Sau một thời gian dài duy trì kinh tế kế hoạch hoá tập trung với mô hình kinh
tế này sau khi làm xong nhiệm vụ lịch sử của nó: tập trung sức mạnh của cả nước vì
sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Khi hoàn thành vai trò lịch sử của
mình, việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung khi lực lượng sản
xuất còn chưa phát triển đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế, triệt tiêu nguồn lực phát
triển kinh tế. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta sớm nhận ra sai lầm của mình
đưa nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Quá trình đổi mới này được tiến hành
dần dần từng bước. Đến nay sau 15 năm thực hiện đổi mới chúng ta thu được những
thành tựu hết sức quan trọng. Đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn định
và tăng trưởng: Từ chỗ phải nhập khẩu lương thực chúng ta đã tiến tới đảm bảo đủ
lương thực và các vật chất sinh hoạt cho đời sống và cả tích lũy cho ngân sách nhà
nước. Bộ mặt đất nước có rất nhiều thay đổi. Những nhân tố thị trường dần được
hình thành đồng bộ và hoạt động có hiệu quả. Sự đổi mới của Đảng và Nhà nước về
phương thức lãnh đạo và điều hành tạo thành một cơ chế điều tiết nền kinh tế thị
trường (KTTT) một cách có hiệu quả, phát huy nội lực kết hợp ngoại lực đưa đất
nước tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá(CNH- HĐH).
61 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2162 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp phát triển nền KTTT
định hướng XHCN ở Việt Nam
Lời mở đầu
Sau một thời gian dài duy trì kinh tế kế hoạch hoá tập trung với mô hình kinh
tế này sau khi làm xong nhiệm vụ lịch sử của nó: tập trung sức mạnh của cả nước vì
sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Khi hoàn thành vai trò lịch sử của
mình, việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung khi lực lượng sản
xuất còn chưa phát triển đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế, triệt tiêu nguồn lực phát
triển kinh tế. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta sớm nhận ra sai lầm của mình
đưa nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Quá trình đổi mới này được tiến hành
dần dần từng bước. Đến nay sau 15 năm thực hiện đổi mới chúng ta thu được những
thành tựu hết sức quan trọng. Đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn định
và tăng trưởng: Từ chỗ phải nhập khẩu lương thực chúng ta đã tiến tới đảm bảo đủ
lương thực và các vật chất sinh hoạt cho đời sống và cả tích lũy cho ngân sách nhà
nước. Bộ mặt đất nước có rất nhiều thay đổi. Những nhân tố thị trường dần được
hình thành đồng bộ và hoạt động có hiệu quả. Sự đổi mới của Đảng và Nhà nước về
phương thức lãnh đạo và điều hành tạo thành một cơ chế điều tiết nền kinh tế thị
trường (KTTT) một cách có hiệu quả, phát huy nội lực kết hợp ngoại lực đưa đất
nước tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá(CNH- HĐH).
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được nền KTTT định hướng
XHCN của ta còn nhiều hạn chế cần phải nghiên cứu tìm cách giải quyết. Nhằm mục
tiêu xây dựng nền KTTT định hướng XHCN tạo động lực sức mạnh cho sự nghiệp
CNH- HĐH đất nước, đưa nước ta thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Những mặt hạn chế của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay
đó là:
Nền kinh tế còn đan xen những yếu tố của nền kinh tế chuyển đổi. Những yếu
tố thị trường văn minh còn ít hơn là những yếu tố thị trường sơ khai. Mặt khác, trong
xã hội cũng xuất hiện một số nhân tố đi quá xa vượt quá giới hạn của nền KTTTđịnh
hướng XHCN ví dụ như: Những nhân tố của nền kinh tế…, tình trạng thương mại
hóa giáo dục, nhân phẩm.
