Công nghiệp hoá hiện đại hoá là một chủ trương lớn của Đảng, chính phủ 
nước ta hiện nay, đang thực sự trở thành vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà 
lãnh đạo, các nhà nghiên cứu, của mọi doanh nghiệp và của toàn xã hội.
ở nước ta vấn đề công nghiệp hoá nền kinh tế được đặt ra từ năm 1960 trong 
văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III. Nhưng sau đó chúng ta phải tập trung 
nhân, tài, vật lực cho việc hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân 
giải phóng miền nam thống nhất đất nước, chống chiến tranh phá hoại miền bắc của 
đế quốc mỹ, nên việc thực hiện chủ trương công nghiệp hoá chưa được bao nhiêu, 
mặt khác trong tổ chức chỉ đạo thực hiện công nghiệp hoá đã có những biểu hiện 
nôn nóng muốn đốt cháy giai đoạn, chưa xuất phát từ đặc điểm tình hình của nước 
ta là một nước nông nghiệp lạc hậu trên 90% dân số sống ở nông thôn.
Sau khi đất nước hoà bình thống nhất cùng đi lên CNXH, chủ trương công 
nghiệp hoá tiếp tục triển khai thực hiện được được thể hiện ở văn kiện đại hội IV, 
V, VI Đảng cộng sản Việt Nam. Đặc biệt văn kiện đại hội V, đại hội VI chỉ rõ: Tập 
trung sức phát triển nông nghiệp coi nông nghiệp là mật trận hàng đầu, đưa nông 
nghiệp một bước lên sản xuất lớn, chủ trương trên đánh dấu một giai đoạn mới quá 
trình công nghiệp hoá nước ta. Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học kỹ 
thuật phát triển nhanh chóng, quá trình công nghiệp hoá ở nước ta không những 
thực hiện nội dung của cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất chuyển lao động thủ 
công năng suất thấp thành lao động sử dụng máy móc có năng suất cao mà còn phải 
“đi tắt”, “đón đầu” ứng dụng những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa 
học công nghệ. Vì vậy văn kiện đại hội Đảng lần thứ VII đưa ra cụm từ công nghiệp 
hoá, hiên đại hoá, dến đại hội Đảng lần thứ VIII, lần thứ IX khẳng định nước ta 
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiên đại hoá đất nước.
Vì vậy cần làm rõ tính tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hoá, 
hiên đại hoá trong sự nghiệp xay dựng CNXH ở nước ta như thế nào cho đúng, và 
công nghiệp hoá, hiên đại hoá có vài trò vị trí như thế nào trong quá trình xây dựng 
CNXH ở nước ta. 
Đây là vấn đề cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Do đó sau khi được học 
tập một số bộ môn lý luận cơ bản của chủ nghĩa mác- Lênin: triết học, kinh tế chính 
trị, qua đọc nghiên cứu các tài liệu tham khảo em mạnh dạn viết tiểu luận: “tính tất 
yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiên đại hoá trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở 
Việt Nam”
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 31 trang
31 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2394 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là yêu cầu khách quan trong sự nghiệp xây dựng XHCN ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 LUẬN VĂN: 
Tính tất yếu của qúa trình công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự 
nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam 
A)Đặt vấn đề 
Công nghiệp hoá hiện đại hoá là một chủ trương lớn của Đảng, chính phủ 
nước ta hiện nay, đang thực sự trở thành vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà 
lãnh đạo, các nhà nghiên cứu, của mọi doanh nghiệp và của toàn xã hội. 
ở nước ta vấn đề công nghiệp hoá nền kinh tế được đặt ra từ năm 1960 trong 
văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III. Nhưng sau đó chúng ta phải tập trung 
nhân, tài, vật lực cho việc hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân 
giải phóng miền nam thống nhất đất nước, chống chiến tranh phá hoại miền bắc của 
đế quốc mỹ, nên việc thực hiện chủ trương công nghiệp hoá chưa được bao nhiêu, 
mặt khác trong tổ chức chỉ đạo thực hiện công nghiệp hoá đã có những biểu hiện 
nôn nóng muốn đốt cháy giai đoạn, chưa xuất phát từ đặc điểm tình hình của nước 
ta là một nước nông nghiệp lạc hậu trên 90% dân số sống ở nông thôn. 
