Trong những năm vừa qua, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quá trình đô thị hóa, chuyển dịch lực lượng lao động từ
nông thôn ra thành thị đang diễn ra hết sức nhanh chóng, sự thay đổi về thu nhập và điều
kiện sống của người dân, cùng với quá trình thực hiện các dự án phát triển hạ tầng, chỉnh
trang đô thị của Nhà nước,. đã làm cho nhà ở đã trở thành một vấn đề kinh tế - xã hội bức
xúc luôn giành được sự quan tâm của các cấp chính quyền và doanh nghiệp kinh doanh
phát triển nhà. Mặt khác, hoạt động đầu tư, kinh doanh nhà ở nước ta nói chung và Hà Nội
nói riêng, hiện nay đang diễn biến hết sức phức tạp, phát sinh nhiều vấn đề cần phải giải
quyết. Do đó, việc nghiên cứu các mô hình đầu tư phát triển nhà ở trên địa bàn thành phố
Hà Nội hiện nay đang là một đòi hỏi khách quan cả về lý luận và thực tiễn.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế - chính trị lớn của cả nước có một vị trí đặc
biệt quan trọng, là nơi tập trung đông đảo các cơ quan quan trọng của Đảng và Nhà nước,
các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp lớn,. Hiện nay, Hà Nội là địa phương có quỹ nhà
lớn thứ hai của cả nước, tuy nhiên, trong những năm vừa qua, thành phố đang phải đối mặt
với nhiều vấn đề hết sức phức tạp trong giải quyết vấn đề nhà ở. Đó là, tình trạng nhà ở
xuống cấp, không đảm bảo an toàn và vệ sinh môi trường đô thị (ở các khu phố cổ, phố cũ,
các khu chung cư xây dựng thời bao cấp,.); sự yếu kém trong quản lý đô thị dẫn tới tình
trạng xây dựng nhà ở tự phát, không tuân theo thiết kế và qui hoạch; chính sách đầu tư, phát
triển nhà còn nhiều bất cập; quá trình gia tăng dân số cơ học diễn ra nhanh chóng,. Đây là
những trở ngại lớn đối với hoạt động đầu tư phát triển nhà ở, do đó, việc nghiên cứu các mô
hình đầu tư phát triển nhà ở tại Hà Nội, tìm ra những giải pháp, mô hình thích hợp trong đầu
tư phát triển nhà ở là vấn đề hết sức cần thiết hiện nay.
Nhà ở là đối tượng vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính chính trị - xã hội. Xét
trên khía cạnh kinh tế, nhà ở là tài sản có giá đặc biệt đối với mỗi cá nhân, là bộ phận quan
trọng cấu thành nên bất động sản. Xét trên khía cạnh xã hội, nhà ở còn là một trong những
tiêu chí đánh giá mức sống của con người, là sự thể hiện tính ưu việt của Nhà nước đối với
công dân, đặc biệt là những người nghèo. Đã có nhiều hình thức đầu tư phát triển nhà ở,
song thực tiễn cho thấy rằng các mô hình đầu tư phát triển nhà ở hiện nay vẫn còn bộc lộ
nhiều tồn tại và bất cập. Chính vì vậy, việc thiết lập mô hình đầu tư phát triển nhà ở với
mục tiêu đáp ứng và đảm bảo tính hài hòa về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, nhu
cầu của người dân (khách hàng) và thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước là vấn đề hết
sức cần thiết.
Xuất phát những nhận thức trên, tôi đã chọn vấn đề "Đầu tư phỏt triển nhà ở theo
mụ hỡnh dự ỏn tại Hà Nội " làm luận văn tốt nghiệp cao học, với mong muốn đóng góp
một phần hiểu biết nhỏ bé của mình vào việc phát triển và giải quyết vấn đề nhà ở của thành
phố Hà Nội trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây
dựng Thủ đô văn minh, thanh lịch.
