Trong hơn 10 năm qua nhất là từ sau đại hội VI của Đảng công cuộc đổi
mới kinh tế đất nước bước đầu có những chuyển biến quan trọng, nền nông
nghiệp Việt Nam đạt bước tiến bộ rõ rệt. Tình hình sản xuất lương thực thực
phẩm phát triển khá đáp ứng được nhu cầu trong nước có dự trữ và xuất khẩu
góp phần ổn định đời sống của nhân dân và cải thiện cán cân xuất nhập khẩu.
Đó là kết quả tổng hợp của việc cải tiến tổ chức sản xuất, thực hiện chính sách
khoán trong nông nghiệp, xoá bỏ chế độ bao cấp, tự do lưu thông và điều hoà
cung cầu lương thực trên phạm vi cả nước.
Cùng với những thành tựu trong sản xuất, nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần bước đầu được hình thành và vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý, Nhà nước
đã chủ động vận dụng có hiệu quả hơn các công cụ pháp luật, kế hoạch, chính
sách và các công cụ đòn bẩy khác, trong đó việc đổi mới các chính sách giá,
thuế, tín dụng, đầu tư, lưu thông, kinh tế đối ngoại., có vai trò đặc biệt quan
trọng thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Đồng thời, Nhà nước đã thực hiện
chính sách điều chỉnh quan hệ sản xuất ở nông thôn bước đầu đã giải phóng
sức sản xuất, khai thác tiềm năng lao động và vốn của nhân dân.
Sự phát triển của nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn chịu sự tác
động của nhiều nhân tố trong đó chính sách đóng vai trò gần như quyết định,
đó chính là tác động can thiệp của Nhà nước đối với sự phát triển nông nghiệp
nông thôn. Chính sách đóng vai trò quan trọng và là yếu tố bao trùm tác động
mạnh mẽ bảo đảm sự thành công của chiến lược phát triển kinh tế xã hội nông
thôn và phát triển kinh tế xã hội nói chung của đất nước. Chính sách đúng đắn
sẽ tạo động lực cho người lao động, cho các doanh nghiệp và các thành phần
kinh tế tham gia tích cực vào phát triển sản xuất mở rộng kinh doanh, phát
triển kinh tế xã hội với nhịp độ nhanh và ổn định.
109 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1841 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Định hướng và một số giải pháp cho chính sách đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Thực trạng chính sách đầu
tư đối với việc phát triển
sản xuất nông nghiệp
Việt Nam
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong hơn 10 năm qua nhất là từ sau đại hội VI của Đảng công cuộc đổi
mới kinh tế đất nước bước đầu có những chuyển biến quan trọng, nền nông
nghiệp Việt Nam đạt bước tiến bộ rõ rệt. Tình hình sản xuất lương thực thực
phẩm phát triển khá đáp ứng được nhu cầu trong nước có dự trữ và xuất khẩu
góp phần ổn định đời sống của nhân dân và cải thiện cán cân xuất nhập khẩu.
Đó là kết quả tổng hợp của việc cải tiến tổ chức sản xuất, thực hiện chính sách
khoán trong nông nghiệp, xoá bỏ chế độ bao cấp, tự do lưu thông và điều hoà
cung cầu lương thực trên phạm vi cả nước.
Cùng với những thành tựu trong sản xuất, nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần bước đầu được hình thành và vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý, Nhà nước
đã chủ động vận dụng có hiệu quả hơn các công cụ pháp luật, kế hoạch, chính
sách và các công cụ đòn bẩy khác, trong đó việc đổi mới các chính sách giá,
thuế, tín dụng, đầu tư, lưu thông, kinh tế đối ngoại..., có vai trò đặc biệt quan
trọng thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Đồng thời, Nhà nước đã thực hiện
chính sách điều chỉnh quan hệ sản xuất ở nông thôn bước đầu đã giải phóng
sức sản xuất, khai thác tiềm năng lao động và vốn của nhân dân.