Sau khi đất nước hoà bình thống nhất cùng đi lên CNXH, chủ trương công 
nghiệp hoá tiếp tục triển khai thực hiện được được thể hiện ở văn kiện đại hội IV, 
V, VI Đảng cộng sản Việt Nam. Đặc biệt văn kiện đại hội V, đại hội VI chỉ rõ: Tập 
trung sức phát triển nông nghiệp coi nông nghiệp là mật trận hàng đầu, đưa nông 
nghiệp một bước lên sản xuất lớn, chủ trương trên đánh dấu một giai đoạn mới quá 
trình công nghiệp hoá nước ta. Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học kỹ 
thuật phát triển nhanh chóng, quá trình công nghiệp hoá ở nước ta không những 
thực hiện nội dung của cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất chuyển lao động thủ 
công năng suất thấp thành lao động sử dụng máy móc có năng suất cao mà còn phải 
“đi tắt”, “đón đầu” ứng dụng những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa 
học công nghệ. Vì vậy văn kiện đại hội Đảng lần thứ VII đưa ra cụm từ công nghiệp 
hoá, hiên đại hoá, dến đại hội Đảng lần thứ VIII, lần thứ IX khẳng định nước ta 
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiên đại hoá đất nước. 
Vì vậy cần làm rõ tính tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hoá, 
hiên đại hoá trong sự nghiệp xay dựng CNXH ở nước ta như thế nào cho đúng, và 
công nghiệp hoá, hiên đại hoá có vài trò vị trí như thế nào trong quá trình xây dựng 
CNXH ở nước ta. 
Đây là vấn đề cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Do đó sau khi được học 
tập một số bộ môn lý luận cơ bản của chủ nghĩa mác- Lênin: triết học, kinh tế chính 
trị, qua đọc nghiên cứu các tài liệu tham khảo em mạnh dạn viết tiểu luận: “tính tất 
yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiên đại hoá trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở 
Việt Nam” 
B)Nội dung 
I.Đưa đất nước ta đi lên CNXH là sự lựa chọn duy nhất, đúng đắn của 
Đảng và nhân dân ta 
1.Cơ sở lý luận 
1.1.Khái niệm về chế độ XHCN 
Nội dung cơ bản của thời đại ngày nay là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên 
CNXH, là thời đại đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã 
hội trên phạm vi toàn thế giới. Lịch sử loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã 
hộ là: Công sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩ, XHCN. 
Nhưng cho đến nay, xã hội XHCN là mang tính ưu việt nhất, là giai đoạn thấp của 
hình thái kinh tế xã hội công sản chủ nghĩa, là xu hướng tất yếu của lịch sử. Vì vậy 
ta cần tìm hiểu về chế độ CNXH với những đặc trưng quan trọng của nó. 
CNXH là một chế độ xã hội được xây dựng trên cơ sở từng bước thiết lập 
chế độ sở hữu XHCN về tư liệu. Chế độ này thường xuyên được củng cố, hoàn 
thiện, bảo đảm luôn thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản 
xuất. Chủ nghĩa Mác– Lênin đã phác hoạ CNXH với những nét đặc trưng cơ bản 
sau: 
Xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về những tư liệu sản xuất chủ yếu và thiết 
lập chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất với hai hình thức cơ bản: sở hữu toàn 
dân và sở hữu tập thể 
Phát triển nền sản xuất xã hội với tốc độ ngày càng lớn trên cơ sở khoa học 
kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại, năng xuất lao động ngày càng cao để tạo ra 
ngày càng nhiều của cải cho xã hội đảm bảo thoả mãn ngày càng đầy đủ nhu cầu vật 
chất văn hoá cho nhân dân lao động, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội. 