101 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1814 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư phát triển nhà ở theo mô hình dự án ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đầu tư phát triển nhà ở theo mô
hình dự án tại Hà Nội
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quá trình đô thị hóa, chuyển dịch lực lượng lao động từ
nông thôn ra thành thị đang diễn ra hết sức nhanh chóng, sự thay đổi về thu nhập và điều
kiện sống của người dân, cùng với quá trình thực hiện các dự án phát triển hạ tầng, chỉnh
trang đô thị của Nhà nước,... đã làm cho nhà ở đã trở thành một vấn đề kinh tế - xã hội bức
xúc luôn giành được sự quan tâm của các cấp chính quyền và doanh nghiệp kinh doanh
phát triển nhà. Mặt khác, hoạt động đầu tư, kinh doanh nhà ở nước ta nói chung và Hà Nội
nói riêng, hiện nay đang diễn biến hết sức phức tạp, phát sinh nhiều vấn đề cần phải giải
quyết. Do đó, việc nghiên cứu các mô hình đầu tư phát triển nhà ở trên địa bàn thành phố
Hà Nội hiện nay đang là một đòi hỏi khách quan cả về lý luận và thực tiễn.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế - chính trị lớn của cả nước có một vị trí đặc
biệt quan trọng, là nơi tập trung đông đảo các cơ quan quan trọng của Đảng và Nhà nước,
các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp lớn,... Hiện nay, Hà Nội là địa phương có quỹ nhà
lớn thứ hai của cả nước, tuy nhiên, trong những năm vừa qua, thành phố đang phải đối mặt
với nhiều vấn đề hết sức phức tạp trong giải quyết vấn đề nhà ở. Đó là, tình trạng nhà ở
xuống cấp, không đảm bảo an toàn và vệ sinh môi trường đô thị (ở các khu phố cổ, phố cũ,
các khu chung cư xây dựng thời bao cấp,...); sự yếu kém trong quản lý đô thị dẫn tới tình
trạng xây dựng nhà ở tự phát, không tuân theo thiết kế và qui hoạch; chính sách đầu tư, phát
triển nhà còn nhiều bất cập; quá trình gia tăng dân số cơ học diễn ra nhanh chóng,... Đây là
những trở ngại lớn đối với hoạt động đầu tư phát triển nhà ở, do đó, việc nghiên cứu các mô
hình đầu tư phát triển nhà ở tại Hà Nội, tìm ra những giải pháp, mô hình thích hợp trong đầu
tư phát triển nhà ở là vấn đề hết sức cần thiết hiện nay.
Nhà ở là đối tượng vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính chính trị - xã hội. Xét
trên khía cạnh kinh tế, nhà ở là tài sản có giá đặc biệt đối với mỗi cá nhân, là bộ phận quan
trọng cấu thành nên bất động sản. Xét trên khía cạnh xã hội, nhà ở còn là một trong những
tiêu chí đánh giá mức sống của con người, là sự thể hiện tính ưu việt của Nhà nước đối với
công dân, đặc biệt là những người nghèo. Đã có nhiều hình thức đầu tư phát triển nhà ở,
song thực tiễn cho thấy rằng các mô hình đầu tư phát triển nhà ở hiện nay vẫn còn bộc lộ
nhiều tồn tại và bất cập. Chính vì vậy, việc thiết lập mô hình đầu tư phát triển nhà ở với
mục tiêu đáp ứng và đảm bảo tính hài hòa về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, nhu
cầu của người dân (khách hàng) và thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước là vấn đề hết
sức cần thiết.
Xuất phát những nhận thức trên, tôi đã chọn vấn đề "Đầu tư phỏt triển nhà ở theo
mụ hỡnh dự ỏn tại Hà Nội " làm luận văn tốt nghiệp cao học, với mong muốn đóng góp
một phần hiểu biết nhỏ bé của mình vào việc phát triển và giải quyết vấn đề nhà ở của thành
phố Hà Nội trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây
dựng Thủ đô văn minh, thanh lịch.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, trước xu thế của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa,
trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và sự đa dạng hóa các hoạt động
đầu tư, trong đó có đầu tư phát triển nhà ở, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu vấn
đề đầu tư phát triển nhà ở theo mô hình dự án dưới nhiều góc độ và phạm vi khác nhau. ở
nước ngoài, có thể kể đến các công trình nghiên cứu của Jonh R. Hasen (Hướng dẫn đánh
giá dự án đầu tư trên thực tế, Nxb Licosaxuba, Hà Nội, 1990); Jack R. Meredith (Project
Management, A Managerial Approach. Jonh Willey & Sons.1989); Denis Lock (Project
management, the 4th edition),... ở trong nước, có các công trình nghiên cứu như: "ảnh
hưởng của đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội" (Nguyễn Văn áng, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2003); "Sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản trong