Sự phát triển của nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn chịu sự tác
động của nhiều nhân tố trong đó chính sách đóng vai trò gần như quyết định,
đó chính là tác động can thiệp của Nhà nước đối với sự phát triển nông nghiệp
nông thôn. Chính sách đóng vai trò quan trọng và là yếu tố bao trùm tác động
mạnh mẽ bảo đảm sự thành công của chiến lược phát triển kinh tế xã hội nông
thôn và phát triển kinh tế xã hội nói chung của đất nước. Chính sách đúng đắn
sẽ tạo động lực cho người lao động, cho các doanh nghiệp và các thành phần
kinh tế tham gia tích cực vào phát triển sản xuất mở rộng kinh doanh, phát
triển kinh tế xã hội với nhịp độ nhanh và ổn định.
3
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
I. Tổng quan về đầu tư
1. Khái niệm về đầu tư
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn
các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động
và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản
vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất
trong nền sản xuất xã hội.
2. Vai trò của đầu tư phát triển
2.1 Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước
2.1.1 Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu
Về mặt cầu đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng cầu
của toàn bộ nền kinh tế, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu
tổng cầu của tất cả các nước trên thể giơí, đối với tổng cầu tác động của đầu tư
là ngắn hạn.
Về mặt cung khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng các năng lực
mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên kéo
theo sản lượng tăng, giá giảm cho phép tăng tiêu dùng, tiếp tục lại kích thích
sản xuất hơn nữa.
2.1.2 Đầu tư tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế
Sự tác động không đồng thời về thời gian của đầu tư với tổng cầu và
tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù tăng hay
giảm đều vừa là yếu tố duy trì ổn định vừ là yếu tố phá vỡ sự ổn định. Khi
tăng đầu tư cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm giá cá của các hàng hoá liên
quan tăng. Khi tăng đầu tư cũng làm cho cầu của các yếu tố liên quan tăng,
sản xuất các ngành này phát triển thu hút lao động giảm tình trạng thất nghiệp.
2.1.3 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
4
Để tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15-
25% so với GDP tuỳ thuộc vào Icor mỗi nước, chỉ tiêu Icor của mỗi nước tuỳ
thuộc vào nhiều nhân tố thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế.
2.1.4 Đầu tư tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Con đường tất yếu có thể tăng nhanh tốc độ mong muốn là tăng cường
đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu công nghiệp và dịch vụ, đối với
các ngành nông nghiệp, lâm ngư nghiệp do hạn chế về đất đai và các khả năng
sinh học để đạt tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là khó khăn, như vậy chính sách
đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
2.1.5 Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất
nước
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, đầu tư là điều kiện tiên
quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện
nay. Để có công nghệ thì phải tự nghiên cứu phát minh hoặc nhập công nghệ
từ nước ngoài nhưng vấn đề là phải có tiền, vốn đầu tư.
2.2 Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ
Để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của cơ sở nào đó cần
phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng mua sắm lắp đặt thiết bị máy móc,
thực hiện các chi phí khác gắn liêng với sự hoạt động trong một chu kỳ của
các cơ sở vật chất - kỹ thuật. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư, sau
một thời gian hoạt động các cơ sở này hao mòn, hư hỏng và để hoạt động bình
thường hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới thì phải đầu tư
nâng cấp và tiến hành sửa chữa.
3. Đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp
3.1 Đầu tư trong nông nghiệp được tiến hành trên một địa bàn rộng lớn, và
còn lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên.
Khác với các lĩnh vực đầu tư khác, đầu tư trong nông nghiệp xuất nông
được thực hiện trên một địa bàn rộng (như áp dụng tiến bộ về giống cho cả
một huyện...). Ngoài ra, việc đầu tư còn lệ thuộc vào đất đai, thời tiết, khí hậu
và thuỷ văn của từng vùng. Do vậy, quá trình đầu tư diễn ra rất phức tạp, nó
không được dập khuôn mà phải diễn ra theo một quá trình, nó được xuất phát
từ việc điều tra các nguồn tài nguyên nông-lâm-ngư nghiệp của đất nước cũng
như của mỗi vùng để có sự đầu tư vào nghiên cứu và sử dụng các loại cây
trồng, các con vật nuôi thích hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng.
