Trong giai  đoạn  2001-2010, mặc dù  bối  cảnh  kinh tế  trong nước  và
quốc  tế  có  nhiều  biến  động bất  lợi, song Việt  Nam vẫn  đạt được một  số  thành
tựu  quan trọng  về  phát triển  kinh tế  xã  hội. Tốc  độ  tăng trưởng  GDP bình
quân giai  đoạn  2001-2010 là  7,2%, cao hơn tốc  độ  tăng trưởng  chung của
nhiều  nước  trong khu vực.  Có thể nói một trong những  nhân tố  quan trọng
góp  phần  đạt  được tốc  độ  tăng trưởng  này  là  Việt  Nam  đã khơi thông được 
các nguồn lực tài chính trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển và thực hiện 
các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đặt ra.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 11 trang
11 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2395 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đổi mới đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỔI MỚI ĐẦU TƯ CÔNG Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 
 TS. Vũ Nhữ Thăng 
Viện Chiến lược và Chính sách tài chính 
 Bộ Tài chính 
1. Thực trạng đầu tư công giai đoạn 2001-2010 
Trong giai đoạn 2001-2010, mặc dù bối cảnh kinh tế trong nước và 
quốc tế có nhiều biến động bất lợi, song Việt Nam vẫn đạt được một số thành 
tựu quan trọng về phát triển kinh tế xã hội. Tốc độ tăng trưởng GDP bình 
quân giai đoạn 2001-2010 là 7,2%, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của 
nhiều nước trong khu vực. Có thể nói một trong những nhân tố quan trọng 
góp phần đạt được tốc độ tăng trưởng này là Việt Nam đã khơi thông được 
các nguồn lực tài chính trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển và thực hiện 
các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đặt ra. 
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế và vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 
1991-2010 so với GDP (giá hiện hành). 
Giai đoạn Tốc độ tăng trưởng 
GDP (%) 
Tỷ lệ vốn đầu tư toàn 
xã hội so với GDP (giá 
hiện hành) 
1991-1995 8,21 28,2 
1996-2000 7,00 33,3 
2001-2005 7,49 39,1 
2006-2010* 6,90 42,7 
Nguồn: TCTK. *Số năm 2010 là số ước thực hiện. 
Tổng mức đầu tư toàn xã hội trong 10 năm qua liên tục tăng và duy trì 
ở mức cao. Tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đã tăng từ 35,4% năm 
2001 lên dự kiến khoảng 41% năm 2010. Trong đó, bình quân giai đoạn 
2001-2005 là 39,1%, giai đoạn 2006-2010 ước vào khoảng là 42,7%. Tính 
chung cả giai đoạn 2001-2010, tổng đầu tư xã hội bình quân đạt xấp xỉ 41% 
GDP, cao hơn so với mục tiêu đề ra và cao hơn so với mức 30,7% GDP giai 
đoạn 1991-2000 (Bảng 1). 
Hình 1: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2001-2010 
 2
Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCTK và Bộ Tài chính. 
Trong cơ cấu đầu tư toàn xã hội, đầu tư của khu vực công có một vị trí 
khá quan trọng. Bình quân giai đoạn 2001-2010, chiếm 45,7% tổng vốn đầu 
tư phát triển toàn xã hội. Đầu tư của khu vực công bao gồm các nguồn chủ 
đạo là: đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN), đầu tư tín dụng Nhà nước, đầu 
tư từ các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trong đó đầu tư của NSNN và từ 
các DNNN chiếm trên 75% đầu tư của khu vực công (Hình 1). Cụ thể như 
sau: 
 Vốn đầu tư từ NSNN giai đoạn 2001-2010 chiếm khoảng 51% tổng vốn 
đầu tư của khu vực Nhà nước và bằng khoảng 23% tổng vốn đầu tư 
toàn xã hội. Tính theo tỷ lệ trên GDP, vốn đầu tư từ NSNN trong giai 
đoạn 2001-2010 lên đến 9,45%1. 
Từ năm 2003, để tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, 
việc đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu được triển khai thực hiện. Đối 
tượng được đầu tư bằng nguồn trái phiếu Chính phủ là một số dự án 
quan trọng, thiết yếu thuộc các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế, giáo 
dục và các dự án quan trọng đối với nền kinh tế, cần đầu tư song chưa 
thể cân đối trong kế hoạch đầu tư hàng năm. Bình quân giai đoạn 2006-
2010, tổng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ thực hiện ước bằng khoảng 
5,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. 
