Năm 1986 đât nước ta bắt đầu thực hiện đổi mới nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Trong những năm đầu đổi mới, đất nước ta đã thu
được những thành công nhất định tuy nhiên bên cạnh đó là một loạt những vấn đề bức xúc
nảy sinh. Trong đó, cải cách chế độ sở hữu nhà nước là một vấn đề hết sức nan giải nhưng
không thể né tránh. