Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ đợc chia thành nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, cổ đông có quyền tự do
chuyển nhợng cổ phần của mình cho ngời khác trừ trờng hợp qui định tại khoản 3 điều 55
và khoản 1 điều 58 của luật doanh nghiệp. Cổ đông có thể là tổ chức cá nhân số lợng cổ
đông tối thiểu là 3 không hạn chế tối đa. Công ty cổ phần đợc phép phát hành chứng
khoán và có t cách pháp nhân kể từ ngày đợc cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
Cổ phần hoá là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu, biến doanh nghiệp một chủ
thành doanh nghiệp của nhiều chủ, tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang sở hữu
chung thông qua chuyển một phần tài sản cho ngời khác, cổ phần hoá có thể áp dụng với
tất cả các doanh nghiệp thuộc sở hữu của một chủ duy nhất. Vì thế doanh nghiệp t nhân,
doanh nghiệp Nhà nớc, doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài.đều có thể cổ phần hoá.
2. Cổ phần hoá DNNN
22 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2195 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….
-----[\ [\-----
TIỂU LUẬN
Đề tài:
Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN ở
Việt Nam
v NỘI DUNG
I). Cổ phần hoá và cổ phần hoá DNNN.
1.Cổ phần hoá.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ đợc chia thành nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, cổ đông có quyền tự do
chuyển nhợng cổ phần của mình cho ngời khác trừ trờng hợp qui định tại khoản 3 điều 55
và khoản 1 điều 58 của luật doanh nghiệp. Cổ đông có thể là tổ chức cá nhân số lợng cổ
đông tối thiểu là 3 không hạn chế tối đa. Công ty cổ phần đợc phép phát hành chứng
khoán và có t cách pháp nhân kể từ ngày đợc cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
Cổ phần hoá là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu, biến doanh nghiệp một chủ
thành doanh nghiệp của nhiều chủ, tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang sở hữu
chung thông qua chuyển một phần tài sản cho ngời khác, cổ phần hoá có thể áp dụng với
tất cả các doanh nghiệp thuộc sở hữu của một chủ duy nhất. Vì thế doanh nghiệp t nhân,
doanh nghiệp Nhà nớc, doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài...đều có thể cổ phần hoá.
2. Cổ phần hoá DNNN
DNNN đợc định nghĩa ở điều 1 luật DNNN: “ Doanh nghiệp nhà nớc là tổ chức kinh
tế do nhà nớc sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, đợc tổ chức
dới hình thc công ty nhà nớc, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”. Định nghĩa
này chứa đựng những thay đổi cơ bản trong nhận thức của các nhà lập pháp và hoạch định
chính sách đối với các thành phần kinh tế. Nh vậy việc xác định DNNN không hoàn toàn
dựa vào tiêu chí sở hữu nh trớc đây ( trớc đây doanh nghiệp đợc Nhà nớc thành lập, đầu t
vốn, tổ chức quản lí đợc coi là DNNN trong đó sở hữu đợc coi là tiêu chí cơ bản nhất);
tiêu chí quyền chi phối đợc áp dụng trong luật DNNN năm 2003 là tiêu chí định lợng, tính
chất định lợng thể hiện ở phần vốn góp của Nhà nớc trong toàn bộ vốn của doanh nghiệp.
Nh vậy quyền kiểm soát đợc coi là tiêu chí cơ bản để xác định một doanh nghiệp có phải
là DNNN hay không, đây có thể coi là một bớc tiến trong cách tiếp cận DNNN.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc là một quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu
một phần tài sản của Nhà nớc, biến doanh nghiệp từ sở hữu của Nhà nớc thành dạng sở
hữu hỗn hợp trong đó Nhà nớc có thể giữ một tỷ lệ nhất định, tỷ lệ này tuỳ thuộc vào từng
doanh nghiệp cũng nh vai trò và vị trí của nó trong nền kinh tế.
Việc chuyển sang nền kinh tế thị trờng đợc đại hội ĐảngVI khởi xớng đã tạo ra những
điều kiện tiền đề để cải cách triệt để hơn đối với DNNN, thông qua việc cổ phần hoá
chúng. Sở dĩ cổ phần hoá đợc coi là giải pháp triệt để vì nó giải quyết đợc căn nguyên
trong tổ chức quản lí và hoạt động của DNNN đó là sở hữu. Cổ phần hoá DNNN chấp
nhận sự dung hoà của nhiều thành phần kinh tế khác nhau mà trớc hết là các doanh nghiệp.