công cuộc đổi mới của Việt nam" (Lê Xuân Bá, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 2003);
"Thị trường bất động sản những vấn đề lý luận và thực tiễn Việt nam" (Thái Bá Cẩn, Nxb
Tài chính, Hà Nội, 2003); Đề tài nghiên cứu khoa học: "Phân tích chính sách phát triển thị
trường quyền sử dụng đất trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam" của Viện Nghiên cứu
Quản lý kinh tế Trung ương,…
Các công trình nghiên cứu trên đây mới đề cập đến đầu tư phát triển nhà ở theo
mô hình dự án trên bình diện chung mà chưa nghiên cứu vấn đề trên một địa bàn cụ thể
với những nét đặc thù riêng đó là thành phố Hà Nội. Mặt khác, hoạt động đầu tư phát
triển nhà là một hoạt động kinh tế mang tính đặc thù và nó luôn luôn biến đổi. Do đó,
vấn đề này cần phải được nghiên cứu một cách thường xuyên nhằm tạo ra cơ sở khoa học
để tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển của thực
tiễn cuộc sống.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
- Trình bày một cách có hệ thống những vấn đề chung về đầu tư và đầu tư xây
dựng nhà ở theo mô hình dự án;
- Đánh giá thực trạng đầu tư phát triển nhà ở theo mô hình dự án tại Hà Nội, qua
đó chỉ ra những thành tựu, ưu điểm và những tồn tại, hạn chế của hoạt động này trong thời
gian vừa qua;
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh và nâng
cao hiệu quả phát triển nhà theo mô hình dự án tại Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài, qua đó làm
rõ cơ sở lý luận chung của hoạt động đầu tư phát triển nhà theo mô hình dự án tại Hà Nội;
- Tìm hiểu một số kinh nghiệm đầu tư phát triển nhà theo mô hình dự án của một
số nước trên thế giới và một số địa phương tiêu biểu ở nước ta;
- Khảo sát thực trạng đầu tư phát triển nhà ở theo mô hình dự án trong những năm
vừa qua; chỉ ra những ưu điểm, tồn tại, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm;
- Đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát
triển nhà ở theo mô hình dự án tại thành phố Hà Nội trong những năm tới đây.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn khảo sát, nghiên cứu hoạt động đầu tư phát triển nhà ở theo mô hình dự
án tại thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở những vấn đề về đầu tư và phát triển nhà
ở theo mô hình dự án tại Hà Nội, cụ thể: lý luận chung về đầu tư và đầu tư nhà ở; thực
trạng, giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển nhà ở theo mô
hình dự án tại Hà Nội.
Về mặt thời gian, luận văn khảo sát đánh giá hoạt động đầu tư phát triển nhà ở
theo mô hình dự án tại Hà Nội trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay và đề xuất các
định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động này trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành những mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn đã dựa trên phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử). Bên cạnh
đó, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: lấy ý kiến chuyên gia,
khảo sát thực tế, phương pháp so sánh, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp
thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp…
6. Đóng góp của luận văn
- Trên cơ sở nhận thức về tính cần thiết của đầu tư phát triển nhà theo mô hình dự
án, luận văn phân tích thực trạng đầu tư phát triển nhà theo mô hình dự án tại Hà Nội, chỉ
ra những ưu điểm, lợi thế, những tồn tại, hạn chế và những vấn đề đang đặt ra hiện nay đối
với hoạt động này;
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu
tư phát triển nhà ở theo mô hình dự án tại thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu của
luận văn gồm 3 chương, 10 tiết.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về đầu tư phát triển nhà ở theo mô hình dự án
1.1. Lý luận chung về đầu tư phát triển nhà ở theo mô hình dự án
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư phát triển
Theo Từ điển tiếng Việt (1995) thì đầu tư có nghĩa là "bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào
công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế - xã hội" [33, tr. 291].
Trong kinh tế học, khái niệm đầu tư được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác
nhau tùy theo phạm vi phát huy tác dụng và kết quả đầu tư. Hiểu theo nghĩa chung nhất,
đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản
đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của địa
phương, của ngành, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, các cơ quan nhà nước nói riêng.