 Vốn tín dụng đầu tư giai đoạn 2001-2010 ước chiếm khoảng 22,6% 
tổng vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước, tương đương khoảng 4,2% GDP. 
1 Bao gồm cả nguồn vốn trái phiếu Chính phủ 
 3
Nguồn vốn tín dụng nhà nước trong thời gian qua đã được tập trung hỗ 
trợ cho các doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư, hỗ trợ tín dụng xuất 
khẩu, xúc tiến đầu tư, phát triển các ngành then chốt như đóng tàu, 
điện, nước... nhằm góp phần nâng cao tiềm lực của doanh nghiệp, nâng 
cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. 
 Tỷ trọng đầu tư của khu vực DNNN trong tổng vốn đầu tư nhà nước 
tuy có giảm trong những năm gần đây, song vẫn là nguồn vốn quan 
trọng. Bình quân giai đoạn 2001-2010, tổng vốn đầu tư của các tập 
đoàn, doanh nghiệp và tổng công ty Nhà nước chiếm khoảng 25,4% 
tổng vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước. Nhờ đó, khu vực DNNN đã phát 
huy được vai trò đầu tàu trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành kinh tế quan 
trọng. 
Hình 2: Cơ cấu vốn đầu tư nhà nước giai đoạn 2001-2010 (%). 
Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCTK và Bộ Tài chính 
Đánh giá về kết quả thực hiện đầu tư công giai đoạn 2011-2020, có thể 
rút ra một số nhận định sau: 
Thứ nhất, đầu tư từ khu vực nhà nước đã trở thành một động lực quan 
trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng và quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh 
tế thời gian qua, tạo ra các tác động lan tỏa lớn, nhất là các dự án phát triển 
kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng.... Đầu tư Nhà nước đã phát huy vai 
trò đặc biệt quan trọng trong những giai đoạn kinh tế khó khăn, đầu tư từ các 
khu vực khác suy giảm (ví dụ như giai đoạn 2008-2009). 
 4
Thứ hai, cơ cấu đầu tư công đã có một số chuyển biến theo chiều 
hướng tích cực. Đã tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng, góp phần tích cực 
cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xử lý bất hợp lý 
vùng miền; đã chú trọng đầu tư cho các ngành nghề có lợi thế cạnh tranh 
trong nền kinh tế. Ngân sách nhà nước cũng đã tập trung nhiều hơn cho đầu tư 
phát triển con người, nâng cao trình độ lực lượng lao động. Cụ thể, trong tổng 
mức đầu tư phát triển từ NSNN, đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng chiếm 
một tỷ trọng khá lớn. Bình quân giai đoạn 2001-2010, chi cho đầu tư xây 
dựng cơ bản chiếm trên 90% tổng chi đầu tư phát triển từ NSNN. Nguồn lực 
NSNN đã được tập trung cho việc phát triển các dự án hạ tầng thiết yếu trong 
nền kinh tế, các dự án không có khả năng hoàn vốn trực tiếp. 
Thứ ba, đã hình thành được bộ khung pháp luật tương đối đồng bộ để 
điều chỉnh các hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư nhà nước nói riêng. Hệ 
thống pháp luật liên quan đến đầu tư đến nay cơ bản đã bao quát được hầu hết 
hoạt động đầu tư từ khu vực nhà nước. 
