Việc đổi mới nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu
bao cấp sang nền thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa mà Đảng cộng sản Việt Nam đã lựa chọn từ đại hội Đảng VI (1996) đang từng
bước thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Thực tiễn tình hình kinh tế của nước
ta trong những năm qua cho thấy công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam đang đi trên
con đường đúng đắn. Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đang dần
dần thu được những thành quả đáng chú ý. Từ một nước phải nhập khẩu gạo trong
những năm đầu giải phóng đất nước, đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong ba
nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, sánh vai cùng với Mỹ và Thái Lan. Quan hệ
thương mại của nước ta cũng ngày càng được mở rộng với chủ trường “ Việt Nan
muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Nước ta nhập WTO tổ chức thương
mại thế giới – và đến khi đó thì nền kinh tế của Việt Nam sẽ có những bước tiến mới,
hứa hẹn một sự tăng trưởng cao. Không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà trong những
ngành khoa học cơ bản cũng dần dần được đầu tư thích đáng hơn và có sự chú ý hơn
của Nhà nước, bằng chứng là ngân sách Nhà nước cho những ngành này đã tăng lên
đáng kể so với những năm đầu thập kỷ 90. Để đạt được những thành tích đáng kể như
vậy ngoài sự nỗ lực gồng mình trong xu thế hội nhập với thế giới để không trở thành
“kể bị đào thải” thì một trong những điều kiện quan trọng để đưa nước ta có được vị
thế dần dần được khẳng định trong khu vực là do Đảng và Nhà nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã kiên trì đường lối lãnh đạo, quán triệt tư tưởng của chủ nghĩa
Mác – Lênin, coi đó là nền tảng tư tưởng và làm kim chỉ nam cho mọi lý luận khoa
học và xã hội mặc dầu đã có không ít những sự nghi ngờ, dèm pha về chủ nghĩa Mác –
Lênin, đặc biệt khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Trong quá trình lãnh đạo đất
nước để thực hiện mục tiêu “ dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”, tiến
lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã kiên định đường lỗi lãnh đạo, kế thừa và phát huy chủ
nghĩa Mác – Lênin và biết áp dụng thực tiễn phép biện chứng của Mác – xít một cách
linh hoạt trong những đường lối, định hướng, chính sách hoạch định phát triển kinh tế
xã hội khẳng định việc đổi mới nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn - trong
đó chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin luôn là nền tảng vững chắc là kim chỉ
nam dẫn đường.
Nhận thức tầm quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác Lênin, đặc
biệt là phép phù định biện chứng đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam, và đây
cũng là những lý luận cơ bản mà mỗi học sinh khi bước chân vào giảng đường đại học
cần phải nắm được, Bộ môn Triết học Mác Lênin – trong Đại học Kinh tế Quốc dân đã
có chủ trương cho sinh viên nghiên cứu và ngoài những giời giảng dậy trên lớp, bộ
môn đã nâng lên thành một đề tài nghiên cứu khoa học cho sinh viên. Trong quá trình
nghiên cứu đề tài, em rất vui khi được tiếp xúc với những lý luận cơ bản và cần thiết
và rất vui mừng khi được nâng cao kiến thức với một đề tài “Đổi mới kinh tế việt nam
với phép phủ định biện chứng”
30 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1976 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đổi mới kinh tế Việt Nam với phép phủ định biện chứng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đổi mới kinh tế việt nam với
phép phủ định biện chứng
Lời nói đầu
Việc đổi mới nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu
bao cấp sang nền thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa mà Đảng cộng sản Việt Nam đã lựa chọn từ đại hội Đảng VI (1996) đang từng
bước thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Thực tiễn tình hình kinh tế của nước
ta trong những năm qua cho thấy công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam đang đi trên
con đường đúng đắn. Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đang dần
dần thu được những thành quả đáng chú ý. Từ một nước phải nhập khẩu gạo trong