Đảm boả cho mọi người có quyền bình đẳng trong lao động sáng tạo và được 
hưởng thụ lao động theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. 
Xoá bỏ tình trạng bất bình đẳng giữa các dân tộc. Củng cố tăng cường tình 
hữu nghị giữa các nước. 
Nhà nước XHCN ngày càng được củng cố, tăng cường và hoàn thiện nền 
dân chủ XHCN được xây dựng và không ngừng phát huy. 
Đảm bảo sự phát triển tự do toàn diện của con người là cho con người ngày 
càng phát huy đầy đủ tính tích cực sáng tạo của mình trong sự nghiệp xây dựng xã 
hội mới, lối sống mới. 
Hệ tư tưởng Mác– Lênin chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã 
hội, đời sống văn hoá tinh thần xã hội ngày càng phong phú 
Có sự xích lại gần nhau giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và 
lao động chân tay. Tính thống nhất của xã hội ngày càng cao. 
Với những đặc trưng đó, CNXH thực sự là hình thức kinh tế xã hội tiến bộ 
của nhân loại 
1.2.Tính tất yếu của cách mạng XHCN 
Quá độ lên CNXH là một tất yếu lịch sử. bởi vì CNXH – giai đoạn đầu của 
hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa không thể tự phát ra đời trong lòng xã 
hội cũ. Chủ nghĩa tư bản dù phát triển ở trình độ cao cũng chỉ tao ra tiền đề vật chất 
cho sự ra đời của CNXH, còn bản thân công cuộc xây dựng CNXH phải thông qua 
quá trình đấu tranh gian khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm 
giành lấy chính quyền Nhà nước và sử dụng bộ máy Nhà nước của mình để cải tạo 
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng. Lênin 
viết: “ cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH vì 
cải tổ sản xuất là việc khó khăn, vì cần phải có thời gian mới thực hiện được những 
thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của đời sống, và phải qua một cuộc đấu tranh 
quyết liệt, lâu dài mới có thể thắng được sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo 
kiểu tiểu tư sản và tư sản. bởi vậy Mác có nói đến cả một thời kỳ chuyên chính vô 
sản, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH” 
Sau khi dự báo chủ yếu vào sự bùng nổ hàng loại của cách mạng ở các nước 
tư bản phát triển, Các Mác và Ph.Ăng – ghen cũng đã bổ sung dự báo cách mạng 
XHCN từ hiện thực ở các nước mà chủ nghĩa tư bản mới ra đời, còn tồn tại những 
tàn tích nặng nề của chế độ phong kiến thời trung cổ. Hai ông cho rằng cách mạng 
có thể nổ ra ở những nước này trước khi nó nổ ra ở những nước tư bản phát triển. 
Theo hai ông, điều đó cũng giống như căn bệnh có thể bộc lộ ở tứ chi của cơ thể 
trước khi lan tới tim. 
Lênin căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử mới đã khẳng định: ở các nước tương đối 
kém phát triển, ở đó các quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa còn chiếm ưu thế cũng có 
khả năng quá độ lên CNXH khi có những điều kiện thích hợp. 
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật, sự thay thế hình thức kinh tế xã hội 
này bằng một hình thức kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn là một quy luật tất yếu. Tuy 
nhiên, muốn đạt được CNXH thì giai cấp công nhân phải thực hiện cuộc cách mạng 
XHCN. Cách mạng XHCN phát sinh từ nhu cầu giải quyết mâu thuẩn cơ bản trong 
xã hội tư bản, đó là giải phóng lực lượng sản xuất đã mang tính xã hội hoá cao ra 
khỏi sự kìm hãm của quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về 
tư liệu sản xuất.cách mạng XHCN là cuộc cách mạng toàn diện, triệt để và sâu sắc 
nhất trong lịch sử, đồng thời nó là cuộc cách mạng diễn ra gay go, phức tạp, lâu dài. 
