Minamata là tên của một thành phố thơ mộng, xinh đẹp thuộc tỉnh Kumamoto
(Nhật Bản). Nhưng Minamata còn là tên gọi một căn bệnh đã từng gây nỗi kinh hoàng
cho biết bao người Nhật. Năm 1956 và năm 1968, người ta phát hiện ra những người
mắc bệnh ở Minamata với biểu hiện chân tay bị liệt hoặc run lẩy bẩy, tai điếc, mắt mờ,
nói lắp bắp. Nhiều bệnh nhân đã bị điên, bất tỉnh và chết sau một tháng mắc bệnh. Có
nhiều người bị mắc bệnh Minamata kinh niên, hoặc bẩm sinh. Họ sinh ra bị tàn tật vì
người mẹ khi mang thai đã ăn cá bị nhiễm độc ở vùng vịnh.
[
29 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 3943 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá rủi ro môi trường và sức khỏe nước thải chứa metyl thủy ngân tại vịnh minamata - Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA MÔI TRƯỜNG
BÀI TIỂU LUẬN :
ĐÁNH GIÁ RỦI RO MÔI TRƯỜNG VÀ SỨC KHỎE
NƯỚC THẢI CHỨA METYL THỦY NGÂN
TẠI VỊNH MINAMATA-NHẬT BẢN
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Danh Sách Nhóm :
Nguyễn Văn Anh
Cao Thị Thu Duyên
Trần Thị Kim
Dương Văn Lăng
Hoàng Thị Hà My
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
MỤC LỤC
Chương I. Tổng quan
1.1. Giới thiệu về vùng nghiên cứu…………………………………Tr. 7
1.2. Quá trình hoạt động của nhà máy Chisso…………………….Tr. 8
1.3. Tác động của hoạt động xả thải của nhà máy Chisso lên người dân ở
Minamata………………………………………………………….Tr. 9
Chương II. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu………………………………………………….. ….Tr.11
2.2. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………Tr.11
2.2.1. Phương pháp xây dựng mô hình rủi ro cho vùng nghiên cứu................Tr. 12
2.2.4.1. Nhận diện mối nguy hại………………………………………………..Tr.13
2.2.4.2. Ước lượng mối nguy hại……………………………………………….Tr.14
2.2.4.3. Đánh giá phơi nhiễm…………………………………………………..Tr. 15
2.2.4.4. Đặc tính của rủi ro…………………………………………………….Tr.18
2.2.4.5. Quản lý rủi ro………………………………………………………….Tr.21
2.3. Methyl thủy ngân …………………………………………………………Tr.22
Chương III. Kết quả và phân tích
3.1. Liều lượng vào cơ thể của Methyl thủy ngân qua đường tiêu hóa……Tr.25
3.2. Đánh giá rủi ro của Methyl thủy ngân………………………………….tr. 27
Chương IV. Kết luận và kiến nghị
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
i. Đặt vấn đề
Minamata là tên của một thành phố thơ mộng, xinh đẹp thuộc tỉnh Kumamoto
(Nhật Bản). Nhưng Minamata còn là tên gọi một căn bệnh đã từng gây nỗi kinh hoàng
cho biết bao người Nhật. Năm 1956 và năm 1968, người ta phát hiện ra những người
mắc bệnh ở Minamata với biểu hiện chân tay bị liệt hoặc run lẩy bẩy, tai điếc, mắt mờ,
nói lắp bắp... Nhiều bệnh nhân đã bị điên, bất tỉnh và chết sau một tháng mắc bệnh. Có
nhiều người bị mắc bệnh Minamata kinh niên, hoặc bẩm sinh. Họ sinh ra bị tàn tật vì
người mẹ khi mang thai đã ăn cá bị nhiễm độc ở vùng vịnh....[2]
Hình 1: Nhà máy Chisso
Vì sao lại như vậy? Mãi đến năm 1968, Chính phủ Nhật Bản mới chính thức
tuyên bố: căn bệnh này do Công ty Chisso gây ra vì đã làm ô nhiễm môi trường. Các
nhà máy hóa chất của Công ty này đã thải ra quá nhiều lượng thủy ngân hữu cơ độc hại
làm cho cá bị nhiễm độc. Khi ăn cá, thủy ngân hữu cơ xâm nhâp vào cơ thể con người,
chúng sẽ tấn công vào cơ quan thần kinh trung ương, gây nên căn bệnh mà các nhà y
học gọi là bệnh Minamata. Tổ chức cứu trợ Nhật Bản cho biết, đến nay có gần 13.000
người mắc bệnh Minamata, có hơn 2.000 người bị chết. Năm1965, bệnh Minamata còn
bùng phát dọc theo con sông Agano thuộc tỉnh Nigata, do công ty Showa Denko thải
thủy ngân xuống lòng sông. Ngoài bệnh Minamata, các nhà nghiên cứu về kinh tế-môi
trường của Nhật đã không ngần ngại khi đưa ra bản danh sách các căn bệnh, các vụ
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
