Trong bối cảnh toàn cầu hoá nhu hiện nay bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng coi mục tiêu phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng cần đạt được. Nhưng để đạt được mục tiêu quan trọng đó Chính phủ phải có những chính sách, chiến lược phù hợp và hiệu quả để sử dụng tối đa những nguồn lực hiện có của đất nước, đồng thời phải tiếp thu và phát triển những thành tựu trên thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường tài chính đóng vai trò hết sức quan trọng. Sự lớn mạnh của thị trường tài chính có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng và thế giới nói chung. Chủ thể quan trọng của thị trường tài chính là Ngân hàng, Ngân hàng có mặt trong tất cả các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Vì thế muốn một nền kinh tế ổn định và phát triển thì đòi hỏi bản thân hệ thống Ngân hàng cũng phải ổn định và phát triển.
Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển chi nhánh bắc Hưng Yên là một bộ phận của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam viết tắt là BIDV (Bank for Investerment and Development of Việt Nam). Tuy mới được thành lập từ năm 2009 nhưng BIDV bắc Hưng Yên đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Cũng như đặc điểm chung của các NHTM, tín dụng là một trong ba nghiệp vụ cơ bản trong BIDV bắc Hưng Yên: Nhận tiền gửi, tín dụng và trung gian thanh toán. Đặc biệt tín dụng cũng là nguồn sinh ra nhiều lợi nhuận nhất cho chi nhánh, nó chiếm khoảng 2/3 lợi tức nghiệp vụ ngân hàng có từ tiền lãi cho vay và đây cũng là nghiệp vụ ngân hàng chú trọng phát triển. Hoạt động tín dụng trong đó có tín dụng ngắn hạn của chi nhánh đã đạt được những kết quả đáng kể song vẫn còn đó những hạn chế về quy mô và chất lượng.
77 trang |
Chia sẻ: longpd | Lượt xem: 3483 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam chi nhánh bắc Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
(((((
Trong bối cảnh toàn cầu hoá nhu hiện nay bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng coi mục tiêu phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng cần đạt được. Nhưng để đạt được mục tiêu quan trọng đó Chính phủ phải có những chính sách, chiến lược phù hợp và hiệu quả để sử dụng tối đa những nguồn lực hiện có của đất nước, đồng thời phải tiếp thu và phát triển những thành tựu trên thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường tài chính đóng vai trò hết sức quan trọng. Sự lớn mạnh của thị trường tài chính có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng và thế giới nói chung. Chủ thể quan trọng của thị trường tài chính là Ngân hàng, Ngân hàng có mặt trong tất cả các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Vì thế muốn một nền kinh tế ổn định và phát triển thì đòi hỏi bản thân hệ thống Ngân hàng cũng phải ổn định và phát triển.
Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển chi nhánh bắc Hưng Yên là một bộ phận của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam viết tắt là BIDV (Bank for Investerment and Development of Việt Nam). Tuy mới được thành lập từ năm 2009 nhưng BIDV bắc Hưng Yên đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Cũng như đặc điểm chung của các NHTM, tín dụng là một trong ba nghiệp vụ cơ bản trong BIDV bắc Hưng Yên: Nhận tiền gửi, tín dụng và trung gian thanh toán. Đặc biệt tín dụng cũng là nguồn sinh ra nhiều lợi nhuận nhất cho chi nhánh, nó chiếm khoảng 2/3 lợi tức nghiệp vụ ngân hàng có từ tiền lãi cho vay và đây cũng là nghiệp vụ ngân hàng chú trọng phát triển. Hoạt động tín dụng trong đó có tín dụng ngắn hạn của chi nhánh đã đạt được những kết quả đáng kể song vẫn còn đó những hạn chế về quy mô và chất lượng.
Để có thể hiểu rõ hơn về hoạt động tín dụng, đặc biệt là hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam chi nhánh bắc Hưng Yên nhằm góp phần phát triển mạnh mẽ hơn những thành tựu đã đạt được và khắc phục tối đa những hạn chế còn tồn tại để tiến tới một chi nhánh ngân hang vững mạnh đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế đất nước, em đã chọn đề tài:
“ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam chi nhánh bắc Hưng Yên “
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về chất lượng tín dụng của NHTM
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam chi nhánh bắc Hưng Yên
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam chi nhánh bắc Hưng Yên
Với những gì thể hiện trong chuyên đề, em hy vọng sẽ đóng góp một số ý kiến nhằm nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng đối với Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam chi nhánh bắc Hưng Yên. Tuy nhiên do trình độ cũng như thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên bài viết khó tránh khỏi những khuyết điểm. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo, các anh chị công tác trong chi nhánh và bất cứ ai quan tâm đến đề tài này để chuyên để của em được hoàn thiện và sâu sắc hơn.