Cổ phần hoá làm thay đổi kết cấu sở hữu của chúng.
II). Cơ sở lí luận và thực tiễn cổ phần hoá DNNN
Quá trình cổ phần hoá DNNN có cả những thành công và những va vấp lệch lạc. Những
thành công chủ yếu là gặt hái đợc nhiều kinh nghiệm, làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề
không chỉ trong phạm vi cổ phần hoá mà cả trong lĩnh vực hệ trọng hơn, nh sắp xếp đổi
mới DNNN và cơ chế quản lý.
1. Cơ sở lí luận.
Về thực chất hình thức công ty cổ phần đầu tiên đã đợc C.Mac đánh giá và khái quát
một cách khách quan và khoa học. Sự ra đời của các công ty cổ phần là một bớc tiến của
lực lợng sản xuất:
Chúng đã biến những ngời sỡ hữu t bản thành những ngời sở hữu thuần tuý, một mặt chỉ
giản đơn điều khiển và quản lí t bản của ngời khác, mặt khác là những nhà t bản-tiền tệ
thuần tuý. Quyền sở hữu t bản hoàn toàn tách rời chức năng của t bản trong quá trình tái
sản xuất thực tế.
Làm cho quy mô sản xuất đợc tăng lên, mở rộng, một điều mà đối với các doanh nghiệp
riêng lẻ rất khó thực hiện. Xuất hiện những tiền đề thủ tiêu t bản với t cách là sở hữu t
nhân ở ngay trong những giới hạn của bản thân phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa, thủ
tiêu phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa ở ngay trong lòng nó.
Các công ty cổ phần là điểm quá độ để biến tất cả những chức năng của quá trình tái sản
xuất hiện còn gắn liền với quyền sỡ hữu t bản đơn giản thành những chức năng của những
ngời sản xuất liên hợp, tức là thành những chức năng xã hội.
Bên cạnh những thành công đó thì C.Mac cũng phân tích những hạn chế ( tiêu cực) của
các công ty cổ phần. C.Mac chủ yếu phân tích những ảnh hởng của phơng thức sản xuất t
bản chủ nghĩa, so sánh công ty cổ phần t bản chủ nghĩa với công ty hợp tác của công nhân.
Dới chủ nghĩa t bản có thể hình thức sản xuất mới này sẻ đa đến việc thiết lập chế độ độc
quyền và đa đến sự can thiệp của Nhà nớc.
Nh vậy sự xuất hiện của các công ty cổ phần theo lí luận của C.Mac là kết quả của sự phát
triển của lực lợng sản xuất và là bớc tiến từ sở hữu t nhân lên sở hữu tập thể của các cổ
đông.
Quá trình cổ phần hóa một bộ phận DNNN ở nớc ta có nhiều nét đặc thù, đó là cổ
phần hóa một bộ phận doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nớc, thuộc sở hữu xã hội, toàn dân.
Mục tiêu cơ bản của việc chuyển một bộ phận DNNN thành công ty cổ phần là nhằm hoàn
thiện quan hệ sản xuất, phù hợp với tính chất trình độ của lực lợng sản xuất, nâng cao hiệu
quả của DNNN. Cụ thể là tìm một hình thức quản lí vừa phát huy quyền làm chủ của ngời
lao động vừa đảm bảo quản lí một cách có hiệu quả tài sản của doanh nghiệp.
Chúng ta đã đa ra nhiều hình thức công ty cổ phần nhng có thể gói gọn trong hai nhóm
chính:
Nhóm các công ty cổ phần trong đó Nhà nớc có tham gia cổ phần nh: Giữ nguyên giá trị
của doanh nghiệp kêu gọi thêm vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, bán một phần tài
sản doanh nghiệp, cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp. Tất cả các hình thức cổ phần
hóa theo ba dạng trên thì Nhà nớc hoặc là nắm giữ cổ phiếu khống chế(51%) hoặc là
không nắm giữ cổ phiếu khống chế.
Loại hình cổ phần hóa theo thể thức Nhà nớc bán toàn bộ doanh nghiệp cho ngời lao động.
Nhằm rút vốn, đầu t vào những ngành lĩnh vực quan trọng, then chốt, địa bàn quan trọng.
Không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền
kinh tế.
Dù tồn tại dới bất kì hình thức nào thì công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp đa sở
hữu. khi ngời lao động tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp thì họ cũng đã gắn lợi ích
của bản thân vào lợi ích của doanh nghiệp, tạo ra sự giám sát tập thể đối với đối với quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra cơ chế phân phối hài hòa giữa doanh nghiệp,
Nhà nớc và ngời lao động. Nhờ đó mà hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp có điều
kiện đợc nâng lên.