nhiễm độc như bệnh itai-itai ở tỉnh Toyama, nhiễm độc catmi, nhiễm độc đồng.... do các
nhà máy thải chất thải nguy hại ra môi trường trong suốt mấy chục năm phát triển công
nghiệp.[1]
Ở Việt Nam từ năm 1996 đến năm 1998, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch
tổng thể phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng cơ sở 1996 – 2010, và mới đây, ngày
14/3/2008, Thủ tướng Chính phủ lại ký Nghị định Quy định về khu công nghiệp, khu
chế xuất và khu kinh tế. Tính đến cuối năm 2007, cả nước có gần 190 khu công nghiệp
(KCN) với tổng diện tích 44.000 ha, trong đó có hơn 110 KCN đã đi vào hoạt động. Các
KCN đã thu hút hơn 3.000 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn gần 30 tỉ USD. Ngoài
ra còn có 3.000 dự án trong nước với tổng vốn gần 200 ngàn tỉ đồng, giải quyết việc
làm cho hơn 3 triệu lao động. Các KCN đã tạo ra một bộ mặt mới cho công nghiệp Việt
Nam. Các KCN được phân bố ở 54 tỉnh, thành phố, chủ yếu ở các vùng Đông Nam bộ,
đồng bằng sông Hồng và ven biển miền Trung, làm cho đường giao thông, cảng sông,
cảng biển, thông tin liên lạc và các kết cấu hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ... phát triển. Đội
ngũ công nhân kỹ thuật có tác phong công nghiệp có trình độ quản lý được hình thành.
Trong những năm qua, nhiều thương hiệu của các doanh nghiệp trong KCN đã xuất hiện
và có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.
Có thể nói, thành tựu của KCN đã đánh dấu một mốc son trong phát triển kinh tế
nước ta thời hội nhập. Tuy nhiên, nó cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết mà trước
hết là ô nhiễm môi trường. Do KCN thường bám sát quốc lộ, gần khu vực dân cư, cộng
với việc một số doanh nghiệp nhập khẩu các thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu, nguyên liệu
kém chất lượng, đã làm cho môi trường càng thêm ô nhiễm. Trong số 154 KCN đang
hoạt động trên toàn quốc chỉ có 39 KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung (chiếm
25%), chính vì hệ thống nước thải ở các KCN chưa được xây dựng đồng bộ, nên lượng
nước thải công nghiệp mỗi ngày thải ra môi trường khoảng 500.000-700.000 m3 hầu hết
chưa được xử lý đã làm ô nhiễm môi trường nước. Tình trạng ô nhiễm trên một số con
sông như sông Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu, sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Thị
Vải... đã đến mức báo động. Đó là chưa kể, các KCN khi xây dựng thiếu biện pháp bảo
vệ môi trường, làm ô nhiễm môi trường không khí và khi sản xuất, các chất thải rắn
không có chỗ chôn lấp, cũng như không có hệ thống xử lý, làm cho môi trường càng ô
nhiễm. Hiện nay, chất thải công nghiệp mỗi năm lên tới hơn 2,9 triệu tấn, trong đó các
KCN là 1,2 triệu tấn và khối lượng chất thải nguy hại chiếm 175.000 tấn, nhưng lượng
thu gom, xử lý không được 50%. Nếu kể cả lượng rác sinh hoạt, trong 20 năm qua còn
tồn đọng 70 triệu tấn, trong khi cả nước hiện có 850 bãi chôn lấp rác thải đang vận
hành, nhưng chỉ có 8 bãi là hợp vệ sinh. Các KCN làm ô nhiễm môi trường đã gây
nhiều tác hại đến sức khỏe con người. Ngân hàng thế giới đã đưa con số: Mỗi năm ở
Việt Nam thiệt hại 780 triệu USD trong các lĩnh vực sức khỏe cộng đồng vì ô nhiễm
môi trường. Không phải ngẫu nhiên mà nhân 50 năm ngày phát hiện ra bệnh Minamata,
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Hội đồng Môi trường Nhật Bản đã tổ chức một diễn đàn quốc tế về ô nhiễm môi trường
ảnh hưởng đến sức khỏe ở thành phố Kumamoto với chủ đề "Bài học gì từ 50 năm phát
hiện ra bệnh Minamata?". 300 đại biểu đến từ 141 vùng lãnh thổ của 12 quốc gia, trong
đó có Việt Nam đã rút ra bài học cho mình là, không vì tăng trưởng kinh tế mà bỏ qua
nguy cơ ô nhiễm môi trường tiềm ẩn gây hậu họa lâu dài cho đất nước và con người.