Nguồn lực ở đây có thể là tài chính, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, chất xám, công
nghệ,... Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, thì đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các
nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực đã chi phí để đạt được những kết quả đó. Trong thực tế, hoạt động
đầu tư được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau hết sức đa dạng, xét trên góc độ
quan hệ quản lý, đầu tư được chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn không trực tiếp tham gia vào
việc quản lý, điều hành quá trình thực hiện dự án. Ví dụ, nhà đầu tư tiến hành đầu tư vào
thị trường chứng khoán, họ có thể được thụ hưởng các lợi ích từ việc mua bán chứng
khoán đem lại và thực hiện các quyền lợi khác, nhưng họ không tham gia vào việc quản lý,
điều hành trực tiếp đối với tài sản mà mình đã bỏ vốn đầu tư.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà ở đó người bỏ vốn đầu tư trực tiếp tham
gia điều hành, quản lý và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp được thể hiện dưới hai
hình thức: đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển. Đầu tư dịch chuyển là hình thức đầu tư
có mục tiêu nhằm dịch chuyển quyền sở hữu giá trị của tài sản. Khác với đầu tư dịch
chuyển, đầu tư phát triển có mục tiêu đầu tư nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản
xuất kinh doanh và sinh hoạt đời sống xã hội, đây là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài
sản, dịch vụ cho nền kinh tế.
Tóm lại, có thể hiểu đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài
chính, lao động, khoa học - công nghệ và các nguồn lực vật chất khác vào sản xuất kinh
doanh nhằm duy trì và tạo ra các nguồn lực mới cho sự tăng trưởng và phát triển của nền
kinh tế - xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm dự án đầu tư
Dự án (Project), là những dự định, hành động nào đó đã được lập thành phương án
hành động cụ thể mà căn cứ vào đó người ta có thể đánh giá chính xác để phê chuẩn hoặc
để thực hiện những dự định hành động đó. Dự án đầu tư là một danh từ chung, dùng để dự
định hành động, kế hoạch hành động, phương pháp hành động trên nhiều lĩnh vực, đó có
thể là dự án cải cách hành chính, dự án đầu tư xây dựng hạ tầng, nhà ở,...
Theo Nghị định 177-CP, ngày 20/10/1994 của Chính phủ thì dự án đầu tư là "một
tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng
nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của
sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định" [6, tr. 4].
Hoạt động đầu tư được xúc tiến thông qua dự án đầu tư. Có nhiều cách hiểu khác
nhau về dự án đầu tư, tùy theo góc độ tiếp cận, trên góc độ quản lý thì dự án đầu tư được
hiểu là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, công nghệ, vật tư và nguồn nhân lực để tạo
ra những kết quả về kinh tế - xã hội. Xét trên góc độ kế hoạch hóa, dự án đầu tư là sự thể
hiện chi tiết kế hoạch đầu tư sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội cụ thể làm tiền đề cho các
quyết định đầu tư. Xét về nội dung, thì dự án đầu tư là bản dự kiến các chi phí và hoạt
động được tính toán theo một kế hoạch chặt chẽ nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã
hội theo dự định.
Theo đó, một dự án đầu tư bao gồm những yếu tố chủ yếu sau đây:
Mục tiêu của dự án đầu tư. Các dự án bao giờ cũng có mục tiêu, mục đích cụ thể.
Thông thường, mục tiêu của các dự án đầu tư thường được thể hiện ở hai mức: mục tiêu
phát triển và mục tiêu của chủ đầu tư. Mục tiêu phát triển là thể hiện sự đóng góp của dự
án đối với sự phát triển kinh tế - xã hội mà dự án mang lại. Mục tiêu của chủ đầu tư là
những lợi ích mà chủ đầu tư hướng tới khi thực hiện dự án, ở đây có thể là những lợi ích
tài chính, phát triển xã hội, nguồn nhân lực,...
Kết quả của dự án đầu tư. Đó là những kết quả, sản phẩm cần phải đạt được
trong quá trình thực hiện dự án. Đây là một trong những tiêu chí để đánh giá sự thành công
của dự án.
Các hoạt động của dự án. Là những công việc cần thực hiện để tạo ra kết quả
nhất định. Những hoạt động này được lập sẵn theo một lịch trình nhất định gọi là kế hoạch
thực hiện dự án.
Các nguồn lực của dự án. Bao gồm các yếu tố như vốn, lao động, khoa học -
công nghệ, vật tư,... cần thiết để tiến hành thực hiện dự án.