5
Trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn việc đầu tư phát triển
cơ sở hạ tầng kỹ thuật là rất quan trọng, nó quyết định tới việc thành công của
việc sản xuất. Nhưng để cơ sở hạ tầng kinh tế này phát huy tác dụng cần phải
tiến hành phù hợp với đặc điểm của từng cây trồng, từng con vật nuôi, điều
kiện đặc biệt quan trọng là phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, địa hình kinh
tế của từng vùng.
Quá trình đầu tư trên rất phức tạp và khó thực hiện. Vì vậy, để nông
nghiệp nông thôn ngày càng phát triển, cần đưa ra những chính sách thích hợp
với diều kiện cụ thể của từng vùng, từng khu vực nhất định. Đặc biệt là chính
sách ruộng đất, chính sách đầu tư và chính sách thuế. Làm được như vậy, chắc
chắn nông nghiệp sẽ phát triển nhanh và góp phần to lớn vào quá trình phát
triển kinh tế đất nước.
3.2 Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay
thế được. Do vậy đầu tư nông nghiệp là đầu tư để cải tạo ruộng đất.
Đất đai là diều kiện cần thiết cho tất cả các ngành sản xuất, nhưng tác
động kinh tế của nó lại rất khác nhau. Trong công nghệp và các ngành kinh tế
khác, đất đai chỉ là nền móng để xây dựng các công xưởng trụ sở phục vụ cho
việc sản xuất kinh doanh. Trái lại trong nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất
không thể thay thế được. Đất đai là tư liệu sản xuất nhưng có giới hạn về diện
tích, cố định về mặt vị trí mà nhu cầu sản xuất lại không ngừng tăng lên. Do
vậy, đầu tư để cải tạo ruộng đất là quá trình vô cùng quan trong, nó quyết định
đến quá trình sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống dân cư.
Vấn đề đặt ra là đầu tư cải tạo đất như thế nào cho phù hợp với điều kiện tự
nhiên của từng vùng, lãnh thổ. Trong thời gian qua, nước ta đã chú trọng đầu
tư mở rộng, cải tạo đất thông qua các biện pháp khai hoang, tăng vụ, đẩy
mạnh đầu tư chiều sâu, thâm canh sản xuất. Không ngừng áp dụng các loại
giống mới, có chất lượng cao vào sản xuất, đồng thời sử dụng các loại phân
bón vừa có tác dụng nâng cao năng suất cây trồng, vừa có tác dụng cải tạo đất
và luôn luôn luân canh sản xuất làm cho độ phì nhiêu của đất ngày càng tăng.
Để làm được như vậy, Nhà nước và các hộ dân cư tăng cường đầu tư cho lĩnh
vực này, đồng thời có sự hường dẫn đúng các quy định đã được đề ra trong
chính sách ruộng đất. Trong thời gian tới, để đẩy mạnh lượng hàng hoá xuất
khẩu và đời sống nhân dân được tăng cao, Đảng và Nhà nước cần quan tâm
đầu tư hơn nữa đến lĩnh vực này, đồng thời có những biện pháp thu hút mạnh
6
mẽ các nguồn vốn khác, đặc biệt là nguồn vốn trong dân đầu tư cho cải tạo đất
và phát triển nông nghiệp.
3.3 Đầu tư trong nông nghiệp là quá trình đầu tư phát triển hệ thống giống và
chế biến nông sản, chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Cây trồng và con vât nuôi - đối tượng sản xuất của nông nghiệp, là
những cơ thể sống, chúng sinh trưởng và phát triển theo những quy luật sinh
học nhất định. Là những cơ thể sống do đó chúng rất nhạy cảm với môi trường
tự nhiên. Mỗi sự thay đổi về thời tiết, khí hậu, về sự chăm sóc của con người
đều tác động trực tiếp đến quá trình sinh trưởng và phát triển của chúng và
đương nhiên là ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của sản xuất. Vì vậy, đặc
trưng của đầu tư trong nông nghiệp là đầu tư cho phát triển hệ thống giống.
Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã đầu tư xây dựng được một số trung tâm
nghiên cứu và sản xuất giống với nhiều loại giống tốt góp phần to lớn cho quá
trình sản xuất nông nghiệp đạt kết quả cao. Trong thời gian tới, để ngành nông
nghiệp ngày càng phát triển, nhất thiết chúng ta phải tăng cường đầu tư hơn
nữa để cải tạo và xây dựng các trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống. Việc
làm này không chỉ ở một số nơi mà cần mở rộng ra nhiều nơi, mỗi vùng đặc
trưng ít nhất phải có một trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống. Ngoài việc
nghiên cứu và sản xuất các loại giống mới phù hợp với điều kiện tự nhiên của
từng vùng, cần phải đầu tư hơn nữa để tạo ra các loại giống có phẩm chất tốt
nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Có như vậy, quá trình sản xuất
nông nghiệp mới đạt kết quả cao, ngành nông nghiệp mới khẳng định được vai
trò của mình trong nền kinh tế quốc dân.
Ngoài việc đầu tư phát triển hệ thống giống, đầu tư cho chế biến nông
sản cũng vô cùng quan trọng, nó giúp cho các nông sản sau khi thu hoạch
được bảo đảm và việc chế biến nông sản làm cho giá trị nông sản hàng hoá
được nâng cao, góp phần tăng thu nhập cho người lao động.
Bên cạnh đó đầu tư cũng nhằm phát triển giống cây, giống con có năng
suất, chất lượng tốt, cho phép chuyển đổi cơ cấu kinh tế nuôi trồng các cây,
con có giá trị hiệu quả kinh tế cao hơn.
II. Vai trò của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế của đất nước
Nông nghiệp chiếm một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế
của đất nước, mặc dù nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá
nhưng nền tảng vẫn là một nước có nền nông nghiệp truyền thống, nông
nghiệp đóng góp xấp xỉ 1/4 vào GDP của đất nước, trên 1/3 kim ngạch xuất
7
khẩu và tạo việc làm cho 2/3 lực lượng lao động với khoảng 80% dân cư sống
ở nông thôn do đó nông nghiệp không chỉ là nguồn sống mà còn là động lực
để phát triển kéo theo các ngành khác. Mục tiêu và định hướng phát triển
nông nghiệp nước ta cho đến năm 2010 được thể hiện trong báo cáo chính trị
tại đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 4/2001: "Tăng cường sự chỉ
đạo và huy động nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học công
nghệ nhất là công nghệ sinh học. Đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi tăng giá
trị thu được trên đơn vị diện tích quy hoạch sử dụng đất hợp lý, đẩy mạnh thuỷ
lợi hoá, cơ gới hoá, điện khí hoá, phát triển kết cấu hạ tầng, công nghiệp dịch
vụ, chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo nhiều việc làm mới và cải thiện đời sống
nông dân và dân cư nông thôn".
1. Nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực, thực phẩm - nhu cầu cần
thiết cho con người.
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng và
phát triẻn đa dạng. Nhưng trước hết, như Mác đã khẳng định, con người trước
hết phải có ăn sau đó mới nói đến các hoạt động khác, rằng nông nghiệp là
ngành cung cấp tư liệu sinh hoạt cho con người ... và việc sản xuất tư liệu sinh
hoạt là điều kiện đầu tiên của sự sống vàcủa mọi lĩnh vực sản xuất nói chung.
Đặc điểm này khẳng định vai trò đặc biệt quan trong của nông nghiệp trong
việc nâng cao mức sống dân cư, bảo đảm sự ổn định chính trị xã hội của đất
nước. Từ đó khẳng định ý nghĩa to lớn của vấn đề lương thực trong chiến lược
phát triển nông nghiệp, của năng suất lao động nông nghiệp đối với việc bố trí
và phân công lại lao động trong xã hội.
Vấn đề này đặc biệt quan trọng đối với nước ta. Với gần 80% dân số
sống ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp đã cung cấp phần lớn tư liệu sinh hoạt
cho người dân, đồng thời nó cũng đáp ứng được nhu cầu việc làm cho người
lao động. Quan trọng hơn, sản xuất nông nghiệp nước ta đóng một vai trò to
lớn trong nền kinh tế quốc dân.