Đánh giá rủi ro nhà máy Chisso có ý nghĩa to lớn trong công cuộc hiện đại hóa hiện
nay, đó là bài học trước mắt cho các nước đang thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay.
ii. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu trong mô hình HRA. Chương I cho ta cách nhìn tổng quan về nhà
máy Chisso, về điều kiện tự nhiên và xã hội của vùng nghiên cứu, chương II giới thiệu
phương pháp nghiên cứu nhằm tính được mức rủi ro từ chất thải của nhà máy, con
đường phơi nhiểm của Methyl thủy , đánh giá độc tính một cách định lượng . Cuối cùng
là chương III: kết quả và kiến nghị.
iii. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài bằng phương pháp:
Thu thập tài liệu từ bài báo khoa học, các nghiên cứu.
Kế thừa từ các tài tiệu
Dùng mô hình HRA
Ứng dụng phương pháp thống kê
iv. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài ở hai tỉnh Kumamoto và Kagoshima thuộc Nhật Bản, trọng tâm
nghiên cứu tại huyện Minamata thuộc tỉnh Kumamoto.
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Chương I. TỔNG QUAN
1.4. Giới thiệu về vùng nghiên cứu
Minamata là một thị trấn nhỏ do Tổng công ty Chisso thống trị. Thị xã nằm sát
với biển Shiranui, và vịnh Minamata
một phần của biển này. Trong tiếng Nhật, "Chisso" có nghĩa là nitơ.
Tổng công ty Chisso đã từng là một công ty phân bón và carbicle, và
dần dần tiến đến một công ty hóa dầu và sản xuất nhựa.
Từ 1932-1968, Tổng công ty Chisso, một công ty đặt tại
Kumamoto Nhật Bản, thải bỏ ước tính hơn 27 tấn các hợp chất thủy ngân
vào vịnh Minamata. Kumamoto là một thị trấn nhỏ cách phía Tây Nam Tokyo khoảng
570 dặm. Thị xã gồm chủ yếu là nông dân và
ngư dân. Khi Tổng công ty Chisso đổ bỏ số lượng lớn
thủy ngân vào vịnh, hàng ngàn người có chế độ ăn uống bình thường
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
bao gồm cá từ vịnh, bất ngờ phát triển các triệu chứng của
methyl thủy ngân độc. Bệnh này được gọi là
"Dịch bệnh Minamata". Các ngộ độc thủy ngân là kết quả của năm
phá hủy môi trường và sự cẩu thả từ Tổng công ty Chisso.Năm 1907 người sáng lập
của tổng công ty Chisso
đã thuyết phục được người dân của Minamata để xây dựng một nhà máy ở thị trấn của
họ, đó là sự hy vọng được hưởng lợi
từ sự giàu có của công nghiệp hóa.
1.5. Quá trình hoạt động của nhà máy Chisso
Tổng công ty Chisso bắt đầu phát triển
các sản phẩm nhựa, thuốc, và nước hoa
thông qua việc sử dụng các hóa chất được gọi
là acetaldehyde vào năm 1932.
Acetaldehyd được sản xuất bằng cách sử
dụng như là một hợp chất thủy ngân, và là
chìa Công ty được
xem là một thành công kinh tế ở Nhật Bản,
đặc biệt bởi vì nó
là một trong những ngành công nghiệp duy trì
phát triển mặc dù Nhật. Doanh số bán hàng
tăng cường với sự thành công kinh tế của
Nhật Bản.