Có nhiều cách phân loại dự án đầu tư, việc phân loại này nhằm mục đích tạo cơ sở
cho việc phân công, phân định thẩm quyền xét duyệt dự án và là cơ sở khi xác định trọng
tâm, trọng điểm quản lý đối với từng loại dự án. Theo đó, dự án đầu tư có thể được phân
thành các loại sau đây:
- Căn cứ theo mục đích cuối cùng của dự án, dự án đầu tư được phân thành:
Dự án đầu tư xây dựng cơ bản;
Dự án đầu tư xây dựng và mở rộng hạ tầng kinh tế;
Dự án đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng văn hóa - xã hội;
Dự án đầu tư sản xuất;
Dự án đầu tư dịch vụ và kinh doanh;
Dự án hỗ trợ tài chính;
Các nhóm dự án khác.
- Căn cứ theo chủ thể bỏ vốn, dự án đầu tư được phân thành:
Dự án quốc gia;
Dự án dân lập;
Dự án kết hợp Nhà nước và công dân.
- Căn cứ theo "quốc tịch" của vốn, dự án đầu tư được phân thành:
Dự án đầu tư trong nước;
Dự án đầu tư có vốn nước ngoài.
- Căn cứ theo tính chất và lĩnh vực đầu tư, dự án đầu tư được phân thành:
Các dự án đầu tư chiến lược;
Các dự án đầu tư thông thường.
Theo qui định của điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng bằng nguồn vốn trong nước
(ban hành kèm Nghị định số 16/CP/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 7 năm 2005 của Chính
phủ) thì dự án đầu tư được chia thành ba nhóm A, B, C với những đặc trưng sau:
- Dự án nhóm A, là những dự án có một trong các điều kiện sau:
A1- Là những dự án đầu tư mới không kể mức vốn đầu tư, thuộc phạm vi bảo mật
quốc gia hoặc có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội quan trọng của đất nước và dự án đầu tư
thuộc các ngành sản xuất các chất độc hại, chất nổ, khai thác, chế biến các khoáng sản quí
hiếm như: vàng, bạc, đá quí, đất hiếm,…)
A2 - Là những dự án đầu tư có tổng mức đầu tư lớn hơn mức qui định:
A2.1 - Là những dự án trên 200 tỷ đồng Việt Nam hoặc 20 triệu USD đối với các
ngành công nghiệp điện, khai mỏ, luyện kim, chế tạo máy, xi măng; các ngành giao thông,
thủy lợi, cấp thoát nước đô thị.
A2.2 - Là những dự án trên 100 tỷ đồng Việt Nam hoặc trên 10 triệu USD thuộc
các ngành công nghiệp năng như: kỹ thuật điện, điện tử, hóa chất, phân bón, chế tạo cơ
khí, vật liệu xây dựng; các ngành công nghệ như: sành, sứ, thủy tinh, giấy, dệt, may mặc;
bưu điện; các ngành sản xuất: hóa dược, thuốc chữa bệnh, chế biến nông lâm, thủy sản, sản
xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản.
A2.3 - Là những dự án trên 50 tỷ đồng Việt Nam hoặc trên 5 triệu USD đối với
các ngành còn lại.
A3. Là những dự án khôi phục, cải tạo mở rộng, đổi mới kỹ thuật có tổng mức
đầu tư bằng 70% so với mức đầu tư của dự án nhóm A2.
- Dự án nhóm B, là những dự án có một trong các điều kiện sau:
B1 - Là các dự án đầu tư thuộc nhóm A2.1, có tổng mức đầu tư từ
25 tỷ đồng Việt Nam đến 200 tỷ đồng Việt Nam, hoặc sử dụng ngoại tệ từ 2,5 triệu USD
đến 20 triệu USD;
B2 - Là các dự án đầu tư thuộc nhóm A2.2 có tổng mức đầu tư từ
15 tỷ đồng Việt Nam đến 100 tỷ đồng Việt Nam, hoặc sử dụng ngoại tệ từ 1,5 triệu USD
đến 10 triệu USD;
B3 - Các dự án đầu tư thuộc mục A2.3, có tổng mức đầu tư từ 5 tỷ đồng Việt
Nam đến 50 tỷ đồng Việt Nam, hoặc sử dụng ngoại tề từ 0,5 triệu USD đến 5 triệu USD;
B3 - Là các dự án đầu tư thuộc nhóm dự án A3, có tổng mức đầu tư bằng 70% so với
tổng mức đầu tư qui định đối với các dự án thuộc nhóm B1, B2, B3.