Trình độ thấp kém chưa đạt tới trình độ hoàn chỉnh của KTTT ở nước ta hiện
nay biểu hiện ở chỗ: Giá cả hàng hoá và dich vụ còn bị bóp méo, độc quyền còn qúa
lớn, tỷ giá chưa phải do thị trường quy định; tiền lương chưa có tính thị trường…
Quyền kinh doanh trên thị trường còn hạn chế nên mất khả năng cạnh tranh.
Các loại thị trường còn thiếu và chưa đồng bộ, trước hết là thiếu thị trường lao
động, thị trường tiền tệ theo đúng nghĩa của nó.
Các thể chế cho thị trường còn qúa thiếu; không ít những thể chế chưa phù
hợp, thậm chí trái với yêu cầu của KTTT.
Sau sự can thiệp của nhà nước vào thị trường còn chưa thật phù hợp, thậm chí
trái với yêu cầu của thị trường, có tình trạng liên kết với các bộ phận thoái hóa trong
bộ máy nhà nước với những yếu tố tiêu cực của thị trường gây ra như tham nhũng,
nợ nần chồng chất.
Trước những hạn chế và tồn tại nói trên để giải quyết được đòi hỏi chúng ta
cần phải nắm rõ bản chất, những đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN
ở nước ta trong điều kiện hiện nay. Căn cứ vào tình hình thực tế để có những giải
pháp đồng bộ thiết thực hiệu quả khắc phục tình trạng trên.
Đề án này xin khẳng định lại tính thiết yếu của việc chuyển sang KTTT định
hướng XHCN ở nước ta, khẳng định con đường phát triển kinh tế của Đảng và Nhà
nước ta đã lựa chọn là đúng đắn. Đồng thời xin nêu ra một số
những đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay trên
cơ sở đó đánh giá những thành tựu đã đạt được và những hạn chế cần phải giải quyết
và cũng xin đề xuất một số giải pháp để khắc phục những hạn chế đó. Nhằm đạt
được mục tiêu CNH- HĐH đất nước, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tuy nhiên trong phạm vi đề tài này xin được đề cập tới những vấn đề cơ bản
nhất về nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Nội dung
I) Sự cần thiết phải chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước khi chuyển sang nền KTTT định
hướng XHCN phản ánh hậu quả của việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch
hoá tập trung khi đã làm xong vai trò lịch sử của nó là tập trung sức mạnh của dân
tộc trong điều kiện khớ khăn, thiếu thốn đánh thắng kẻ thù xâm lược. Đồng thời cũng
phản ánh những sai lầm của Đảng và Nhà nước ta trong việc cải tạo nền kinh tế ngay
khi đất nước thống nhất.
Trước tình hình nền kinh tế Việt Nam khủng hoảng và suy thoái nghiêm trọng
vào đầu những năm 80, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi mới nền kinh tế, chuyển
dần nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền KTTT định
hướng XHCN.
1) Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước khi chuyển sang nền KTTT
định hướng XHCN.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, chúng ta bước ra khỏi chiến tranh với tư thế của
người chiến thắng. Cả nước bắt tay vào xây dựng XHCN, Đảng và Nhà nước ta vẫn
duy trì mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung trong giai đoạn mới: kiến thiết đất
nước trong hoà bình đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế lạc hậu với
cơ chế quản lý thống nhất, tập trung theo kế hoạch trên cơ sở công hữu về tư liệu sản
xuất.
Trước đổi mới kinh tế (1986) tình hình nền kinh tế nước ta vẫn trong tình
trạng yếu kém.
Cở sở vật chất kỹ thuật vốn dĩ đã lạc hậu lại càng lạc hậu thêm do nhiều năm
không được đổi mới. Kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất nghèo nàn lạc hậu.
Bức tranh nền kinh tế Việt Nam 10 năm (1976-1985) trước đổi mới là: mức
tăng trưởng thấp (3. 7%/ năm), làm không đủ ăn và nhờ vào viện trợ nước ngoài
ngày càng lớn. Thu nhập quốc dân trong nước chỉ đáp ứng được 80%-90% thu nhập
quốc dân sử dụng (Năm 1976:78. 5%, năm 1985:69. 8%).