2. Một số vấn tồn tại trong đầu tư công hiện nay 
Tuy đạt được các kết quả tích cực nói trên, song thực tiễn đầu tư phát 
triển cơ sở hạ tầng thời gian qua cũng đã chỉ ra một số vấn đề tồn tại, vướng 
mắc cần được tiếp tục tháo gỡ trong thời gian tới. Những tồn tại chủ yếu là: 
Thứ nhất, đầu tư từ NSNN còn dàn trải2; hiệu quả đầu tư một số công 
trình hạ tầng chưa cao. Hệ số ICOR có xu hướng tăng lên trong những năm 
gần đây. Nếu như hệ số ICOR của giai đoạn 1996-2000 tính theo giá hiện 
hành là 4,7 thì sang giai đoạn 2001-2005 hệ số này trung bình là 5,1 và giai 
đoạn 2006-2010 tăng lên 6,1. Nguyên nhân làm cho ICOR của Việt Nam cao 
một phần là do Việt Nam đang trong giai đoạn tập trung đầu tư cho hạ tầng cơ 
sở, bao gồm cả hạ tầng cơ sở ở vùng sâu, vùng xa và đầu tư cho xoá đói giảm 
nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, so với các quốc gia khác đã trải 
qua giai đoạn phát triển tương đồng như Việt Nam thì hệ số ICOR của Việt 
Nam hiện nay vẫn ở ngưỡng cao (Bảng 2). Điều này một mặt cho thấy mô 
hình tăng trưởng của Việt Nam đang chủ yếu dựa vào vốn đầu tư, mặt khác 
2 Năm 2010, các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương phân bổ vốn NSNN cho 
tổng số 16.658 dự án, nhiều hơn năm 2009 khoảng 850 dự án; số vốn bình quân phân bổ 
cho một dự án là gần 7 tỷ đồng; vốn bình quân phân bổ cho dự án nhóm A ở Trung ương 
năm 2010 xấp xỉ 115 tỷ đồng, chỉ bằng 46% mức bố trí năm 2007. 
 5
thể hiện hiệu quả đầu tư trên một số còn hạn chế. Trong giai đoạn 2001-2010, 
tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP (giá hiện hành) đã tăng đáng kể so 
với giai đoạn trước đó. Nếu như bình quân giai đoạn 1991-1995, tỷ lệ này là 
28,2% thì sang giai đoạn 1996-2010 tăng lên 33,2%, và sau đó giai đoạn 
2001-2005 là 39,1% và giai đoạn 2006-2010 ước vào khoảng 41%. Việc tăng 
trưởng quá dựa vào vốn sẽ đặt nền kinh tế nước ta trong thời gian tới trước 
một số thách thức nhất định. Bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới hiện vẫn 
còn tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường có khả năng ảnh hưởng đến việc huy 
động nguồn vốn để duy trì tổng mức đầu tư toàn xã hội như giai đoạn 10 năm 
qua. Khi đó, việc duy trì mức đầu tư cao cho tăng trưởng GDP cao chắc chắn 
sẽ gặp khó khăn. 
Bên cạnh đó, đầu tư phát triển con người, đầu tư cho một số lĩnh vực 
như y tế, giáo dục - đào tạo trong 10 năm qua tuy đã được quan tâm hơn so 
với trước song chưa tạo được sự chuyển biến tương xứng về chất lượng cung 
cấp dịch vụ. Chi đầu tư cho nghiên cứu khoa học có tăng nhưng hiệu quả ứng 
dụng các kết quả nghiên cứu chưa tương xứng. 
Bảng 2: ICOR của một số nước trong khu vực 
Quốc gia Giai đoạn Tăng trưởng 
GDP (%) 
Tỷ lệ đầu 
tư/GDP (%) 
ICOR 
Hàn Quốc 1961-1980 7,9 23,3 3,0 
Đài Loan 1961-1980 9,7 26,2 2,7 
Indonesia 1981-1996 6,9 25,7 3,7 
Thái Lan 1981-1995 8,1 33,3 4,1 
Trung Quốc 2001-2006 9,7 38,8 4,0 
Nguồn: Trích dẫn từ David Dapice và các cộng sự (2008). 
Thứ hai, cơ chế khuyến khích thu hút đầu tư tư nhân còn chưa có sự 
đột phá mạnh, vì thế sự tham gia của khu vực tư nhân vào đầu tư phát triển 
còn hạn chế, nhất là trong việc đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế. Tỷ trọng đầu 
tư của khu vực Nhà nước trong tổng mức đầu tư toàn xã hội tuy có giảm so 
với trước song vẫn còn ở mức cao. Điều này đã làm cho NSNN không có đầy 
đủ điều kiện để thực hiện các nhiệm vụ chi quan trọng khác như chi cho đầu 
tư phát triển con người, chi cho giáo dục, y tế. Bên cạnh đó, chi NSNN cho 
 6
đầu tư chưa phát huy được vai trò “vốn mồi” để thu hút sự tham gia đầu tư 
của các thành phần kinh tế khác. 
Thứ ba, cơ cấu đầu tư từ khu vực Nhà nước vẫn còn một số bất hợp lý. 