Nh vậy có thể nói quá trình cổ phần hóa một bộ phận DNNN không phải là quá trình t
nhân hóa. Bởi vì Nhà nớc chỉ nắm giữ những ngành, những lĩnh vực cần thiết, vai trò chủ
đạo của khu vực kinh tế nhà nớc không những không đợc cũng cố mà còn có thể bị yếu đi
nếu cứ tiếp tục duy trì những doanh nghiệp hiệu quả thấp, năng lực cạnh tranh kém. Việc
bán toàn bộ tài sản chỉ đợc áp dụng đối với các doanh nghiệp mà Nhà nớc không cần nắm
giữ, những lĩnh vực mà khu vực dân doanh hoàn toàn có thể làn tốt hơn DNNN. Nhà nớc
sẻ lựa chọn hình thức bán phù hợp và nếu bán theo cách để cho ngời lao động có cổ phần u
đãi hay cổ phần không chia thì rõ ràng không thể nói đó là t nhân hóa.
Cổ phần hóa cũng xuất phát từ yêu cầu đổi mới DNNN. DNNN nắm giữ trong tay những
nguồn lực của nền kinh tế nh tài nguyên thiên nhiên, vốn và nhân lực. Việc sử dụng lãng
phí, không hiệu quả cao các nguồn lực khan hiếm là một trong những nhân tố làm chậm
tiến trình phát triển kinh tế của nớc ta. Tốc độ tăng trởng cao của nền kinh tế nớc ta trong
những năm qua không có nghĩa là nền kinh tế chúng ta đang vận hành trơn tru mà sự tăng
trởng cao đó nh các tổ chức kinh tế thế giới đã cảnh báo là do chúng ta có xuất phát điểm
thấp. Hiện nay mối quan hệ gia nhà nớc và các DNNN là không rõ ràng, để duy trì các
doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả Nhà nớc đã sử dụng hàng loạt các biện pháp trực tiếp
và gián tiếp nh : xóa nợ, khoanh nợ, tăng vốn, u đãi tín dụng... Và nh vậy DNNN trở thành
đối tợng “trợ cấp” của xã hội, và xã hội trở thành chổ bấu víu cho các DNNN
làm ăn thua lỗ. Theo báo cáo tổng kiểm kê tài sản và xác định lại giá trị tài sản của DNNN
thì thực trạng nh sau: “tổng giá trị tài sản của DNNN theo sổ sách kế toán là 517.654 tỷ
đồng, theo giá kiểm kê xác định lại là 527.256 tỷ đồng; số nợ phải thu là 187.091 tỷ đồng
chiếm 35% giá trị tài sản của doanh nghiệp, gấp 1,43 lần vốn kinh doanh; hàng hóa tồn
kho là 45.688 tỷ đồng, trong đó hàng ứ đọng, mất phẩm chất không dùng đến là 1.600 tỷ
đồng; doanh nghiệp có 1 đồng vốn thì phải vay hoặc chiếm dụng 1,2 đồng cho kinh doanh,
hệ số vốn vay và vốn chiếm dụng so với vốn sở hữu là 1,8 lần; tổng số nợ phải trả là
353.410 tỷ đồng, bằng 2,3 lần vốn nhà nớc cấp, gấp 2 lần nợ phải thu trong đó nợ quá hạn
phải trả là 10.171 tỷ”[ theo báo cáo tổng kiểm kê tài sản và xác định lại tài sản DNNN tại
thời điểm 0 h ngày 01-01-2000.]
Yêu cầu đổi mới DNNN còn phát sinh sự từ cạnh tranh với khu vực kinh tế t nhân đang có
những bớc chuyển mình mạnh mẻ. Mặt khác trong quá trình hội nhập DNNN không chỉ
cạnh tranh với các doanh nghiệp t nhân trong nớc mà còn cả với các doanh nghiệp khác
của nớc ngoài. Cạnh tranh trên thị trờng không chấp nhận sự bảo hộ của Nhà nớc đối với
các doanh nghiệp của mình mà cạnh tranh bình đẳng đòi hỏi nhà nớc không chỉ xóa độc
quyền mà cả bao cấp. Nh vậy cổ phần hóa là một giải pháp tốt cho nền kinh tế nớc ta nói
chung cũng nh các DNNN nói riêng.