Đến năm 1985 tỷ trọng thu từ các nguồn viện trợ cho vay từ bên ngoài chiếm
10. 2% thu nhập quốc dân sử dụng. Tính chung 5 năm (1981-1985) nguồn thu nước
ngoài chiếm 22. 4% thu ngân sách, 28. 9% thu trong nước và 18. 5% tổng thu ngân
sách, nợ nước ngoài 8. 5 tỷ rúp và 1. 9 tỷ USD. Điều đáng chú ý là nợ nần chồng
chất nhưng bội chi ngân sách vẫn rất lớn và tăng dần. Năm 1980 18. 1%, năm 1980
36. 6%, buộc phải bù đắp bằng phát hành tiền.
Cũng vào năm đó, những sai lầm trong việc cải cách giá cả, tiền lương đã làm
cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng siêu lạm phát ở mức 774% năm
1986 kéo theo giá leo thang và vô phương kiểm soát.
Cơ cấu kinh tế mất cân đối và kém hiệu quả.
Trước đổi mới kinh tế Việt Nam chủ yếu là nước nông nghiệp. Công nghiệp
và dịch vụ chiếm chưa đến 50% GDP.
Đầu tư vào công nghiệp nặng quá nhiều, công nghiệp nhẹ không được quan
tâm đúng mức dẫn đến hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng trở nên khan hiếm, giá cả
tăng vọt làm cho mặt trận lưu thông rối ren.
Đầu tư của Nhà nước dàn trải kém hiệu qủa. Các dự án đầu tư của Nhà nước
tập trung vào các công trình công nghiệp nặng hoặc vào những công trình xây dựng
kết cấu hạ tầng quy mô lớn vượt quá khả năng của nền kinh tế quốc dân, trình độ
khoa học còn lạc hậu dẫn đến các công trình dở dang kéo dài gây lãng phí rất lớn.
Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó.
Một thời gian dài ở nước ta đã tồn tại quan điểm cho rằng những tư liệu sản
xuất lưu chuyển trong nội bộ các xí nghiệp quốc doanh là những hàng hoá đặc biệt.
Nó không được mua bán một cách tự do và sở dĩ như vậy vì vai trò
đặc biệt quan trọng của những tư liệu sản xuất. Nếu tư liệu sản xuất rơi vào tay tư
nhân thì nó trở thành phương tiện nô dịch lao động của người khác. Sức lao động,
tiền vốn cũng được quan niệm không phải là hàng hóa…Mặt khác, do quản lý theo
chiều dọc, theo chức năng kinh doanh của từng ngành (công nghiệp, nông nghiệp,
vận tải…) một cách máy móc, cho nên đã dẫn tới các hiện tượng cửa quyền, cắt đứt
mối liên hệ tự nhiên giữa các ngành dẫn tới thị trường bị chia cắt và manh mún.
Năng suất lao động thấp, thu nhập quốc dân đầu người thấp.
Do cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, cơ chế quản lý cũ làm triệt tiêu mất động
lực sản xuất. Kết cấu hạ tầng dịch vụ kém phát triển dẫn đến năng suất lao động thấp
và thu nhập bình quân đầu người của nước những năm trước rất thấp. Đời sống nhân
dân gặp nhiều khó khăn.
Trước tình trạng lạc hậu, khủng hoảng, suy thoái của nền kinh tế Việt Nam
trên đây vào những năm (1976 – 1985) đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận lại mô hình
kinh tế kế hoạch hoá tập trung mà chúng ta đang áp dụng. Đánh giá một cách xác
đáng những tác dụng và hạn chế của nó từ đó rút ra kết luận xem nó còn phù hợp với
điều kiện nước ta nữa hay không. Và để nước ta thoát khỏi tình trạng trên thì cần
phải có những giải pháp gì?