Việc giành được chính quyền mới chỉ là thắng lợi bước đầu. Nhiệm vụ cơ bản, lâu 
dài là phải hoàn thiện các yếu tố của lực lương sản xuất và quan hệ sản xuất, tiến 
hành cải tạo xã hội cũ và xây dựng thành công CNXH. Hay nói cách khác, đó là quá 
trình quá độ lên CNXH. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng tất cả các dân tộc 
đèu đi lên XHCN là một tất yếu lịch sử và thực hiện cách mạng XHCN là con 
đường duy nhất để tiến tới xã hội XHCN. Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 do 
Lênin lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong nước đứng lền lật đổ 
chế độ Nga hoàng, khai sinh một hình thấi kinh tế xã hội mới – hình thái kinh tế xã 
hội XHCN đã biến lý luân thành hiện thực sinh động. Thắng lợi cả cuộc cách mạng 
đó đã mở ra thời đại mới, thời đại thắng lợi của một trật tự XHCN, thời đại thể hiện 
trong thực tiền những ước mơ, khát vọng chân chính của con ngưỡi là xoá bỏ mọi 
hình thức áp bức bóc lột giai cấp, dân tộc, xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu. Trong quá 
trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước XHCN đã đạt được nhiều 
thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực có giá trị sâu sắc. đó là việc xây dựng một kiểu 
xã hội và tình trạng áp bức bóc lột cơ bản được xoá bỏ. CNXH hiện thực đã từng 
cứu loài người thoát khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít, đã từng là chỗ dựa, là 
thành trì của cách mạng và hoà bình thế giới, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân, 
đi đầu trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu của thời đại. 
Nhưng do duy trì quá lâu một mô hình có nhiều điểm không phù hợp nên 
trong những thập kỷ gần đây, các nước XHCN đã không phát huy được mũi đột 
phá của cách mạng tháng 10 và những thành quả của nó, lâm vào khũng hoảng trầm 
trọng và tan rã ở một số nước. Các thế lực phản động đã lợi dụng những sai lầm, 
khó khăn của CNXH đẩy mạnh phản kích của CNXH, xuyên tạc nội dung tính chất 
của thời đại,...điều đó khẳng định mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và CNXH, giữa 
giai cấp tư sản và vô sản đang diễn ra rất gay gắt, thúc đẩy sự vận động của các dân 
tộc từng bước quá độ lên CNXH. 
Chủ nghĩa tư bản hiên nay đang còn có những tiền năng phát triển nhờ lợi 
dụng được những thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ... nhưng bản chất bóc lột 
của nó không hề thay đổi, do vậy nó không giải pháp cuối cùng của nhân loại. 
CNXH hiện thực dù đang gặp rất nhiều khó khăn và sự khủng hoảng với 
những tổn thât to lớn song nó không thể bị xoá bỏ vì nó là sự phát triển hợp quy luật 
biện chứng của lịch sử, do đó nó vẫn là tương lai của nhân loại, là mục tiêu tiến tới 
của tất cả các dân tộc. Tuy nhiên, CNXH cần phải được nhận thức lại là phải đổi 
mới và phát triển trên cơ sơ những nguyên lý, nền tảng của chủ nghĩa Mác– Lênin, 
chủ nghĩa cộng sản. 
2.Cơ sở thực tiễn 
2.1.Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản (CNXH) trong đấu tranh giải 
phóng dân tộc và xây dựng đất nước. 