những năm đầu giải phóng đất nước, đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong ba
nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, sánh vai cùng với Mỹ và Thái Lan. Quan hệ
thương mại của nước ta cũng ngày càng được mở rộng với chủ trường “ Việt Nan
muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Nước ta nhập WTO tổ chức thương
mại thế giới – và đến khi đó thì nền kinh tế của Việt Nam sẽ có những bước tiến mới,
hứa hẹn một sự tăng trưởng cao. Không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà trong những
ngành khoa học cơ bản cũng dần dần được đầu tư thích đáng hơn và có sự chú ý hơn
của Nhà nước, bằng chứng là ngân sách Nhà nước cho những ngành này đã tăng lên
đáng kể so với những năm đầu thập kỷ 90. Để đạt được những thành tích đáng kể như
vậy ngoài sự nỗ lực gồng mình trong xu thế hội nhập với thế giới để không trở thành
“kể bị đào thải” thì một trong những điều kiện quan trọng để đưa nước ta có được vị
thế dần dần được khẳng định trong khu vực là do Đảng và Nhà nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã kiên trì đường lối lãnh đạo, quán triệt tư tưởng của chủ nghĩa
Mác – Lênin, coi đó là nền tảng tư tưởng và làm kim chỉ nam cho mọi lý luận khoa
học và xã hội mặc dầu đã có không ít những sự nghi ngờ, dèm pha về chủ nghĩa Mác –
Lênin, đặc biệt khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Trong quá trình lãnh đạo đất
nước để thực hiện mục tiêu “ dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”, tiến
lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã kiên định đường lỗi lãnh đạo, kế thừa và phát huy chủ
nghĩa Mác – Lênin và biết áp dụng thực tiễn phép biện chứng của Mác – xít một cách
linh hoạt trong những đường lối, định hướng, chính sách hoạch định phát triển kinh tế
xã hội khẳng định việc đổi mới nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn - trong
đó chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin luôn là nền tảng vững chắc là kim chỉ
nam dẫn đường.
Nhận thức tầm quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác Lênin, đặc
biệt là phép phù định biện chứng đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam, và đây
cũng là những lý luận cơ bản mà mỗi học sinh khi bước chân vào giảng đường đại học
cần phải nắm được, Bộ môn Triết học Mác Lênin – trong Đại học Kinh tế Quốc dân đã
có chủ trương cho sinh viên nghiên cứu và ngoài những giời giảng dậy trên lớp, bộ
môn đã nâng lên thành một đề tài nghiên cứu khoa học cho sinh viên. Trong quá trình
nghiên cứu đề tài, em rất vui khi được tiếp xúc với những lý luận cơ bản và cần thiết
và rất vui mừng khi được nâng cao kiến thức với một đề tài “Đổi mới kinh tế việt nam
với phép phủ định biện chứng”.
A.Cơ sở lý luận
Phần I: quy luật phủ định và phủ định
I. Khái niệm phủ định biện chứng và những đặc điểm của nó
1. Khái niệm
Triết học Mác thấy rõ sự chuyển hoá từ những thay đổi thành những thay đổi về
vật chất, sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ
mất đi và sự vật mới ra đời. Mỗi sự thay thế ấy làm thành một mắt khâu trong sợi dây
xích phát của hiện thực và của sự tư duy. Sự ra đời của cái mới là kết quả của sự phủ
định cái cũ, cái lỗi thời. Sự phủ định trong tự nhiên lẫn trong xã hội là sự phủ định làm
mất đi cái cũ và xuất hiện cái mơí, tiến bộ hơn.Sự phủ định như vậy là hình thức giải
quyết các mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật bị phủ định. Từ những sự nhận đinh
trên chủ nghĩa duy vật đã đưa ra khái niệm: Phủ định biện chứng là quá trình tự thân
vận động phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của
cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.
2. Đặc điểm
Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản
+ Thứ nhất, nó mang tính khách quan, là điều kiện của sự phát triển.
Phủ định biện chứng là quá trình mang tính khách quan do mâu thuẫn của bản
thân sự vật tự quy định. Hơn nữa, phương thức phủ định sự vật cũng không tuỳ thuộc
ý muốn của con người. Khi đề cập tới vấn đề này, chúng ta lưu ý rằng, mỗi sự vật có
phương thức phủ định riêng, do đó mà có sự phát triển. Sự phủ định là kết quả hoạt
động của quy luật mâu thuẫn và quy luật lượng chất cũ và xuất phát từ xu hướng vận
động của sự vật, hiện tượng, từ chính trong nội lực của sự vật.