Về nguyên tắc, đầu tư của Nhà nước chỉ nên tập trung vào việc phân bổ các 
nguồn lực trong xã hội cho các lĩnh vực mà cơ chế thị trường không thể hoạt 
động hoặc hoạt động không hiệu quả. Song trên thực tế, đầu tư của nhà nước 
của nước ta vẫn còn tập trung vào một số ngành mà khu vực tư nhân có khả 
năng và sẵn sàng đầu tư. Trong khi đó, đầu tư vào các ngành công nghệ cao, 
các ngành có khả năng dẫn dắt chuyển đối cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại 
còn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên 
nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là chưa hình thành được các tiêu 
chí cụ thể trong việc xác định “tính ưu tiên” trong các dự án đầu tư. Nhiều dự 
án được thực hiện song lại chưa tuân thủ theo các mục tiêu cần thực hiện 
trong phát triển kinh tế xã hội chung. 
Việc phân bổ vốn đầu tư từ NSNN còn dàn trải, số vốn bình quân phân 
bổ cho các dự án hàng năm thấp3. Việc phân bổ vốn dàn trải dẫn tới tình trạng 
nhiều dự án bị kéo dài tiến độ, chậm đưa vào sử dụng, làm gia tăng chi phí 
đầu tư. Hơn nữa, cơ cấu đầu tư theo vùng miền còn chưa hợp lý. Nhiều địa 
phương có xu hương muốn hướng đến một cơ cấu đầu tư tương tự nhau, hơn 
là hình thành một cơ cấu đầu tư nhằm phát huy lợi thế so sánh của từng địa 
phương. Chất lượng xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển ở nhiều ngành 
trong một số khâu còn yếu, dẫn tới hiệu quả đầu tư một số công trình, dự án 
chưa cao. 
Hiệu quả của việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực trong các DNNN 
cũng chậm được cải thiện. Khu vực DNNN đang được ưu tiên sử dụng rất 
nhiều nguồn lực như vốn, tài nguyên và vị thế kinh doanh. Một số lĩnh vực 
kinh doanh DNNN đang chiếm vị thế độc quyền. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt 
động của DNNN lại không tương xứng với những nguồn lực được ưu tiên đó. 
Tình trạng thất thoát và lãng phí đầu tư trong các doanh nghiệp, tổng công ty 
và tập đoàn kinh tế nhà nước chưa có giải pháp xử lý hữu hiệu. Nhiều doanh 
3 Năm 2010, các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương phân bổ vốn NSNN cho tổng 
số 16.658 dự án, nhiều hơn năm 2009 khoảng 850 dự án; số vốn bình quân phân bổ cho 
một dự án là gần 7 tỷ đồng; vốn bình quân phân bổ cho dự án nhóm A ở Trung ương năm 
2010 xấp xỉ 115 tỷ đồng, chỉ bằng 46% mức bố trí năm 2007. 
 7
nghiệp sử dụng vốn đầu tư vào các ngành, nghề, lĩnh vực không thuộc lĩnh 
vực hoạt động kinh doanh chính, dẫn đến hiệu quả thấp hoặc thua lỗ. Điều 
này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song có nguyên nhân là chậm bổ sung 
chế tài để hướng các doanh nghiệp ưu tiên, tập trung nguồn lực cho phát triển 
các hoạt động kinh doanh chính theo nhiệm vụ chính được giao. 
Thứ tư, việc giám sát, kiểm tra thực hiện chưa được chú trọng đúng 
mức. Tuy đã thực hiện phân cấp mạnh trong cơ chế quản lý vốn đầu tư song 
chế độ thông tin báo cáo, kiểm tra, giám sát trong một số khâu chưa được điều 
chỉnh tương xứng nên công tác thống kê, tổng hợp, đánh giá gặp nhiều khó 
khăn. 
3. Định hướng đổi mới đầu tư công giai đoạn 2011-2020 
Nhu cầu nguồn lực cần có cho đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế xã hội 
giai đoạn 10 năm tới là rất lớn. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng được xác định 
là một trong ba đột phá quan trọng trong dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế 
xã hội 2011-2020. Trong điều kiện nguồn lực huy động là có giới hạn, việc 
nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính, nhất là 
nguồn vốn nhà nước phải được xem là chìa khoá quan trọng. Đối với tài chính 
nhà nước, huy động và phân bổ nguồn lực phải tập trung những lĩnh vực và 
khu vực mà việc phân bổ nguồn lực của tài chính phi nhà nước không thể hoạt 
động hoặc hoạt động không hiệu quả (ví dụ, xử lý các “thất bại của thị 
trường”). Bên cạnh đó, để tối đa hóa lợi ích thu được, việc phân bổ và sử 
dụng nguồn lực tài chính phải hướng vào việc thực hiện các ưu tiên chiến 
lược (các đột phá) của nền kinh tế trong từng giai đoạn . Việc xác định “thứ tự 
ưu tiên” phải được xem là một trong những yêu cầu cốt lõi trong việc nâng 
cao hiệu quả của đầu tư nhà nước trong thời gian tới. Đồng thời trong phân bổ 
và sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước cho đầu tư cần phải đảm bảo tuân 
thủ tính kỷ luật tài khoá, hiệu quả và hiệu lực tài chính; coi trọng tính minh 
bạch và công khai. 