Quá độ lên CNXH ở mỗi nước có những nét đặc thù do điều kiện lịch sử cụ 
thể của đất nước đó. Nhiệm vụ của các Đảng cộng sản và nhân dân mỗi nước là vận 
dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên 
CNXH vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể phù hợp với đặc điểm và truyền thống quý báu 
của nước mình, đồng thời tận dụng các ưu thế của thời đại để định ra mục tiêu tổng 
quát, phương hướng và bước đi thích hợp nhằm thực hiện thành công bước quá độđi 
lên CNXH. Lênin viết: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên CNXH, đó là điều không 
tránh khỏi, nhưng các dân tộc tiến tới CNXH không phải một cách hoàn toàn giống 
nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này, hay hình thức khác 
của chế độ dân chủ vào loại này, hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp 
độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo XHCN đối với các mặt khác nhau của đời 
sống xã hội .” 
Nước ta quá độ lên CNXH không qua chế độ từ bản chủ nghĩa là sự lựa chọn 
phù hợp với đặc điểm tình hình của đất nước và xu thế phát triển của thời đại. 
Việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản, từ cách mạng giải phóng dân 
tộc, tiến tới mục tiêu CNXH được quyết định Ngay từ Cương lĩnh đầu tiên, ngày 
Đảng ta mới thành lập, năm 1930. Điều đó dựa trên hai căn cứ chủ yếu là chỉ có 
CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động thoát khỏi áp bức bóc lột, bất công, 
đem lại cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân và cách mạng XHCN 
tháng 10 Nga năm 1917 thành công đã mở ra khả năng thực hiện cho những dân tộc 
lạc hậu tiến lên CNXH 
Lịch sử cũng đã chứng minh điều đó. Từ khi thực dân pháp xâm lược nước ta 
đến năm 1930, các phong troà cứu nước của dân ta theo ý thức phong kiến, tiểu tư 
sản, tư sản đều bị thất bại. Năm 1930 dcsvn ra đời đã lãnh đạo nhân dân ta từ thắng 
lợi này đến thắng lợi khác và đi đến thắng lợi hoàn toàn. Sự khảo nghiệm đó của 
lịch sử dân tộc đã khẳng định: muốn cứu nước và gpdân tộc thì chỉ có con đường 
cách mạngvs. Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, Đảng đã đòn kết được cả 
dân tộc, phát huy cao độ truyền thống dân tộc bất khuất, lãnh đạo nhân dân ta ròng 
rã suốt gần nữa thế kỷ đấu tranh giành độc lập thống nhất tổ quốc. 
Ngay trong cương lĩnh đầu tiên, Đảng ta đã chỉ rõ cách mạng Việt Nam phải 
trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN bỏ qua chế 
độ TBCN. Sau khi hoàn thành cơ bản nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân 
dân do Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến lên xã hội. Như vậy, chính ngọn cờ độc 
lập dân tộc và CNXH đã động viên được sức mạnh của cả dân tộc, tranh thủ được 
sự đồng tình giúp đỡ của quốc tế nhất là các nước CNXH. Như vậy sự lựa chọn con 
đường quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN là phù hợp với ý chí, nguyện 
vọng của nhân dân, phù hợp với chiều hướng phát triển của lịch sử. 
Cách mạng nước ta do Đảng cộng sản Việt nam lãnh đạo. Đảng có cơ sở xã 
hội vững chắc trong nhân dân. đây là nhân tố bên trong quyết định con đường đi lên 
CNXH ở nước ta. Đồng thời, các thế lực phản động tay sai cho đế quốc, thực dân ở 
nước ta vừa non kém về tổ chức, vừa không có chỗ đứng trong nhân dân. Do đó, 
nhân dân ta quyết định không đi theo con đường phản dân hại nước của chúng: 
Theo Lênin. Một nước có thể có hai kiểu quá độ lên CNXH là: 
Một là quá độ từ cntb lên CNXH. Loại này phản ánh quy luật phát triển tuần 
tự của xã hội loài người 
Hai là quá độ từ các hình thái kinh tế xã hội trước cntb lên CNXH. Loại này 
phản ánh quy luật phát trỉen nhảy vọt của xã hội loài người. 