2. Thực tiễn cổ phần hóa DNNN.
DNNN có mặt ở hầu hết các nớc trên thế giới, kể cả những nớc t bản chủ nghĩa. Sự tồn tại
của DNNN ở các nớc t bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan . Khi mà những cuộc
khủng hoảng liên tục của chủ nghĩa t bản vào những năm đầu của thế kỉ XIX đã chứng
minh sự sụp đổ của học thuyết bàn tay vô hình . Sự can thiệp của Nhà nớc vào hoạt động
của nền kinh tế là rất cần thiết để duy trì sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên sự phát triển của DNNN ở nhiều nớc đều vấp phải tình trạng chung là hiệu quả
thấp, tham nhũng, lãng phí... Vì thế cải cách DNNN là một điều tất yếu; Có nhiều cách
thức để cải cách DNNN nhng t nhân hóa là biện pháp đợc sử dụng rộng rãi nhất và đem lại
nhiều kết quả khả quan nhất. T nhân hóa đợc tiến hành mạnh mẻ ở các nớc có nền kinh tế
phát triển mạnh nh Hàn Quốc, Xingapo, Nam phi... cũng nh các nớc đang phát triển và các
nớc phát triển và nó đang trở thành một xu thế mang tính chất toàn cầu. Là một nớc xã hôi
chủ nghĩa, có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội cũng gần giống với Việt Nam. Trung Quốc
cũng tiến hành cải cách DNNN và thực tiễn cải cách DNNN ở Trung Quốc đã để lại cho
chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Cải cách DNNN ở Trung quốc đợc thực hiện khá
rộng rãi và thành công, thực sự là một kinh nghiệm cho việc cải cách DNNN mà không
cần phải t nhân hóa hàng loạt. Cải cách DNNN bắt đầu từ năm 1984 và đã trải qua bốn giai
đoạn... Cổ phân hóa DNNN trong giai đoạn này thực sự trở thành chiến lợc của Trung
Quốc trong việc hiện đại hóa và phát triển kinh tế và đã thể hiện rõ rệt hiệu quả của khu
vực kinh tế công cũng nh nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN.
Phải nói rằng cụm từ “cổ phần “ đã rất quen thuộc từ hơn nhiều năm nay, kể từ khi
Đảng ta lập hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, lập cửa hàng xí nghiệp công t hợp
doanh và đã đợc phát triển rộng khắp. Trớc sức ép đẩy nhanh việc cổ phần hóa một số địa
phơng và DNNN đã tìm mọi cách để đạt đợc chỉ tiêu kế hoạch. Nếu chọn đơn vị kém hấp
dẫn để cổ phần hóa thì cổ phần hóa thờng rất bế tắc vì xuất phát từ tâm lí chủ quan của
mọi ngời là ai cũng muốn bảo toàn lợi ích của mình, không ai muốn rủi ro vì thế không ai
muốn bỏ vốn ra để mua cổ phần. Bởi vậy để có thể suôn sẻ việc chọn đơn vị nào đang làm
ăn đợc, đang có triển vọng đợc coi là một giải pháp hữu hiệu dễ đợc cán bộ công nhân
viên và ngời ngoài doanh nghiệp chấp nhận việc mua cổ phần. Nếu chỉ là DNNN thuần
túy thì cơ chế tài chính rất ngặt nghèo, dù làm ăn có hiệu quả, lãi lớn thì tiền lơng vẫn bị
khống chế, không đợc tăng lên tơng ứng. Sự xuất hiện của công ty cổ phần đã phần nào
khắc phục đợc những hạn chế đó. Nhng qua thực tế thì rõ ràng không phải cổ phần hóa là
một phép màu làm cho các công ty cổ phần bỗng nhiên phát đạt, bởi vì nếu không có sự
“hỗ trợ” của các DNNN thì các công tyđó mất rất nhiều hợp đồng kinh tế, mất việc làm và
có thể dẫn đến sa sút ngay. Điều này càng chứng tỏ cổ phần hóa làm sáng tỏ nhu cầu và
nội dung đổi mới DNNN, đó là phải đồng bộ cả về sắp xếp cải tiến hoạt động của doanh
nghiệp và cơ chế chính sách đối với nó để đảm bảo động lực phát triển, nhân tố kích thích
sự hăng hái sáng tạo, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Các công ty thành viên hoặc bộ phận trong DNNN sau khi cổ phần hóa về nguyên tắc coi
nh đã ra khỏi doanh nghiệp mẹ. Nhng xét về thực chất thì công ty cổ phần mới vẫn gắn
chặt với công ty mẹ và thông thờng không muốn rời bỏ quan hệ mật thiết trong hệ thống
của tổng công ty Nhà nớc. Bởi vậy cổ phần hóa đã gợi mở mô hình tổng công ty đa sở hữu
với thành phần kinh tế Nhà nớc giữ vai trò chủ đạo, vai trò chủ đạo ở đây bắt nguồn từ khả
năng chi phối bằng sức mạnh kinh tế, từ lợi ích mà thành phần kinh tế chủ đạo dẫn dắt và
mang lại cho các thành phần kinh tế khác. Trong thực tế đã bắt đầu xuất hiện công ty đa sỡ
hữu kiểu này ở một vài DNNN có quy mô lớn nhng mô hình này cha đợc thể chế hóa và
nhân rộng. Khi mô hình này đợc phát triển thì sẻ ẩn chứa khả năng hình thành các công ty
đầu t hoặc kinh doanh tài sản của Nhà nớc, qua đó quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp
sẻ chuyển thành quyền sở hữu giá trị dới hình thức phổ biến là cổ phiếu.