Giữa năm 1956 và đầu những năm
1970 các cụm công nghiệp chiếm 68% diện
tích đất của thành phố và tiêu thụ 93% nguồn cung cấp nước của nó. Chisso doanh
nghiệp liên quan chiếm 30% doanh thu bán lẻ, sử dụng 19% lực lượng lao động và hạ
66% của tất cả các hoạt động vận chuyển.
Ngoài ra, doanh số bán hàng của Tổng công ty Chisso tăng lên đáng kể,
xem xét cho thấy Chisso đã sản xuất được duy nhất một chất hóa học chính
gọi là D.O.P, một chất làm dẻo (diotyl phthalate). Có một độc quyền
về hóa chất kích hoạt, Chisso đã mở rộng nhanh chóng. Kể từ khi Tổng công ty Chisso
được thành lập thì sự tăng trưởng của thị trấn cũng được tiến hành song song. Tổng
công ty Chisso cuối cùng cũng đã dừng lại sản xuất acetaldehyde năm 1968, khi một
công nghệ thay thế cho chất dẻo đã được phát triển.Trong quá trinh hoạt động của mình,
tổng công ty Chisso đã xả thẳng chất thải độc hại ra biển.
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
1.6. Tác động của hoạt động xả thải của nhà máy Chisso lên người dân ở
Minamata
Minamata đã được biết đến như là một thị trấn đánh cá,
và các đại dương chính tài nguyên môi trường của họ. Khi
nước bị ô nhiễm, họ không còn có thể phụ thuộc vào điều này như một
nguồn lực khả thi, và không có cách nào khác để kiếm sống.
Độc tố do metyl thủy ngân gây nên trong nước thải của tổng công ty Chisso là rất
cao, và theo chuỗi thức ăn, độc tố đó ngày càng được tích tụ. Đầu tiên là cá, chim, mèo ,
rồi tới người. Dấu hiệu ở người đó là tê chân tay và môi. Đồng thời, tầm nhìn bị hạn
chế, một số người bị tổn thương não nghiêm trọng, hoặc bất tỉnh. Ở động vật, mèo
thường “tự tử” một cách vô lý, và chim lạ cũng chết, rơi từ trên trời xuống. Đặc biệt,
độc tố này đã gây ra rất nhiều thảm cảnh đáng thương cho người dân Minamata, và để
lại di chứng rất nặng nề ở nhiều thế hệ.
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Hình ảnh tang thương từ Minamata
Đến cuối năm 1956, các nhà nghiên cứu dịch tễ học và y tế xác định các bệnh như
nhiễm độc kim loại nặng gây ra do ăn cá và đồ biển của vịnh Minamata.
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Chương II. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu về ô nhiễm methyl thủy ngân ở Minamata bằng phương pháp thống kê số
liệu và dựa trên mô hình HRA để có cở sở đánh giá rủi ro cho vùng nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
2.2.1. Phương pháp xây dựng mô hình rủi ro cho vùng nghiên cứu[7
Mô hình HRA
1. Nhận biết mối nguy hại:
Thu thập dữ liệu và định lượng:
- Tập hợp và phân tích dữ liệu theo từng
vấn đề.
- Xác định sự ô nhiễm tiềm tàng dựa trên:
+ Đặc tính độc hại
+ Số lượng hiện diện tại nơi xem xét
+ Đường dẫn và các con đường phơi
nhiễm
+ Các chỉ thị hóa học
4. Đặc tính rủi ro:
Đánh giá khả năng gây nguy hại sức khỏe con
người dựa trên:
- Rủi ro ung thư
- Rủi ro không gây ung thư
3. Đánh giá độc tính:
- Nhận diện tất cả các định tính và định
lượng đôc chất sơ lược qua các chỉ thị
hóa học.