Đồng thời, Lênin cũng chỉ ra bản chất giai cấp, nội dung và các điều kiện của 
quá độ tiến lên tới CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.Theo Lênin, một nước 
lạc hậu có thể tiến thẳng lên CNXH khi có hai điều kiện sau: 
Điều kiện bên ngoài của sự phát triển này là phải có một nước giành dược 
thắng lợi trong cuộc cách mạng vô sản, tiến lên xây dựng CNXH. Công cuộc xây 
dựng thành công chủ nghĩa ở các nước này là tấm gương và tạo điều kiện để giúp 
đỡ các nước lạc hậu tiến lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Thực tế sự 
hình thành XHCN ở Liên Xô đã tạo điều kiện giúp cho quá trình đi lên CNXH ở 
nước ta rất nhiều, đặc biệt là những kinh nghiệm quý giá trong quá trình hình thành 
và phát triển CNXH ở Liên Xô. Tuy CNXH hiện nay đã sụp đổ ở Liên Xô, nhưng 
những bài học kinh nghiệm đó sẽ giúp chúng ta xác định được phương hướng đúng 
đắn trong thời kỳ quá độ. 
Điều kiện bên trong của sự quá độ tiến thẳng lên CNXH là phải hình thành 
được các tổ chức Đảng cách mạng và cộng sản, phải giành được chính quyền về tay 
mình, xây dựng được tổ chức nhà nước mà bản chất là xô viết nông dân và xô viết 
những người lao động. điều này thì chúng ta đã thực hiện được và ngày càng hoàn 
thiện tổ chức Đảng và nhà nước. 
Như vậy, điều kiện lịch sử và những tiền đề nói trên khẳng định đi lên 
CNXH ở nước ta là một tất yếu lịch sử, là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn. Tuy 
nhiên, muốn cho CNXH trở thành hiện thực, chúng ta còn phải trải qua nhiều gian 
lao thử thách 
2.2.Sự lựa chọn con đường CNXH trong giai đoạn hiện nay. 
Hiểu rõ tính tất yếu của sự quá độ lên CNXH ở nước ta, Đảng và nhân dân ta 
kiên trì với mục tiêu CNXH. Đây là vấn đề rất quan trọng trong tình hình lịch sử 
hiện nay và cả trong tương lai. Sự kiên trì đó có cở sở là sự giác ngộ trước đây của 
nhân dân ta về những CNXH. Gần đây đường lối đổi mới của Đảng đã đi vào cuộc 
sống, đem lại những thắng lợi bước đầu rát quan trọng. Điều đó giúp cho chúng ta 
vững tin vào con đường CNXH đã lựa chọn. 
Tuy nhiên, hiện nay xuất hiện một số nguy cơ đối với con đường đi lên 
CNXH ở nước ta. 
Trước hết, là cuộc khủng hoảng rất nghiêm trọng của các nước XHCN, đặc 
biệt là sự sụp đổ của chế độ CNXH ở một số nước đã tác động lớn đến tâm tư, tình 
cảm, nhận thức của con người về CNXH, Sự tan rã nhanh chóng của nhiều nước 
XHCN làm cho một số người dao động, mất đi lòng tin vào CNXH đã được xây 
dựng nf năm. 
Hai là, nhiều người chỉ thấy được thành tựu mà không thấy cuộc khủng 
hoảng kinh tế xã hội mà không thấy được những mâu thuẫn sâu sắc bên trong. 
 Ba là, bản thân nước ta ũng lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Qua 
đổi mới, những thành tựu đã đạt được có tác dụng củng cố lòng tin của nhiều người 
vào CNXH. Nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi khó khăn tệ nạn xã hội còn phổ 
biến và nghiêm trọng. Bốn là, các thế lực phản động vẫn luôn tìm mọi các chống 
phá ta về mọi mặt và bằng mọi âm mưu, thủ đoạn. Do đó, việc nhận thức rõ tính cất 
yếu của CNXH để kiên trì với con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn là rất 
quan trọng. 