Theo đó, các giải pháp đặt ra trong việc nâng cao hiệu quả đầu tư nhà 
nước cho giai đoạn 10 năm tới là: 
(1) Nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính nhà nước 
trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội 
 8
- Từng bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng giảm dần tỷ trọng 
đầu tư nhà nước, chỉ tập trung vốn đầu tư nhà nước phát triển cơ sở hạ tầng 
kinh tế thiết yếu, không có khả năng thu hồi vốn hoặc mức độ thu hồi vốn 
thấp, rủi ro cao, dịch vụ công quan trọng, một số ngành sản xuất then chốt, 
đóng vai trò chủ đạo và những lĩnh vực mà tư nhân không thể hoặc chưa thể 
thực hiện được. 
- Phân định rõ nội dung, phạm vi đầu tư giữa trung ương và địa phương 
thông qua việc đẩy mạnh phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng cho các địa 
phương. Nguyên tắc chung là những việc mà địa phương không thực hiện 
được hoặc thực hiện không hiệu quả thì mới để trung ương thực hiện nhằm 
tạo ra sự chủ động cho địa phương. Nghiên cứu hình thành cơ chế mở cho tất 
cả các địa phương trong thu hút các nguồn lực cho phát triển phù hợp với quy 
hoạch, năng lực và tài lực của từng địa phương. 
- Phát huy vai trò định hướng của đầu tư nhà nước để thu hút nguồn 
vốn đầu tư của xã hội. Coi nguồn đầu tư nhà nước là “vốn mồi” đề thu hút các 
nguồn lực xã hội, đầu tư của khu vực tư nhân đầu tư vào nâng cấp kết cấu hạ 
tầng kinh tế, đặc biệt là hệ thống giao thông. Tạo điều kiện bình đẳng trong 
đấu thầu xây dựng và thực hiện các công trình, dự án đầu tư bằng vốn ngân 
sách trên cơ sở hiệu quả cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. 
- Ưu tiên tập trung sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước cho xây dựng, 
nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; tập trung nâng cấp phát triển hạ tầng 
giao thông tại vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị, các trục giao thông huyết 
mạch liên kết các vùng kinh tế trọng điểm, phát triển trục giao thông Bắc – 
Nam4. 
 (3) Nâng cao hiệu quả phân bổ, sử dụng nguồn lực đầu tư Nhà nước 
- Nghiên cứu sửa đổi Luật ngân sách nhà nước cho phù hợp với yêu cầu 
cải cách và quản lý theo hướng tăng nguồn lực cho ngân sách địa phương để 
chủ động thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội, cùng với tăng cường trách 
nhiệm trong quản lý nguồn lực tài chính của chính quyền địa phương và các 
cơ quan, đơn vị trong việc sử dụng nguồn lực được giao. 
 4 Theo Quyết định số 35/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt 
điều chỉnh Chiến lược phát triển giao thông vận tải đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, 
NSNN cần tăng mức đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông hàng năm đạt 3,5-4,5% GDP. 
 9
- Hoàn thiện khung pháp lý về phân công, phân cấp và hệ thống phân 
bổ NSNN. Xây dựng nguyên tắc, căn cứ lập dự toán chi đầu tư phát triển, bố 
trí vốn, thanh toán và quyết toán vốn nhằm đảm bảo tập trung vốn đầu tư 
hoàn thành công trình theo kế hoạch tài chính trung hạn và tiến độ công trình, 
giảm dần và tiến tới xóa bỏ tình trạng phân chia bình quân và dàn mỏng 
nguồn lực, qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng. 
- Nghiên cứu xây dựng hệ thống các tiêu chí xác định các ưu tiên ngân 
sách cũng như xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả chi ngân sách. 