2. Nông nghiệp nông thôn là thị trường rộng lớn, tiêu thụ sản phẩm hàng
hoá của cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Đối với các nước đang phát triển nói chung, nước ta nói riêng, nông
nghiệp và nông thôn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội
và cơ cấu dân cư. Đời sống dân cư ngày càng được nâng cao, cơ cấu kinh tế
8
nông thôn ngày càng đa dạng và đạt tốc độ tăng trưởng cao thì nông nghiệp
nông thôn sẽ trở thành thị trường tiêu thụ ngày càng rộng lớn và ổn định của
nền kinh tế quốc dân. Nhờ vào sự phát triển mà nhu cầu của người dân ngày
càng tăng, không chỉ tiêu dùng những tư liệu sinh hoạt đơn giản phục vụ cho
ăn no mặc ấm, mà nhu cầu ngày càng mở rộng, người ta càng quan tâm đến ăn
ngon, mặc đẹp và những phương tiện ngày càng hiện đại phục vụ cho đời sống
vật chất cũng như tinh thần. Cùng với quá trình đó, sản xuất nông nghiệp cũng
đòi hỏi ngày càng được cơ khí hoá và áp dụng những thành tựu khoa học và
công nghệ vào trong sản xuất. Chính vì vậy, nó không chỉ dừng lại ở đòi hỏi
sản phẩm nông nghiệp mà sản phẩm công nghiệp ngày càng được đòi hỏi
nhiều hơn, ngày càng đưa về phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn nhiều hơn.
Cho nên, quá trình sản xuất nông nghiệp đã thúc đẩy mạnh mẽ đến sản xuất
công nghiệp và phát triển dịch vụ. Qua đó, sẽ giúp cho nền kinh tế quốc dân
ngày càng phát triển.
3. Nông nghiệp là ngành cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp và tạo thêm việc làm cho xã hội.
Đối với các nước đang phát triển nói chung, nước ta nói riêng, nguyên
liệu từ đầu vào là bộ phận chủ yếu để phát triển công nghiệp chế biến và nhiều
ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Một số loại nông sản, nếu tính
trên một đơn vị diện tích, có thể tạo ra số việc làm sau nông nghiệp nhiều hơn
hoặc tương đương với việc làm của chính khâu sản xuất ra nông sản ấy. Hơn
nữa, thông qua công nghiệp chế biến, giá trị nông sản được tăng lên và đa
dạng hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc
tế. Vấn đề này đã được thể hiện rõ ở nước ta, đó là nông nghiệp đã cung cấp
nguyên liệu như thuỷ, hải sản, cao su, cà phê, chè..., tạo điều kiện cho phát
triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và tạo thêm việc làm cho xã hội. Để
thực hiện vai trò này của công nghiệp, đòi hỏi phải giả quyết tốt mối quan hệ
giữa nông nghiệp và công nghiệp, đặc biệt giữa nông nghiệp và công nghiệp
chế biến. Vấn đề cần giải quyết chính là quá trìng phân bố sản xuất, quy trình
kỹ thuật, mô hình tổ chức và quan hệ về lợi ích kinh tế.
4. Nông nghiệp là ngành cung cấp một khối lượng hàng hoá lớn để xuất
khẩu
Nông sản dưới dạng thô hoặc qua chế biến là bộ phận hàng hoá xuất
khẩu chủ yếu của hầu hết các nước đang phát triển ở thời kỳ đầu. Theo quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, tỷ lệ nông sản xuất khẩu nhất là
9
xuất khẩu thô có xu hướng giảm xuống nhưng thường vẫn tăng lên về giá trị
tuyệt đối. Vì vậy, trong giai đoạn đầu của sự phát triển, ở nhiều nước nông
nghiệp trở thành ngành xuất khẩu chủ yếu tạo ra tích luỹ để tái sản xuất và
phát triển nền kinh tế quốc dân.