Nguyên nhân của sự chuyển hoá đó là do sự phát triển của mâu thuẫn bên trong
của sự vật do sự biến hoá của một số điều kiện bên trong nào đó làm cho một số đặc
trưng, đặc tính hoặc hình thức vốn có mất ý nghĩa tích cực đáng được khẳng định
trong quá trình phát triển mà trở thành những cái tiêu cực ngăn cản sự phát triển nhất
định, mọi sự vật mới có ý nghĩa tích cực mới là cái ngăn cản sự phát triển nhất định,
mọi sự vật mới có ý nghĩa tích cực mới là cái nên khẳng định vượt qua khỏi điều kiện
phát triển đó thì ý nghĩa tích cực của nó sẽ mất đi và chuyển thành cái tiêu cực, cái cần
phải phủ định. Vì vậy cần phải chuyển hoá sang mặt đối lập của nó, cần phải có đặc
trưng, đặc tính khác đối lập với bản thân nó, hoặc hình thức khác mới có thể phát triển
lên được nếu không thì sự phát triển sẽ gặp trở ngại, sẽ thành ra sai lầm hay lệch lạc.
+ Thứ hai, nó mang tính kế thừa là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới.
Kế thừa là việc cái mới ra đời từ cái cũ đã giữa lại trong đó những yếu tố tích
cực tiến bộ từ cái cũ tạo đi phù hợp với hoàn cảnh mới.
Phủ định biện chứng không phải là thủ tiêu, sự phá hoại hoàn toàn của cái bị
phủ định. Trái lại, để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định biện chứng bao
hàm trong đó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ định. Phủ định
biện chứng, do vậy, là sự phủ định mang tính kế thừa. Với ý nghĩa như vậy, phủ định
đồng thời là khẳng định. Diễn đạt tư tưởng đó, Lênin có viết “ không phải sự phủ định
sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự nghi ngờ là cái đặc
trưng và cái bản chất trong phép biện chứng... mà là sự phủ định coi như là vòng khâu
của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”.
Giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong sự ra
đời của cái mới. Thật ra, nó đã tham gia vào việc tạo ra cái hiện tại, nó tạo thành mối
liên hệ sống động trong thời gian. Một trong những hình thức quan trọng của cái được
kế thừa trong đời sống xã hội là truyền thống. Truyền thống là cái chứa đựng trong bản
thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái mới.
Trong qúa trình đổi mới hiện nay, chúng ta phải biết kế thừa những di sản tích
cực của dân tộc cũng như của thế giới. Nhưng có lúc, có nơi đã coi nhẹ việc khai thác
vốn quý báu của dân tộc, có quan điểm phủ định sạch trơn. Ngược lại, có lúc có nơi lại
phục hồi cả những phong tục tập quán đã lỗi thời, không biết đứng trên yêu cầu mới
của cách mạng mà cải biến và sử dụng những vốn cũ đó cho thích hợp.
II. Quy luật phủ định của phủ định và hình thức “xoáy ốc” của sự phát
triển.
1. Nội dung
Phủ định biện chứng nói lên một giai đoạn, một nấc thang trong quá trình phát
triển. Với tư cách là kết quả của “ phủ định lần thứ nhất”, cái mới cũng chứa đựng
trong bản thân mình xu hướng dẫn tới những lần phủ định tiếp theo – phủ định của phủ
định. Chỉ có thông qua phủ định của phủ định mới dẫn tới việc ra đời một sự vật, trong
đó có sự lặp lại một số đặc trưng cơ bản của cái xuất phát ban đầu nhưng trên cơ sở
cao hơn. Đến đây mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Khuynh hướn chung như vậy
của sự phát triển được khái quát thành nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ
định.
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng, như trên đã
nói, là sự thống nhất giữa loại bỏ, kế thừa và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng
được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới. Do đó, sự phát triển thông qua
những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng.
Đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định
chính là sự phát triển dường như quay lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn. Nói một
cách khái quát, qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một chu kỳ phát triển. Phủ
định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó là một bước trung gian trong sự
phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển. Sự
phát triển đi lên không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường “xoáy ốc”. Đề
cập đến con đường đó của sự phát triển biện chứng, Lênin viết. “ Sự phát triển hình
như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, một trình độ cao
hơn; sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng”.
Diễn tả quy luật phủ định bằng đường xoáy ốc chính là hình thức cho phép biểu
đạt được rõ ràng nhất các đặc trưng của qúa trình phát triển biện chứng: tính kế thừa,
tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính chất tiến lên của sự phát triển. Mỗi vòng
mới của đường xoáy ốc thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời
dường như quay lại cái đã qua, dường như lặp lại vòng trước. Sự tiếp nối nhau của các
vòng thể hiện tính vô tận của sự phát triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao.