2) Kinh tế kế hoạch hoá tập trung và những hậu quả của nó
Để đánh giá những ưu điểm và khuyết tật của mô hình kinh tế kế hoạch hoá
tập trung- mô hình kinh tế đã được áp dụng ở các nước XHCN trước đây chúng ta đi
vào tìm hiểu nó một cách tổng quát và những đặc trưng cơ bản của nó.
2. 1) Kinh tế kế hoạch hoá tập trung là gì?
Kinh tế kế hoạch hóa tập trung là kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó việc
điều tiết và vận hành nền kinh tế chủ yếu thông qua các quyết định tập trung của
Chính phủ.
2. 2) Các đặc trưng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung – cơ chế được áp dụng trong một thời
gian dài ở nước ta trước đổi mới cũng như ở các nước XHCN trước đây mang những
đặc trưng sau:
Một là: Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu
với một hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các nhiệm vụ
kinh tế được chi tiết hóa thông qua hệ thống các chỉ tiêu, pháp lệnh, kế hoạch thống
nhất ở các cơ quan trung ương trước khi nó được giao cho các bộ phận thực hiện.
Các bộ phận trong nền kinh tế phải được thực hiện đúng như kế hoạch được giao. Do
đó hoạt động của các doanh nghiệp phải dựa vào các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc các quy
định của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên.
Trong cơ chế quản lý này việc lựa chọn ba vấn đề cơ bản: sản xuất ra cái gì?
sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai?, đều do nhà nước thực hiện. Nhà nước giao
chỉ tiêu pháp lệnh cho các ngành, các địa phương và cơ sở sản xuất kinh doanh. Nhà
nước kiểm soát hầu hết các phương tiện sản xuất, để thực hiện được điều đó nhà
nước tiến hành quốc hữu hóa, tập thể hóa, xoá bỏ tư nhân, kiểm soát giá, tiền lương.
Nhà nước cấp phát vốn và vật tư cho các ngành, các địa phương và cơ sở để thực
hiện nhiệm vụ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ phải giao nộp sản phẩm và tích lũy cho
Nhà nước theo các chỉ tiêu pháp lệnh. Dựa trên nguồn sản phẩm được sản xuất ra,
Nhà nước tiến hành phân phối theo các chỉ tiêu đã được quy định sẵn.
Như vậy tất cả các khâu trong nền kinh tế đều được vạch kế hoạch một cách
thống nhất và chi tiết. Các bộ phận trong nền kinh tế cứ như thế mà thực hiện.
Hai là: Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng không chịu trách nhiệm gì về mặt vật
chất đối với các quyết định của mình.
Các cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất của
các doanh nghiệp còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc vừa ỷ lại vào cấp trên. Sản
xuất kinh doanh được tiến hành như khu vực hành chính sự nghiệp hay hậu cần quân
đội. Các khâu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bộ máy tổ
chức quản lý đều lệ thuộc vào các quyết định của cơ quan hành chính kinh tế. Kết
qủa hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ra sao đều được giao cho Nhà
nước. Các cơ quan ra quyết định không phải chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với
các quyết định của mình.
Ba là: Cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bỏ qua các quan hệ hàng hóa tiền
tệ và hiệu qủa kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế cơ cấp phát và
giao nộp sản phẩm, quan hệ sản phẩm là chủ yếu. Do đó hoạch toán kinh tế chỉ là
hình thức.
Chế độ bao cấp được thực hiện dưới nhiều hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp
qua tiền lương hiện vật (chế độ tem phiếu) và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân
sách Nhà nước, mà không ràng buộc đối với người được cấp phát vốn.
Như vậy.
Nhà nước thực hiện chế độ phân phối bằng hiện vật cho các cơ quan nhà
nước, cùng chế độ tem phiếu phân phối cho người tiêu dùng. Do đó, người tiêu dùng
không được quyền lựa chọn, phải tiêu dùng cái mà Nhà nước có chứ không được tiêu
dùng cái mà mình cần.