Qua đây em cũng xin chân thành cảm ơn toàn thể cán bộ giáo viên khoa Kinh tế và quản trị kinh doanh trường ĐH Chu Văn An đã truyền đạt cho em những kiến thức cơ bản song vô cùng quan trọng về Tài chính-Ngân hàng. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo Đặng Thị Thu Huyền - người đã trực tiếp hướng dẫn chỉ bảo em trong quá trình thực hiện chuyên đề này. Em cũng xin chân thành cảm ơn các cán bộ, nhân viên trong Ngân hàng BIDV chi nhánh bắc Hưng Yên đã hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian thực tập tại chi nhánh.
SINH VIÊN
Đỗ Văn Mạnh
Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NHTM
1.1 Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm
NHTM đã hình thành và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Sự phát triển của hệ thống NHTM có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển kéo theo NHTM ngày càng hoàn thiện và trở thành một địnhc chế tài chính không thể thiếu.
Có rất nhiều định nghĩa về NHTM. Ở Mỹ “ NHTM được định nghĩa là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chínhvà hoạt động trong ngành công nghiệp tài chính ”. Đạo luật ngân hàng của Pháp cũng đã định nghĩa “ NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở nghề nghiệp thường xuyên nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng, tài chính ”.
Ở Việt Nam định nghĩa NHTM như sau: “ NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền ký gửi tù khác hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Từ những định trên có thể thấy NHTM là một định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
1.1.2 Chức năng của NHTM
1.1.2.1 Chức năng trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của NHTM. Khi thực hiện chức năng gian tín dụng NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này NHTM vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay, góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia.
1.1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán
NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán như séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thu điện tử, thẻ tín dụng… Tuỳ theo nhu cầu, khách hàng có thể lựa chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó các chủ thể kinh tế không cần phải mang theo lượng lớn tiền mặt khi giao dịch với khách hàng, từ đó tiết kiệm được chi phí, thời gian, đảm bảo an toàn. Chức năng này đã thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, thúc đẩy kinh tế phát triển.
1.1.2.3 Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng phản ánh rõ bản chất của NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình vô hình chung đã thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền đó lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
1.1.2 Hoạt động chủ yếu của NHTM
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ chủ yếu dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM – đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Nguồn vốn ngân hàng huy động được sử dụng để tiến hành cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất, phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương và của cả nước. Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng và phát triển sẽ càng tạo uy tín và tiền đề cho ngân hàng trong mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế từ đó mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó, ngân hàng phải căn cứ vào các chiến lược phát triển của địa phương cũng như của cả nước để đưa ra các chính sách huy động vốn thích hợp nhất đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Ngân hàng huy động vốn chủ yếu qua 2 kênh chủ yếu. Thứ nhất là tiền gửi của các cá nhân, hộ gia đình. Thứ 2 là tiền gửi của các tổ chức, doanh nghiệp.
Bên cạnh vốn huy động, ngân hàng còn phải vay vốn của các tổ chức kinh tế khác hoặc vay của NHTW. Chi phí sử dụng loại vốn này thường cao hơn chi phí sử dụng vốn huy động nên ngân hàng chỉ sử dụng nguồn vốn vay cho những trường hợp có những thanh khoản đột xuất với quy mô lớn mà nguồn vốn huy động dự trữ không đủ đáp ứng
1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Các nguồn vốn sau huy động sẽ được ngân hàng thương mại phân bổ sử dụng vào các mục tiêu khác nhau. Nguyên tắc hoạt động của ngân hàng là dự trữ một phần dưới dạng tiền, phần còn lại được sử dụng vào các nghiệp vụ sinh lời nhằm tạo ra thu nhập để bù đắp chi phí hoạt động và có lãi. Các nghiệp vụ sử dụng vốn rất phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, có thể chia làm 3 nhóm chính sau:
( Nghiệp vụ chiết khấu
Là nghiệp vụ trong đó ngân hàng thực hiện việc mua lại các giấy tờ có giá với mục đích hưởng một mức lợi tức – thường gọi là lợi tức chiết khấu – tương xứng với chi phí vốn và rủi ro mà ngân hàng phải đảm nhận khi sở hữu các giấy tờ có giá đó. Các giấy tờ thường được ngân hàng chiết khấu là thương phiếu, các giấy nợ như trái khoán hay hối phiếu chấp nhận thanh toán. Sau khi chiết khấu, ngân hàng có thể giữ tài sản này tới lúc mãn hạn hoặc tiến hành tái chiết khấu hay bán lại trên thị trường tiền tệ.