Quy luật phủ định của phủ định diễn tả sự phát triển theo đường xoáy ốc thông
qua phủ định của phủ định nhưng cần tránh khuynh hướng hiểu sự phát triển một cách
máy móc. Số lượng cần phủ định trong một chu kỳ phát triển một cách máy móc. Số
lượng các lần phủ định trong một chu kỳ phát triển cụ thể trong thực tế có thể nhiều
hơn hai, điều đó tuỳ theo tính chất của một quá trình phát triển cụ thể, nhưng ít nhất
cũng phải hai lần.
Từ những lập luận trên đây, chúng ta có thể hiểu nội dung cơ bản của quy luật
phủ định của phủ định như sau: quy luật này nói lên mối liên hệ sự kế thừa giữa cái bị
phủ định, do sự kế thừa đó sự phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch
trơn bác bỏ tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển, nó duy trì
và giữ gìn nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lắp lại một số đặc điểm cơ bản
của cái xuất phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự phát có tính chất tiến lên
không phải theo đường thẳng mà là đường xoáy ốc.
2. ý nghĩa của quy luật phủ định của phủ định
Trong hoạt động lý luận cũng như trong thực tiễn, chúng ta cần lưu ý rằng cái
mới nhất định sẽ thay thế cái cũ, cái tiến bộ nhất sẽ chiến thắng cái lạc hậu, cái mới ra
đời từ cái cũ, nó kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Do đó, cần chống lại thái
độ phủ định sạch trơn cái cũ.
Trong khi đấu tranh với cái cũ, chúng ta vừa phải biết sàng lọc, biết giữ lấy
những gì tích cực là có giá trị của cái cũ, cải tạo cái cũ cho phù hợp với những điều
kiện mới; chống thái độ “ hư vô chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận lịch sự, đánh giá quá
khứ. Chẳng hạn trước tình trạng tam thời khủng hoangả thoái trào hiện nay của chế độ
XHCN ở Liên Xô cũ và Đông Âu không chỉ những kẻ chống cộng có cả một số người
vốn là Macxít cũng ra sức phủ nhận những thành quả to lớn của CNXH đã tạo dượng
được ở những nước đó. Họ không thấy rằng trong hơn 70 năm tồn tại, CNXH ở Liên
Xô đã để lại những giá trị tích cực có giá trị lâu dài đối với lịch sử toàn thế giới.
Phần II. Những lý luận về thị trường
I. Nền kinh tế kém phát triển mang tính tự cấp, tự túc
ền kinh tế tự nhiên là hình thái kinh tế đầu tiên trong tiến trình phát triển kinh tế
– xã hội của loài người. Nền kinh tế tự nhiên là loại hình kinh tế tiến hành sản xuất sản
phẩm để thoả mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất. Các mối quan hệ sản xuất
kinh tế đều mang hình thái quan hệ hiện vật. Đây là nền kinh tế thị trường có thị
trường là kiểu hệ thống kinh tế đặc thù mà ở đó nhà nước chính thức có quyền lực kinh
tế vô cùng to lớn, nhưng trong thực tế quyền lực đó là sự bác bỏ về việc tưởng một cái
gì đó là việc thực hiện tích cực một sự lựa chọn. Mọi hoạt động của kinh tế đều được
điều chỉnh bởi nhà nước, từ giá cả tất nhiên gồm cả giá ngoại hối và việc phân phối
hàng tiêu dùng.
II. Nền kinh tế hàng hoá.
Nền kinh tế hàng hoá là một bước ngoặt phát triển cao hơn của kinh tế tự nhiên.
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội mà trong đó hình thái phổ biến
của sản xuất ra sản phẩm để bán để trao đổi trên thị trường. Trong nền kinh tế hàng
hoá gần như toàn bộ sản phẩm lao động xã hội và dịch vụ đều mang hình thaí hàng
hoá, tức là hầu như tất cả các mỗi quan hệ kinh tế đều được thực hiện dưới hình thái
quan hệ hàng hoá, tiền tệ trên thị trường.
III. Nền kinh tế thị trường tự do
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình tự cao được
điều tiết bởi cơ chế thị trường ở đó sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất
cho ai được quyết định thông qua thị trường cơ sở quan hệ cung cầu, giá cả.
Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi
phối của quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Nhân tố cơ bản của cơ chế thị trường là cung cầu và giá cả thị trường. Trong nền kinh
tế thị trường là hàng loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó như: quy luật giá trị,
quy luật kinh tế cung cầu, quy luật cạnh tranh... cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị
trường tuân theo những quy luật trên.
IV. Nền kinh tế thị trường hỗn hợp.
Đây là nền kinh tế thị trường thị trường phát triển ở trình độ cao mà ở đó chú
trọng tới vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế bên cạnh những quy luật vốn có
của thị trường.Thị trường lúc này chịu sự điều tiết của cả “bàn tay vô hình” và “ bàn
tay hữu hình”mà tuy theo mục đích phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia mà trong
từng thời kỳ, tương quan giữa việc sử dụng “ bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình”
được điều chỉnh. Nền kinh tế này còn gọi là nền kinh tế hỗn hợp.
B. phép phủ định biện chứng đối với công
cuộc đổi mới kinh tế ở Việt nam
I. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá là tất yếu khách quan, phủ định lại
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù hợp trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp ở
Việt Nam
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất nước
ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hưũ
công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của nhân dân ta có thêm sự giúp đỡ tận
tình của các nước XHCN khác mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được tính ưu việt
của nó, từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá nhà nước
đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền
bạc để ổn định và phát triển nền kinh tế.
Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phù
hợp, nó đã tạo ra một bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời
nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo
ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và nhà nước huy động ở mức
độ cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Nhưng sau ngày giải phóng Việt Nam bức tranh mới về hiện trạng kinh tế XH
đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả 3 loại hình kinh tế tự cấp, tự
túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hàng hoá. Đó là thực tế khách
quan tồn tại sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng nền kinh
tế chỉ huy như ở Miền Bắc trước đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều,
việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kiện kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện hàng
loạt các hiện tượng tiêu cực.
Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp có sự phân phối một cách mạnh
mẽ mọi sản phẩm lao động, giá cả thì bị ấn định trước theo những chỉ tiêu của Nhà
nước, điều này dẫn đến việc những quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá cả,
quy luật cung cầu, quy luật giá trị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lưu thông
tiền tệ, giá cả không kiểm soát được, đặc biệt là trong những năm 80, lạm phát của
nước ta đã lên đến 3 con số làm cho đời sống nhân dân vô cùng khó khăn và tình hình
kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng. Nền sản xuất kém phát triển được sự
bảo hộ của nhà nước lại càng trở nên trì trệ. Bộ máy quản lý doanh nghiệp không hiệu
quả, cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và không năng động, phong cách thì cửa
quyền dưới chính sách bù lỗ của nhà nước ngày càng không đem lại bất cứ một hiệu
quả kinh tế nào.
Đồng thời do chủ quan cúng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế
quản lý kinh tế, chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất
của đất nước, trái lại đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các
nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản
xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những việc đó gây ra rất xấu
cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan
hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích
luỹ hàng năm hầu như không có vốn đầu tư chủ yếu vào vay và viện trợ của nước
ngoài. Để cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm
phát cao đã làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số địa phương nạn
đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự xuy thái nền kinh tế là do áp dụng dập
khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả.
Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng như trên, thêm vào đó viện trợ nước
ngoài bị giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta với sự bức bách đòi hỏi phải đổi mới.
2. sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của
Nhà nước là một xu hướng phát triển yếu khách quan.
Trước những tồn tại và bất cập trên của nền kinh tế chỉ huy, tại Đại hội Đảng
VI (1996) đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển
đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh
XHCN. Đến đại hội đảng VII Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước
ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đã diễn ra ở đó, tức là chuyển nền kinhtế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng
trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Xét
dưới góc độ triết học, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn và phù hợp
với quy luật phủ định của phủ định và xu thế của thời đại.
Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không
thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng
sản xuất.
Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung còn rất cứng nhắc nên nó chỉ có
tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong gia đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển
nền kinh tế theo chiều rộng.
Thứ ba, xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta, những nhân tố của kinh tế thị
trường. Về vấn đề này có rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng
thị trường nước ta là thị trường mới hình thành còn non yếu và là thị trường sơ khai.
Thứ tư, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang
hoà nhập với nền kinh tế thị trường th