- Dự án nhóm C, là những dự án không thuộc diện các dự án đã nêu trên.
Tóm lại, hiểu theo nghĩa chung nhất, thì dự án đầu tư là một lĩnh vực hoạt động
đặc thù, một nhiệm vụ cần phải được thực hiện với những, phương pháp riêng, nguồn lực
riêng và theo một kế hoạch nhất định, nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội.
1.1.1.3. Khái niệm, đặc điểm đầu tư phát triển nhà ở theo mô hình dự án
Đầu tư phát triển nhà ở theo mô hình dự án là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài
chính, nguồn nhân lực, vật tư, khoa học - công nghệ,... vào việc xây dựng nhà ở theo một
kế hoạch, phương án cụ thể nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đặt ra.
Đầu tư phát triển nhà ở theo mô hình dự án có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, hoạt động đầu tư phát triển nhà ở theo mô hình dự án đòi hỏi phải huy
động một lượng vốn lớn và số vốn này tồn đọng trong suốt quá trình thực hiện dự án đầu
tư. Hoạt đồng đầu tư xây dựng nhà ở theo mô hình dự án thường có qui mô rất lớn, hiện
đại, đồng bộ về hạ tầng, công nghệ thi công tiên tiến, thời gian thực hiện dài, do đó, nó đòi
hỏi phải huy động một lượng vốn lớn trong quá trình thực hiện. Mặt khác, khác với các
hoạt đồng đầu tư khác, vốn cho đầu tư phát triển nhà ở theo mô hình dự án thường bị khê
đọng trong quá trình thực hiện dự án, chính vì vậy, thời gian thu hồi vốn đối với dự án
thường diễn ra rất lâu.
Thời hạn thu hồi vốn đầu tư là khoảng thời gian cần thiết để có được lợi nhuận thu
từ việc khai thác công trình và bù đắp được chi phí đã bỏ ra để xây dựng công trình đó.
Thời gian thu hồi vốn được xác định theo công thức sau:
T =
V
L+Lv
Trong đó:
- V: Vốn đầu tư ban đầu
- L: Mức lãi hàng năm
- Lv: Lãi suất ngân hàng của vốn vay đầu tư, nếu V là vốn vay
- T: Là thời gian thu hồi vốn đầu tư.
Xác định thời hạn thu hồi vốn đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng để
đánh giá hiệu quả dự án đầu tư cũng như phân tích, so sánh lựa chọn phương án đầu tư.
Chỉ tiêu này giúp nhà đầu tư thấy rõ thời hạn thu hồi vốn đầu tư, cũng như mức chi phí về
vốn phải trả trong quá trình thực hiện dự án, từ đó đi đến quyết định có đầu tư hay không.
Thứ hai, đây là hoạt động trong một thời gian lâu dài và chịu nhiều ảnh hưởng của
các nhân tố tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế,... Hoạt động đầu tư phát triển nhà ở theo mô
hình dự án thường huy động một nguồn vốn, vật tư và lao động tương đối lớn, thời gian
triển khai và vận hành của mỗi dự án thường diễn ra trong nhiều năm. Do đó, nó chịu sự
tác động của nhiều nhân tố tự nhiên, kinh tế, chính trị và xã hội dẫn đến hậu quả là hoạt
động này chứa đựng rủi ro rất cao, các nhân tố ảnh hưởng ở đây có thể là: thiên tai, điều
kiện địa chất thi công; sự biến động của giá cả vật tư; chính sách đất đai và đầu tư của Nhà
nước; nhu cầu, thị hiếu của khách hàng…Mặt khác, các dự án đầu tư phát triển nhà ở theo
mô hình dự án diễn ra trong một thời gian dài, theo một qui trình bắt buộc nhất định từ
khâu lập dự án, thẩm định dự án, phê duyệt dự án, triển khai đầu tư, khai thác và vận hành
dự án. Qui trình này diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động khác
nhau, các yếu tố này sẽ được trình bày cụ thể ở mục 1.2.
Thứ ba, kết quả đầu tư dự án (sản phẩm) thường có giá trị sử dụng lâu dài và sẽ
phát huy hiệu quả ở nơi nó được thực hiện. Sản phẩm của hoạt động đầu tư phát triển nhà
ở theo mô hình dự án là hình thành nên những căn hộ, khu nhà ở với sự đồng bộ về hạ tầng
kỹ thuật (điện, nước, đường giao thông, hệ thống viễn