- Định lượng nguy hại của sự phơi
nhiễm
- Nhận diện các nguồn không chắc chắn
- Định lượng mức độ độc hại qua các
bằng chứng rõ rang
- Xác định giá trị độc tính rõ rang với
các chỉ thị hóa học
2. Đánh giá phơi nhiễm:
- Phân tích các tuyến phát thải
- Nhận dạng và mô tả đặc điểm
người nhận dạng có khả năng
- Xác định sự di chuyển và các con
đường phơi nhiễm
- Đánh giá mức độ phơi nhiễm sau
này cho các tuyến phơi nhiễm đáng
chú ý
- Tính toán liều lượng ô nhiễm cho
tất cả các đường dẫn
Mô tả rủi ro:
- Định lượng không chắc chắn
- Tổng kết các thông tin rủi ro
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Hình: Các tuyến phơi nhiễm
2.2.4.1. Nhận diện mối nguy hại
Nhận biết mối nguy hại là bước đầu tiên trong HRA, các chất độc gây ô nhiễm
môi trường có liên quan rất mật thiết tới những vấn đề sức khỏe do chúng gây ra hoặc
ảnh hưởng tới nhiều người. Nhận biết mối nguy hại và các vấn đề sức khỏe có thể bao
gồm ung thư, sự kích thích, những vấn đề về thần kinh và các khuyết tật bẩm sinh…
Một số vấn đề sức khỏe xuất hiện rất sớm sau khi một người phơi nhiễm với một
chất độc gây ô nhiễm môi trường. Những tác dụng trực tiếp này có thể phụ, như đôi mắt
sủng nước. Hay chúng có thể nghiểm trọng như gây hư hại phổi đe dọa cuộc sống.
Những vấn đề sức khỏe khác có thể không xuất hiện sau nhiều tháng hay nhhiều
năm sau lần phơi nhiễm đầu tiên của người tới chất độc gây ô nhiễm môi trường. Ung
thư là một ví dụ điển hình.
Sự xác thực của những bằng chứng về vấn đề sức khỏe liên quan, trong việc
nhận diện các mối nguy hại các nhà khoa học ước lượng tất cả các thông tin về những
Các loại phơi nhiễm
Qua đường
hô hấp
Qua da Qua đường
ăn uống
Chất
bẩn lơ
lửng
Dòng
khí vô
cơ
Hóa
chất
hữu cơ
bay hơi
Phơi
nhiễm
đất
Sử dụng
nước gia
đình
Sử dụng
nước, giải
trí,vui
chơi
Đất và
cặn bã
Thực phẩm từ
động vật
Nước
uống
Thực phẩm
Dưới nước
Hoa
màu
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
ảnh hưởng của chất độc gây ô nhiễm môi trường để đánh giá một cách đúng đắn những
tác động của hóa chất lên con người. Một bằng chứng tốt hơn, một số nhà khoa học cho
rằng các chất độc gây ô nhiễm môi trường gây ra những vấn đề đặc biệt về sức khỏe. Số
lượng, kiểu và chất lượng của các bằng chứng đều quan trọng.
Loại bằng chứng tốt nhất được thu thập từ các nghiên cứu trên con người. Bằng chứng
này có thể dưới dạng báo cáo từ trường hợp cụ thể như là những báo cáo của của những
thầy thuốc về những con số bất thường của số lượng các trường hợp sử dụng thuốc đặc
trị. Một số các dạng nghiên cứu khác có thể thực hiện là so sánh số lượng các trường
hợp đặc biệt trong một nhóm người với những mức phơi nhiễm khác nhau ( ví dụ như
số lượng người bị bệnh bạch cầu trong các công nhân sản xuất cao su).
Bởi vì những thông tin về các chất độc gây ô nhiễm môi trường còn hạn chế, các nhà
khoa học thường tiến hành các thí nghiệm trên các động vật trong phòng thí nghiệm như
là chuột. Các nghiên cứu trên động vật thường được tiến hành trong điều kiện được
kiểm soát của phòng thí nghiệm. Các nhà khoa học sẽ hiểu được những ảnh hưởng rất
đa dạng đối với sức khỏe bằng cách cho động vật phơi nhiễm với các chất ô nhiễm với
sự tập trung và thời gian có tính biến đổi.
Khi chỉ dựa vào các nghiên cứu trên động vật, các nhà khoa học cần phải chấp nhận
rằng các ảnh hưởng đối với sức khỏe của động vật cũng sẽ xảy ra đối với con người.
Các nhà khoa học luôn cố gắng sử dụng các loài động vật có cấu trúc cơ thể giống với
người nhất.