Trên cơ sở đó thực hiện phân loại các nhiệm vụ chi theo thứ tự ưu tiên để bảo 
đảm kinh phí thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra. 
- Hoàn thiện khung pháp lý để xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn 
và kế hoạch chi tiêu trung hạn, xem kế hoạch chi đầu tư là một cấu phần của 
kế hoạch tài chính - ngân sách trung hạn, đảm bảo chi đầu tư công được giới 
hạn trong khả năng nguồn lực và thống nhất với các ưu tiên chính sách của 
Chính phủ. Qua đó, đảm bảo việc phân bổ nguồn lực hàng năm được định 
hướng vào các mục tiêu kinh tế - xã hội trong trung và dài hạn, tăng cường 
tính tiên đoán, chủ động, tính hệ thống trong phân bổ nguồn lực. 
 (4) Đổi mới cơ chế tín dụng đầu tư nhà nước 
Đầu tư bằng tín dụng nhà nước phải gắn liền với nâng cao hiệu quả sử 
dụng và đảm bảo khả năng trả nợ. Đổi mới phương thức phát triển tín dụng 
nhà nước theo nguyên tắc thương mại (tín dụng nhà nước chỉ khắc phục 
những bất cập do thiếu hoặc không đảm bảo các điều kiện về tài sản cầm cố, 
thế chấp, hoặc do qui mô vay vốn quá lớn, thời hạn dài…) nhằm nâng cao kỷ 
cương, kỷ luật tài chính và đảm bảo tính bền vững. 
(5) Thu hút có hiệu quả, đa dạng hoá các nguồn lực trong xã hội để 
đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội 
- Đổi mới và hoàn thiện các cơ chế, chính sách khuyến khích mọi thành 
phần kinh tế đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Nghiên cứu mở rộng việc áp 
dụng hình thức bán hoặc chuyển nhượng quyền quản lý, khai thác có thời hạn 
một số công trình cơ sở hạ tầng để huy động nguồn vốn của xã hội cho đầu tư 
phát triển cơ sở hạ tầng. 
- Triển khai có hiệu quả Quyết định soó 71/2010/QĐ-TTg của Thủ 
tướng Chính phủ về quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công ty. 
 10
- Tạo hành lang pháp lý đẩy mạnh mô hình quỹ đầu tư phát triển địa 
phương để góp phần huy động và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã 
hội địa phương. 
- Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách “xã hội hóa” đầu tư trong một số 
lĩnh vực như y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao để một mặt tăng thêm nguồn 
vốn đầu tư, mặt khác cũng tăng tính cạnh tranh trong cung cấp sản phẩm dịch 
vụ, xóa bỏ dần thế độc quyền qua đó người dân có cơ hội được tiếp cận với 
một chất lượng của dịch vụ ngày càng cao. 
(6) Đổi mới phương thức quản lý đầu tư công, tăng cường công khai 
minh bạch trong hoạt động đầu tư công; nâng cao hiệu quả công tác giám 
sát, kiểm toán hoạt động đầu tư công 
- Thực hiện đổi mới phương thức quản lý đầu tư công, trong đó cần đặc 
biệt coi trọng nguyên tắc công khai minh bạch và giám sát độc lập. 
- Nâng cao hiệu quả của công tác công khai ngân sách nói chung cũng 
như chi ngân sách nhà nước cho đầu tư công nói riêng. 
- Tăng cường quản lý, giám sát, nâng cao hiệu quả đầu tư nguồn vốn 
NSNN. Đảm bảo hiệu quả đầu tư nhà nước từ xác định chủ trương, lập và 
duyệt dự án đến thực hiện dự án. Đề cao trách nhiệm giám sát của Quốc hội 
đối với các công trình trọng điểm quốc gia, của HĐND đối với các dự án đầu 
tư trên địa bàn; tăng cường giám sát cộng đồng, hoàn thiện cơ chế để người 
dân kiểm tra công việc có liên quan đến ngân sách, đất đai, tài sản của nhà 
nước. 
Tóm lại, hoạt động đầu công trong giai đoạn 2001-2010 đã có sự tăng 
trưởng nhanh, cơ cấu đầu tư cũng đã có bước chuyển tích cực qua đó góp 
phần quan trọng vào việc duy trì tăng trưởng và ổn định kinh tế tế vĩ mô và 
tăng cường xoá đó