Trong nền kinh tế thị trờng các công ty cổ phần các, công ty TNHH, t nhân... đầu t mua
chứng khoán của nhau, đan xen xâm nhập nhau tạo nên những hình thái doanh nghiệp đa
sở hữu, tách quyền sở hữu với quyền kinh doanh nhng lại gắn kết các thành viên trong xã
hội ở hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói đây là xu hớng tích cực,
ngày càng phổ biến làm cho các thành viên trong nền kinh tế có thể hợp sức nhau lại tạo
nên một động lực mới cho tiến trình phát triển kinh tế của đất nớc.
III). Tiến trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam.
Cổ phần hóa là một phần quan trọng trong cải cách hệ thống doanh nghiệp Nhà nớc của
nhiều quốc gia trên thế giới kể từ đàu thập niên 80 của thế kỉ XX ở Việt Nam, cổ phần hóa
DNNN là một quá trình tìm tòi thử nghiệm và từng bớc tháo gỡ khó khăn trong quá trình
triển khai. Trong quá trình đó Đảng ta không ngừng đổi mới t duy, từng bớc chỉ đạo đúng
đắn cổ phần hóa góp phần sắp xếp, cũng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả của hệ thống
DNNN trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian từ 1960
đến 1990 tức là trớc thời điểm thực hiện cổ phần hóa, Đảng và Nhà nớc ta đã triển khai
nhiều biện pháp nhằm cải tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh. Trong thời kì đổi mới ý tởng
về cổ phần hóa DNNN đã đợc hình thành khá sớm. Từ hội nghị Trung ơng 3( khóa VI) về
đổi mới cơ chế quản lí đã nêu: “ Nếu không đủ điều kiện để cũng cố và không cần thiết
duy trì hình thức quốc doanh thì chuyển sang hình thức sở hữu khác ( kể cả cho tập thể, t
nhân thuê), hoặc giải thể, trớc hết là những xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng không thuộc
loại thiết yếu, xí nghiệp dịch vụ trang bị kĩ thuật thấp, bị thua lỗ thờng xuyên. Những biện
pháp cải cách tơng đối có giá trị đột phá đợc qui định trong quyết định số 21/HĐBT ngày
14-11-1987 của hội đồng bộ trởng. Nếu tính về số lợng các văn bản đợc ban hành thì vấn
đề đổi mới DNNN chiếm vị trí hàng đầu trong hệ thống chính sách và pháp luật ở nớc ta.
Quyết định 21/HĐBT đã đề cập tới việc tiến hành thí điểm cổ phần hóa DNNN và giao
cho bộ tài chính chủ trì. Nhng do điều kiện thị trờng cha phát triển, tồn tại quá lâu trong cơ
chế củ nên từ Trung ơng đến cơ sở cha hiểu hết vấn đề phức tạp này do đó cha thống nhất
về quan điểm. Ở giai đoạn này thì cổ phần hóa là một vấn đề mới đối với thực tiễn quản lí
DNNN ở nớc ta. Đầu năm 1990 trên cơ sở đánh giá kết quả sau 5 năm đổi mới, Hội đồng
bộ trởng đã ban hành quyết định số 143/HĐBT ngày 10/5/1990 về chủ trơng nghiên cứu
làm thử xí nghiệp quốc doanh sang công ty cổ phần. Tuy vậy đến năm 1992 cả nớc cha cổ
phần hóa đợc doanh nghiệp nào. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là quyết
định 143/HĐBT của Hội đồng bộ trởng đặt ra quá nhiều mục tiêu không rõ ràng dễ gây
hiểu nhầm đối với các doanh nghiệp và ngời lao động. Đến đại hội XII Đảng ta lại chủ
trơng thực hiện quan điểm: “ khẩn trơng sắp xếp lại và đổi mới quản lí kinh tế quốc dân.
Cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả
năng vơn lên”. Đại hội đã chỉ rỏ: “đối với những cơ sở không cần giữ hình thức quốc
doanh, cần chuyển hình thức kinh doanh, hình thức sở hữu hoặc giải thể, đồng thời giải
quyết việc làm và đời sống cho ngời lao động. Khuynh hớng coi nhẹ kinh tế quốc doanh,
muốn t nhân hóa tràn lan, cho rằng chuyển sang cơ chế thị trờng phải t hữu hóa tất cả các t
liệu sản xuất là sai lầm. Tuy nhiên nếu duy trì và phát triển kinh tế quốc doanh một cách
tràn lan, kéo dài cơ chế bao cấp cũng không đúng”. Cổ phần hóa DNNN có thể chia thành
4 giai đoạn chính:
1. Giai đoạn thứ nhất(1992-giữa năm 1998): Nhằm thể chế hóa Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng, Hội đồng bộ trởng đã ra quyết định số 202/QĐ-HĐBT chỉ đạo tiếp tục triển
khai tiếp tục tiến hành cổ phần hóa DNNN bằng việc chuyển thí điểm một số DNNN
thành công ty cổ phần. Đây đợc coi là một mốc trong tiến trình cổ phần hóa DNNN ở nớc
ta, đánh dấu tiến trình cổ phần hóa đang đợc xúc tiến và đang trong giai đoạn thí điểm. Để
thực hiện Nghị quyết này theo chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tớng Chính phủ
đã chọn 7 doanh nghiệp, đồng thời cũng giao cho các bộ, các tỉnh các thành phố trực thuộc
Trung ơng chọn 1 đến hai doanh nghiệp để tiến hành thí điểm cổ phần hóa. Triển khai thực
hiện theo tinh thần chỉ thị của Thủ tớng Chính phủ các bộ ,nghành, địa phơng đã thông báo
đến từng doanh nghiệp để các doanh nghiệp tự nguyện tiến hành thí điểm chuyển doanh
nghiệp mình thành công ty cổ phần. Cuối năm 1993 đã có 30 doanh nghiệp đăng kí thực
hiện thí điểm cổ phần hóa nhng vì nhiều lí do mà cả 7 doanh nghiệp đã đơc Chính phủ
chọn và nhiều doanh nghiệp khác xin rút lui hoặc không tiếp tục làm thử. Điều này đã đặt
chúng ta trớc những khó khăn lớn và để giải quyết những khó khăn, vớng mắc trong quá
trình thí điểm cổ phần hóa Đảng ta đã chủ trơng: “ để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo
động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả cần thực hiện các hình
thức cổ phần hóa có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh; Trong
đó Nhà nớc chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối” . Hội Nghị giữa nhiệm kì khóa XII Đảng ta đã
đặt ra yêu cầu: áp dụng từng bớc vững chắc việc bán một tỷ lệ cổ phần cho công nhân viên
chức làn việc tại doanh nghiệp; Thí điểm việc bán một phần cổ phần, cổ phiếu của một số
DNNN cho một số tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp; Trên cơ sở cổ phần hóa tổ
chức Hội đồng quản trị gồm đại diện cho sở hữu nhà nớc, sở hữu công nhân và sở hữu và
các chủ sở hữu khác... Mặc dù có sự chỉ đạo sít sao của Đảng với quan diểm rõ ràng nhng
kết quả thu đợc không cao, tới tháng 4/1996 chỉ có 5 doanh nghiệp chuyển thành công ty
cổ phần trong đó 2 trong tổng số 61 tỉnh thành và 3 trong số 7 bộ có doanh nghiệp cổ phần
hóa. Cả 5 doanh nghiệp này đều là những doanh nghiệp nhỏ, sản xuất hàng hóa và dịch vụ
trong những lĩnh vực không quan trọng. Có thể nói giai đoạn thí điểm cổ phần hóa DNNN
đã khjông đạt đợc những kết quả nh mong đợi, tốc độ cổ phần hóa quá chậm và còn quá
nhiều những vớng mắc khó khăn cần đợc tháo gỡ và rút kinh nghiệm.
2. Giai đoạn 2( giữa năm 1996-gi