Thực hiện chế độ bao cấp về giá để tiến hành phân phối cho sản xuất và tiêu
dùng làm xuất hiện nhưngx nhu cầu giả tạo, thừa thiếu hàng hóa và dịch vụ…
Bốn là: Xuất phát từ ba đặc điểm trên dẫn đến bộ máy quản lý Nhà nước rất
cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán
bộ kém năng lực quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh nhưng phong cách thì
quan liêu, cửa quyền.
Để đảm bảo cho việc vạch kế hoạch chi tiết cho nền kinh tế và đảm bảo cho
các chỉ tiêu kế hoạch được thực hiện một cách thống nhất cũng như để tập trung mọi
nguồn lực đầu vào, đầu ra của sản xuất trong tay Nhà nước đòi hỏi phải có một bộ
máy quản lý khổng lồ qua nhiều cấp trung gian. Mặt khác, nó lại hoạt động theo cơ
chế mệnh lệnh cứng nhắc tạo ra một sức ỳ lớn, kém năng động và linh hoạt, tạo cho
người làm việc trong bộ máy ấy một phong cách quan liêu, cửa quyền, kém năng
động.
Bên cạnh những ưu điểm như: quản lý được tập trung thống nhất toàn bộ nền
kinh tế quốc dân và giải quyết được các nhu cầu công cộng của xã hội, đảm bảo phúc
lợi xã hội, giải quyết được vấn đề an ninh và các vấn đề xã hội, tập trung các nguồn
lực để giải quyết các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân. Cơ chế này cũng góp
phần tập trung sức mạnh của toàn dân tộc tạo ra một nguồn lực vô cùng to lớn giúp
cho dân tộc ta giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại.
Mặc dầu vậy, cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung cũng để lại hậu hết sức
lớn, do các nhược điểm vốn có của nó sau khi đã làm xong vai trò lịch sử ở nước ta.
Hậu quả của nó thể hiện như sau:
Một là: Các quy luật kinh tế khách quan bị coi thường.
Do hoạt động quản lý nền kinh tế đều dựa trên hệ thống chỉ tiêu, kế hoạch đã
được vạch sẵn mà không dựa trên cơ sở các quy luật kinh tế khach quan như: quy
luật cung cầu, cạnh tranh, quy luật giá trị. Việc sản xuất kinh doanh, giá cả hàng hoá
và dịch vụ được phân phối theo quy định của Nhà nước mà không theo quy luật kinh
tế khách quan tất yếu sẽ dẫn tới khủng hoảng.
Hai là: Do quy luật kinh tế khách quan bị coi thường quan hệ hàng hoá tiền tệ
bị thay thế bằng quan hệ hiện vật, giá cả hàng hoá gần như không liên quan gì đến
giá trị cũng như tương quan cung cầu, mọi tính toán đều trở nên sai lệch cả. Do đó
mà không có tiêu chuẩn khách quan để đánh giá kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong quan hệ phân phối và phân phối lại, sự phân phối thu nhập không dựa trên các
nhân tố kích thích được xác định thông qua thị trường mà dựa trên định mức, quy
định, đánh giá sự cống hiến của mỗi tập thể và cá nhân tương ứng với vị trí quyền
lực của nó trong hệ thống phân phối và phân phối lại. Do đó nó làm triệt tiêu động
lực của sự phát triển kinh tế, thậm chí còn gây ra tác động như khuyến khích sự ỷ lại,
dựa dẫm, lười biếng gây thiệt hại cho những người tích cực, tạo mội trường lãng phí
thất thoát tài sản quốc gia. Cản trở đổi mới khoa học kĩ thuật cho sản xuất, làm triệt
tiêu tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh tế.
Ba là: Kìm hãm sự phát triển kinh tế, đồng thời gây ra nhiều hiện tượng tiêu
cực trong xã hội.
Việc phân phối các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất thông qua mệnh lệnh, chỉ
tiêu kế hoạch mà không căn cứ vào yêu cầu của thị trường dẫn đến sử dụng lãng phí
các nguồn lực của sản xuất, kìm hãm sự phát triển kinh tế. Sự điều tiết kinh tế bằng
mệnh lệch được thực hiện bởi bộ máy nhà nước cồng kềnh, kém hiệu quả, làm cho
nền kinh tế rơi vào khủng hoảng mất tính linh hoạt.