Trong tình hình còn nhiều khó khăn, chúng ta vẫn nhận thấy việc đưa nước 
ta đi lên CNXH là lựa chọn đúng đắn và duy nhất. Bởi vì các nguyên nhân sau: 
Nhân dân lao động nước ta đã từng chiến đấu hy sinh không chỉ nhằm được 
độc lập dân tộc, mà còn vì mục đích xây dựng cuộc sống ấm lo, tự do bình đẳng và 
hạnh phúc. Những yêu cầu đó chỉ có CNXH mới đáp ứng được. 
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta lấy chủ nghĩa mác – Lênin làm 
nền tảng tư tưởng và phấn đấu vì lý tưởng XHCN, cộng sản chủ nghĩa. Kho giành 
được chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, tất nhiên là phải cải tạo, đưa đất nước 
tiến lên XHCN . 
XHCN đã từng trở thành hiện thực ở một số nước và đã từng đạt được những 
thành tựu vô cùng to lớn. Đó là sự thể hiện cụ thể phương hướng phát triển của xã 
hội loài người. 
Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh quy luật đã thành chân 
lý là độc lập dân tộc gắn liền với XHCN. 
Mặt khác, chúng ta cũng có những điều kiện nhất định để xây dựng thành 
công XHCN. Trong khi XHCN sụp đổ ở những nước khác, thì Đảng ta đã xây dựng 
được đường lối đổi mới đúng đắn, xây dựng được trên những nét chủ yếu quan 
niệm về xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng được trên những nét chủ yếu quan 
niệm về xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng và con đường xây dựng XHCN. 
Với quá trình đổi mới, Đảng ta đã từng bước tìm được bước khắc phục khủng hoảng 
kinh tế xã hội. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, Đảng viên, cốt cán của ta vẫn trung 
thành với sự nghiệp cách mạng, vẫn là một tập thể đoàn kết, vững vàng về chính trị, 
có khả năng lãnh đạo đất nước, đối phó với những khó khăn, thử thách. 
Nói tóm lại, để đi lên xã hộ chủ nghĩa là lựa chọn duy nhất đúng đắn của 
Đảng và nhân dân ta. 
3.Đặc điểm nước ta đi lên XHCN 
3.1 Nhận xét chung tình hình: 
Xuất phát từ thực trạng nền kinh tế nước ta từ trước chúng ta thấy rằng khó 
khăn lớn nhất là nước ta nghèo và kém phát triển, thu nhập bình quân đầu ngươi còn 
thuộc vào diện thấp nhất trên thế giới. hơn nữa trong sản xuất còn chưa cần kiệm 
cũng như chưa tiết kiệm trong tiêu dùng và dồn vốn lớn cho đầu tư phát triển trong 
khi ngân sách còn eo hẹp. Tình trạng tiêu xài lãng phí của công còn chưa được ngăn 
chặn và xử lý thích đáng. Bên cạnh đó, trong bộ máy Nhà nước, tổ chức Đảng và 
đoàn thể còn tồn tại nhiều tiêu cực. Hệ thống lập pháp và hành pháp còn chưa 
nghiêm, pháp luật còn chưa chặt chẽ để nhiều chỗ hở khiến cho kẻ xấu lợi dụng làm 
thiệt hại không ít tiền của. Một khó khăn khó có thể tránh khỏi trong cơ chế thị 
trường, đó là nạn thất nghiệp gia tăng, phân cách giàu nghèo ngày càng lớn. Việc 
lãnh đạo, xây dựng quan hệ sản xuất còn nhiều lúng túng và vướng mắc. Quản lý 
nhà nước về kinh tế – xã hội còn yếu. Cơ cấu cán bộ còn nhiều nhược điểm như đội 
ngũ cán bộ có năng lực và trình độ lãnh đạo còn kém, không phù hợp với cơ chế 
mới: Bộ máy chính quyền còn chậm chạp trong tổ chức quản lý điều hành, thủ tục 
hành c