( Nghiệp vụ đầu tư
Nghiệp vụ trong đó ngân hàng tiến hành mua các chứng khoán với mục đích thu lợi từ việc sở hữu các chứng khoán này. Lợi tức bao gồm lãi của chứng khoán do nhà phát hành đưa ra và lợi nhuận mà ngân hàng thu được khi bán lại chứng khoán với giá cao hơn giá mua vào. Nghiệp vụ đầu tư thường được chia thành hai nhóm: Đầu tư với mục đích thanh khoản và đầu tư với mục đích lợi nhuận.
Với mục đích thanh khoản, ngân hàng nắm giữ chứng khoán là nhằm tối đa hoá khả năng sinh lời của tài sản trong khi vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản cao. Các chứng khoán ngắn hạn thường được ưu tiên sử dụng cho mục đích này bởi vì chúng có thể được ưu tiên sử dụng cho mục đích này bởi vì nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp. Các chứng khoán này đợc xem như dự trữ thứ cấp của ngân hàng.
Ngược lại, với nhóm đầu tư với mục đích lợi nhuận, các chứng khoán trong nhóm chủ yếu là chứng khoán dài hạn của Chính Phủ với mức lãi cao và ngân hàng thường nắm giữ chúng cho tới ngày mãn hạn. Đây được xem là một nguồn thu nhập quan trọng của ngân hàng
( Nghiệp vụ cho vay
Cho vay là một chức năng, một nhiệm vụ cơ bản nhất của hệ thống ngân hàng thương mại. Về bản chất, với nghiệp vụ này ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng đối với một lượng vốn nhất định của mình cho một bên thứ hai để đổi lấy thu nhập về lãi. Đối với ngân hàng, cho vay là nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chủ yếu, là nguồn thu nhập chính bù đắp các chi phí trong hoạt động của ngân hàng. Với một ngân hàng trung bình, thu nhập từ cho vay chiếm 70 – 80% tổng số thu nhập. Tuy nhiên do mối quan hệ logic giữa thu nhập và rủi ro, cho vay cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn nhiều mối lo ngại nhất cho các ngân hàng, trong đó rủi ro lớn nhất mà ngân hàng thường xuyên phải đối mặt là rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn. Do vậy trong hoạt động của mình, các cán bộ tín dụng của ngân hàng phải luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, cánh giác không ngừng học hỏi để tránh cho ngân hàng những tổn thất lớn.
Nghiệp vụ cho vay được phân chia theo nhiều tiêu thức kỳ hạn gồm 3 nhóm là cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn; hoặc phân chia theo lĩnh vực cho vay thành cho vay công nghiệp, cho vay nông nghiệp, cho vay tiêu dùng,... Các ngân hàng hiện nay đang rất chú trọng phát triển các dịch vụ cho vay tiêu dùng.
1.1.2.3 Các hoạt động khác
Ngân hàng thương mại là hệ thống trung gian tài chính cơ bản trong nền kinh tế, chủ yếu là hoạt động trong nghiệp vụ trung gian trong thanh toán. Ngân hàng đóng vai trò là tổ chức đứng giữa bên phải thanh toán và bên hưởng thụ giúp cho quá trình thanh toán được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả. Trong nền kinh tế ngày càng phát triển, các mối quan hệ không chỉ diễn ra trong nước mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Nếu không có một hệ thống thanh toán nhanh chóng thuận tiện thì việc thực hiện các giao dịch, quan hệ kinh tế sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn. Do vậy việc ngân hàng đứng ra đảm nhận chức năng này có một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Việc ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán thông qua tài khoản không chỉ tạo cho ngân hàng những nguồn vốn mới mà còn mang lại cho ngân hàng một nguồn thu nhập thông qua thu phí đối với các dịch vụ thanh toán.
( Chứng khoán hoá tài sản
Là nghiệp vụ trong đó ngân hàng thực hiện phát hành chứng khoán đối với những nhóm tài sản nhất định – bao gồm phần lớn là các khoản nợ. Nghiệp vụ này mang lại cho ngân hàng các khoản thu về phí dịch vụ như dịch vụ quản lý, giám sát, thu nợ, đồng thời nó cũng cho phép ngân hàng có thể đẩy nhanh tốc độ quay vòng tín dụng.
( Bán nợ
Là nghiệp vụ ngân hàng tiến hành bán quyền sở hữu về thu nhập hoặc bán quyền sở hữu hoàn toàn đối với các khoản vay của mình. Nghiệp vụ này là một phương pháp phổ biến của các ngân hàng trong việc giải quyết các khoản nợ khó đòi, cho phép ngân hàng có thể nhanh chóng thu hồi một phần trị giá khoản cho vay khó đòi.