Trước hậu quả của cơ chế kế hoạch, tập trung đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải
nhanh chóng tiến hành đổi mới kinh tế đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng.
Từ những phân tích trên, cho thấy việc chuyển nền kinh tế ra khỏi mô hình kinh tế kế
hoạch hoá tập trung là tất yếu khách quan.
Mục tiêu của dân tộc ta là xây dựng chủ nghĩa xã hội phấn đấu vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Để xây dựng được chủ nghĩa xã
hội chúng ta phải xây dựng được cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Quá trình này
là một quá trình lâu dài rất khó khăn và phức tạp.
Đặc biệt, trong điều kiện đất nước ta phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chủ nghĩa tư bản. Mục tiêu của thời kì quá độ là xây dựng cơ sở vật chất cho chủ
nghĩa xã hội thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước thoát
khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Để thực hiện mục tiêu này, trước đây do sai lầm,
chủ quan, nóng vội, chậm đổi mới, chúng ta chủ trương phát triển kinh tế theo mô
hình kế hoạch tập trung, xoá bỏ hết mọi quan hệ sản xuất phi XHCN khi chúng vẫn
còn vai trò lịch sử là thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một quốc gia
còn lạc hậu như nước ta. Chính những sai lầm đó đã kìm hãm sự phát triển của kinh
tế đất nước.
Vấn đề đặt ra là phải xem xét đánh giá lại quá trình quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN. Tìm ra mô hình kinh tế thích hợp để đạt được những mục tiêu của thời kì quá
độ.
Chúng ta đã nhìn thấy KTTT với những tính năng ưu việt và những khuyết tật
vốn có của nó có thể giúp chúng ta phát triển lực lượng sản xuất như nó đã làm với
các nước TBCN. Nhưng mục tiêu của chúng ta lại là CNXH. Do đó chúng ta cần
phải có sự nhận thức đúng đắn về nó để vận dụng nó một cách hợp lý sao cho vẫn
đạt được mục tiêu phảt triển kinh tế đồng thời cũng giữ vững được định hướng
XHCN.
3) Lý luận chung về KTTT.
3. 1) Khái niệm về KTTT.
KTTT là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó 3 vấn đề kinh tế cơ bản
là sản xuất cái gì ? như thế nào ? và cho ai ? do thị trường quyết định. Trong nền
kinh tế hàng hoá (KTHH) có một loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó hoạt
động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh… và lợi nhuận là động lực
chủ yếu của sự vận động của nó. Các quy luật đó đều biểu hiện tác động của mình
thông qua thị trường, thông qua sự vận động của giá cả thị trường. Nhờ sự vận động
của giá cả thị trường dẫn đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu nhu cầu
của xã hội.
3. 2) Các đặc trưng của KTTT.
Một là:Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao.
Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm với kết
quả sản xuất kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên
doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. Đây là đặc trưng rất quan
trọng của KTTT. Đặc trưng này xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc
tồn tại kinh tế hàng hoá. Đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của nền
kinh tế hàng hoá. KTHH không bao dung hành vi bao cấp.
Các vấn đề có liên quan đến việc phân bố sử dụng các nguồn tài nguyên sản
xuất khan hiếm như lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên về cơ bản được quyết định
một cách khách quan thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy
luật cung cầu.
Hai là: Giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là
sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu tác động của quan hệ cạnh
tranh và quan hệ cung cầu hàng hóa và dịch vụ. Giá cả là sự thỏa thuận giữa người
mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của quy luật lưu thông hang hoá.
Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, người bán luôn muốn bán với giá cao,
người mua lại luôn muốn mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả phải bù đắp
được chi phí và có doanh lợi. Chi phí sản xuất là dưới hạn dưới, là phần cứng của