2.2.4.2. Ước lượng mối nguy hại
Đánh giá phơi nhiễm là một đánh giá phơi nhiễm ước lượng có bao nhiêu chất ô nhiễm
con người hít vào trong suốt khoảng thời gian đặc biệt, cũng tốt như có bao nhiêu người
đã phơi nhiễm. Bước này bao gồm cả các bước tiếp xúc hay phơi nhiễm chính trong
HRA.
Có nhiều nguồn phát thải chất độc gây ô nhiễm môi trường. Chẳng hạn, một ống khói
nhà máy hay hàng ngàn những xe ô tô chạy mỗi ngày có thể là nguồn của một chất gây
ô nhiễm đang xét. Vì vậy bước đầu tiên trong việc đánh giá phơi nhiễm là xác định
nguồn nào đang phát sinh chất gây ô nhiễm đó.
Sau khi nhận biết được các nguồn gây ô nhiễm mối nguy hại về sức khỏe, bước tiếp
theo sẽ xác định số lượng chất độc gây ô nhiễm môi trường đã được thải ra trong một
thời gian nhất định và mức độ phát tán của nó.
Người kĩ sư sử dụng các thiết bị kiểm tra hoặc những mô hình máy tính để ước lượng số
lượng hoặc lưu lượng của chất gây ô nhiễm thải ra từ nguồn và số lượng chất gây ô
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
nhiễm tại những khoảng cách khác nhau từ nguồn. Những thiết bị kiểm tra được dùng
để lấy mẫu không khí và xác định có bao nhiêu chất gây ô nhiễm hiện diện. Các chi tiết
công thức tính toán và giới thiệu mô hình áp dụng trong HRA có thể tham khảo trong
mô hình tính tóan tương từ như cách đánh giá ERA của chương 2 trong sách “ Đánh giá
rủi ro môi trường”
Mô hình máy tính sử dụng các phương trình tính toán mô tả các qua trình phát thải chất
gây ô nhiễm và sự di chuyển của những chất này trong môi trường. Mô hình này chịu sự
ảnh hưởng của các yếu tố như khoảng cách từ nguồn đến các người phơi nhiễm, tốc độ
gió và chiều cao ống khói.
Số lượng người phơi nhiễm tại những khoảng cách khác nhau từ nguồn thải có thể được
ước đoán với những mô hình máy tính mà sử dụng thông tin từ điều tra và từ những bản
đồ. Một số mô hình có thể ước lượng những sự phơi nhiễm cho con người tại các vị trí
khác nhau mỗi ngày bao gồm trong nhà, xe ô tô, ngoài trời và những sự phơi nhiễm môi
trường làm việc.
Công việc cuối cùng trong việc đánh giá phơi nhiễm sẽ xác định số lượng mỗi người
phơi nhiễm vào cơ thể. Ví dụ trong ô nhiễm không khí, những nhà khoa học kết hợp
ước lượng nhịp thở và thời gian sống của mỗi người bình thường với lượng chất gây ô
nhiễm môi trường không khí mà người đó tiếp xúc và hít vào cơ thể.
2.2.4.3. Đánh giá phơi nhiễm
Phơi nhiễm chính qua đường tiêu hóa có thể gây ảnh hưởng các quyết định quản
lí bao gồm liều lượng đất, thực phẩm dinh dưỡng và nước đi vào miệng. Thông
thường sự phơi nhiễm qua đường tiêu hóa là một hàm của nồng độ chất gây ô
nhiễm trong quá trình ăn uống ( đất, nước, thực phẩm dinh dưỡng như thịt bò, hoa
màu…), sự hấp thụ chất rắn hay cặn bã trong dạ dày, sự tính toán được đánh giá
một cách cẩn thận như sau:
Mức phơi nhiễm với nước qua đường tiêu hóa (mg/kg – ngày):
= (CW × WIR × GI) / BW
Mức phơi nhiễm với đất qua đường tiêu hóa (mg/kg – ngày):
= (CS × SIR × GI) / BW
Mức phơi nhiễm với vụ mùa qua đường tiêu hóa (mg/kg – ngày):
= (CD × FIR × GI) / BW
Trong đó:
CW: nồng độ hóa chất trong nước (mg/lít)
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
WIR: Tốc độ tiêu hóa nước (lít/ngày)
CS: Nồng độ hóa chất trong đất (mg/kg)
SIR: Tốc độ tiêu thụ đất (mg/kg)
CD: Nồng độ các hóa chất trong thức ăn thường ngày (mg/kg)
CT