( Bảo lãnh
Với nghiệp vụ này, ngân hàng đứng ra bảo lãnh về một khả năng nào đó - khả năng thanh toán - của bên được bảo lãnh và cam kết tiến hành thực hiện hoặc bồi thường nếu bên bảo lãnh không thực hiện được khả năng nêu ra. Nghiệp vụ này tạo điều kiện cho ngân hàng có thể tận dụng một cách triệt để khả năng đánh giá, phân tích tài chính của mình trong nỗ lực tối đa hoá lợi nhuận thu về.
1.2 Tín dụng ngân hàng
1.2.1 Khái niệm tín dụng
Tín dụng xuất phát từ tiếng Latinh – Gredittum – có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Tín dụng được diễn giải theo nghĩa Việt Nam là sự vay mượn. Trong thực tế, hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong phú. Ta có thể định nghĩa tín dụng nhu sau: “ Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá. Tín dụng phản ánh mối quan hệ giao dich giữa hai chủ thể trong đó một bên chuyển giao một lượng giá trị cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận được phải cam kêt hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận”.
Mối quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung sau:
- Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định.Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản…
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi kết thúc thời hạn đó người đi vay phải hoàn trả lại lượng giá trị đó cho người cho vay.
- Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị cho vay lúc ban đầu hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lãi.
1.2.2 Phân loại tín dụng
1.2.2.1 Căn cứ vào mục đích
Dựa vào căn cú này cho vay được chia làm các loại sau:
( Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại dịch vụ
( Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ
( Cho vay tiêu dùng là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngân hàng còn thực hiện các khoản cho vay để trang trải chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
( Thuê mua và các loại khác
1.2.2.2 Căn cứ vào thời hạn tín dụng
( Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với NHTM, tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất.
( Tín dụng trung hạn: Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước Việt Nam, tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1-3 năm, còn đối với các NHTM trên thế giới tín dụng trung hạn có thời hạn đến 7 năm. Tín dụng trung hạn được sử dụng chủ yếu để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
( Tín dụng dài hạn: Theo quy định của Việt Nam thì đây là loại tín dụng có thời hạn trên 3 năm, còn trên thế giới loại tín dụng này có thời hạn trên 7 năm. Tín dụng dài hạn được cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Nghiệp vụ truyền thống của NHTM là cho vay ngắn hạn, ngày nay các ngân hàng đang nâng cao tỷ trọng cho vay trung-dài hạn.
1.2.2.3 Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng
Theo căn cứ này tín dụng được chia làm hai loại:
( Cho vay không đảm bảo là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng. Đối với khách hàng có uy tín trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh,quản lý tài chính hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
( Cho vay bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung ứng phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn phải có sự bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có một nguồn thu thứ hai bổ sung nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Đồng thời tài sản thế chấp này bảo đảm khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích cam kết.
1.2.2.4 Căn cứ vào hình thái giá trị tín dụng
Theo căn cứ này thì tín dụng cũng được chia làm hai loại:
( Tín dụng bằng tiền là loại tín dụng mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền. Đây là loại tín dụng chủ yếu của các ngân hàng và thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau như tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp…
( Tín dụng bằng tài sản là hình thức cho vay bằng tài sản, phổ biến nhất là hình thức tài trợ thuê mua. Theo phương thức cho vay này ngân hàng hoặc các công ty thuê mua cung cấp trực tiếp tài sản cho người đi thuê và theo định kỳ người đi thuê phải trả vay bao gồm cả vốn gốc và lãi.
1.2.2.5 Căn cứ vào phương thức tín dụng
( Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho những người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả lại cho ngân hàng.
( Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các ngân hàng thương mại cho vay gián tiếp theo các phương thức: Chiết khấu thương mại, mua các phiếu bán hàng, mua các khoản nợ của doanh nghiệp… Ngoài các phương thức trên, ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng uy tín của mình. Đối với nghiệp vụ này ngân hàng không phải cung cấp tiền nhưng khi người được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh phải thay thế thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Vì vậy tín dụng bảo lãnh ngân hàng còn được gọi là tín dụng chữ ký. Tín dụng chữ ký bao gồm: Tín dụng chứng từ, bảo lãnh ngân hàng…
1.3 Tín dụng ngắn hạn
1.3.1 Khái niệm
Tín dụng ngắn hạn là những khoản cho vay có thời hạn dưới một năm. NHTM là nhà cung ứng phần lớn các khoản vay ngắn hạn cho các doanh nghiệp. Các khoản vay này ít rủi ro về thanh toán cũng như lãi suất so với khoản vay trung-dài hạn. Những khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng rộng rãi trong việc tài trợ mang tính thời vụ về vốn luân chuyển và tài trợ tạm thời cho các khoản chi phí sản xuất.
1.3.2 Phân loại tín dụng ngắn hạn
Nếu xét theo cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp thì đây là loại tín dụng tài trợ vốn lưu động. N