từ sự so sánh IP và ATM trên ta thấy mỗi kỹ thuật đều có ưu
và nhược điểm riêng. Nhưng một điều chắc chắn là IP sẽ có mặt
trong tất cả các mạng trong tương lai bởi vì ưu điểm tuyệt vời nhất
của của IP đó là nó có thể chạy trên bất kỳ công nghệ lớp liên kết
dữ liệu nào, kể cả ATM. Do vậy, ATM được xem như là công
nghệ lớp 2 mạnh mẽ cho IP có thể triển khai trên đó. Khi việc này
thực hiện, lược đồ chuyển tiếp từng chặng, phi kết nối của IP
không bị thay đổi. Thực tế IP không có ý tưởng rằng, nó đang chạy
trên 1 mạng có khả năng dành trước tài nguyên và ràng buộc trễ.
Từ quan điểm ATM, một tập các giao thức đánh địa chỉ, định
tuyến và báo hiệu đã được phát triển cho ATM có thể hoạt động
mà không cần phải thay đổi.
Một câu hỏi đặt ra là: phải làm gì để kết hợp hai kỹ thuật này
với nhau? Và câu trả lời nằm ở vấn đề phân gỉải địa chỉ. Để liên lạc
với 1 trạm ngang cấp khác trong cùng một mạng con, một trạm IP
nguồn cần phân giải địa chỉ IP của trạm đích với địa chỉ lớp 2
tương ứng. Điều này cho phép trạm IP nguồn đánh địa chỉ cho các
gói tin với địa chỉ IP đích và sau đó đóng gói gói tin IP vào trong
một khung thông tin lớp 2 với địa chỉ đích lớp 2 tương ứng. Theo
kỹ thuật ATM, địa chỉ ATM đích chỉ được sử dụng khi chuyển tiếp
yêu cầu thiết lập SVC (kênh ảo báo hiệu) trước khi thiết lập kết nối.
Tuy nhiên, trạm IP nguồn vẫn cần phân gii địa chỉ địa chỉ IP đích
thành địa chỉ ATM để nó có thể khởi tạo một kết nối ATM SVC
đến đích. Quan điểm này được thể hiện như hình 1.1. Hình vẽ minh
hoạ một trạm IP nguồn được gắn vào mạng ATM, nó yêu cầu
server phân giải địa chỉ (ARS) phân giải địa chỉ ATM của trạm IP
đích. ARS gửi địa chỉ ATM của trạm IP đích cho trạm IP nguồn và
sau đó trạm IP thiết lập một SVC đến đích.
IETF lần đầu tiên đưa ra giải pháp kết hợp IP và ATM trong
RFC1577, Classical IP over ATM (CLIP). Trong RFC1577, một
Server phân giải địa chỉ ATM (ATMARP) được định nghĩa để duy
trì một bảng các địa chỉ IP và ATM. Sau đó ATM Forum tổng quát
hoá giải pháp này để phân giải địa chỉ MAC với địa chỉ ATM và
cũng bổ sung chức năng quảng bá. Mục đích là phát triển một hệ
thống cho phép các ứng dụng của mạng LAN có thể chạy trên mạng
ATM mà không cần bất cứ sự thay đổi nào. Nỗ lực của họ được đặt
Hình 1.1. Sử dụng Server phân giải địa chỉ cho mạng ATM
SVC
ATM Network
Server phân
giải địa chỉ
Yêu cầu
Trả lời
Nguồn Đích
tên là mô phỏng LAN (LANE), LANE được ứng dụng khá phổ biến
vì nó cho phép các ứng dụng LAN đa giao thức chạy một cách
trong suốt trên các LAN kế thừa và LANE. Cả hai giải pháp trên
đều tương tự nhau ở chỗ chúng tách hoàn toàn chức năng của LAN
và IP lớp mức cao khỏi lớp các dịch vụ nằm bên được hỗ trợ bởi
ATM.
Một điểm tương tự nữa giữa 2 giải pháp này đó là về phạm vi
của các kết nối ATM. CLIP chỉ hạn chế việc truyền thông ATM ở
giữa các Host (hoặc Router) trên cùng một mạng con IP logic
(LIS). Ngay cả khi 2 host ở trên các mạng con khác nhau được kết
nối cùng một mạng ATM, thì vẫn phải cần 1 router để chuyển tiếp
các gói. Điều này lại sinh ra các thông tin bổ sung và trễ do định
tuyến từng chăng. LANE cũng có sự hạn chế tương tự, trong đó 2
host trên cùng một mạng ATM nhưng ở khác mạng IP logic cũng
không thể giao tiếp trực tiếp bằng việc sử dụng các kết nối ATM
mà phải sử dụng bộ định tuyến để trao đổi thông tin.
Sự phát triển tiếp theo cho phép 2 host ở trên hai mạng khác
nhau có thể liên lạc ATM trực tiếp với nhau. Điều này yêu cầu sự
nới lỏng mô hình mạng nối tiếp đang tồn tại. Giải pháp này tiếp tục
hỗ trợ định tuyến từng chặng truyền thống nhưng cũng cung cấp
một phương tiện, theo đó thiết bị IP nguồn có thể thiết lập một kết
nối ATM trực tiếp tới thiết bị IP đích trên một mạng khác. Do đó,
mạng có thể cung cấp một đường dẫn với định tuyến từng chặng
thông thường cho các luồng lưu lượng dung lượng nhỏ, nỗ lực tối
đa và một đường dẫn chuyển mạch cho lưu lượng lớn, thời gian
truyền dài.
Kỹ thuật này được thực hiện lần đầu tiên ở giao thức phân
giải chặng kế tiếp (NHRP) do IETF đưa ra, sau đó nó được phối
hợp cùng với đa giao thức ATM trên ATM (MPOA) của ATM
forum. Cả hai giải pháp này đã mở rộng cơ chế Server phân giải
địa chỉ được sử dụng bởi CLIP và LANE để phân giải địa chỉ ở
biên mạng con. Bởi vậy xuất hiện một kiểu định tuyến hiệu năng
cao mới gọi là định tuyến đường tắt (cut through hay shortcut). Nó
bổ sung cho định tuyến IP một dịch vụ phân giải địa chỉ cùng với
các giao thức định tuyến và báo hiệu cần thiết để quản lý các SVC
động. Khái niêm định tuyến đường tắt được minh hoạ như hình
1.2.
Shortcut
SVC
Router
Query
Responsse
Data
Data
Data
Query
Responsse Router
LIS1 LIS3
LIS2
Nguồn Đích
Hình 1.2. Khái niệm định tuyến đường tắt