5. Nông nghiệp là khu vực cung cấp lao động phục vụ công nghiệp và các
lĩnh vực hoạt động xã hội khác
Đây là xu hướng có tính quy luật trong phân công lao động lại xã hội.
Tuy vậy, yêu cầu chuyển lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực khác phụ
thuộc vào nhiều nhân tố: trước hết là năng suất lao động nông nghiệp phải
không ngừng tăng lên, công nghiệp và dịch vụ ở thành thị ngày càng mở rộng,
chất lượng nguồn lao động ở nông thôn phải được nâng cao.
6. Nông nghiệp là ngành có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái
Quá trình phát triển nông nghiệp gắn liền với sử dụng thường xuyên đất
đai, nguồn nước, các loại hoá chất..., đồng thời việc trồng và bảo vệ rừng, luân
canh cây trồng, phủ xanh đất trống đồi trọc...đều có ảnh hưởng lớn đến môi
trường. Phải thấy rằng việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường
sinh thái còn là điều kiện để quá trình tái sản xuất nông nghiệp diễn ra bình
thường có hiệu quả.
III. Kinh nghiệm xây dựng về một số chính sách đầu tư nông nghiệp từ
một số nước
1. Chính sách đầu tư cho nghiên cứu triển khai nông nghiệp, nhằm giúp
nông dân các kiến thức sản xuất và tiếp cận thị trường nông sản trong và
ngoài nước.
(Đây là một trong những chính sách tác động trực tiếp đến sản xuất nông
nghiệp)
Chính sách này được thể hiện qua việc đầu tư của Chính phủ vào công
tác nghiên cứu và triển khai nông nghiệp. Số liệu của R.F.EVernon cho thấy ở
các nước đâng phát triển mức chi bình quân cho một cán bộ nghiên cứu nông
nghiệp vào năm 1980 là khoảng 40000USD, chi bình quân cho một cán bộ
triển khai khoảng 2000-10000USD; còn ở các nước phát triển, công nghiệp
hoá mức chi tương ứng: nghiên cứu 93000USD và triển khai là 29000USD.
Trong số các nước đang phát triển, Thái Lan là một điển hình tốt về chính
sách này. Nhà nước chú trọng xây dựng các trạm trại nghiên cứu nông nghiệp.
Chính phủ đã chi cho công tác nghiên cứu triển khai nông nghiệp lớn hơn 1,7
10
lần so với công tác nghiên cứu và sử dụng quỹ này một cách tập trung có hiệu
quả vào các cây trồng phục vụ xuất khẩu và có giá trị chiến lược đối với nền
kinh tế. Cục triển khai nông nghiệp Thái Lan (DOEA) là cơ quan khuyến nông
rất có hiệu quả của Nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động triển khaiđể
thực hiện chính sách đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp DOEA không chỉ triển
khai thông qua tham quan, đào tạo mà còn sản xuất một khối lượng các hạt
giống mới cho nông dân trong hầu hết các vụ chính. Chính sách nghiên cứu và
triển khai nông nghiệp ở Thái lan có tác động lâu dài đến sự thay đổi về năng
suất nông nghiệp. Một trong những kinh nghiệm hay của Thái Lan là Chính
phủ đã lôi kéo, thu hút được đông đảo tư nhân tham gia vào các chương trình
khuyến nôngnhằm tạo ra các mô hình trồng trọt hỗn hợp, canh tác đa dạng.
Điều đáng lưu ý là các nguồn kinh phí cho nghiên cứu trong nông
nghiệp được Nhà nước tài trợ liên tục, ổn định trong nhiều năm. Điều đó rất
quan trọng đảm bảo cho sự triển khai có hiệu quả của cơ quan khuyến nông
Thái Lan (DOEA).
2. Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho kinh tế nông thôn
(Đây là một trong những chính sách tác động gián tiếp lên sản xuất nông
nghiệp và kinh tế nông thôn)
Từ những kinh nghiệm chung của nhiều nước, giáo sư Ran-dolph
Barker đã tổng kết rằng: trong suốt thời kỳ quá độ chuyển nền kinh tế từ nông-
công nghiệp sang n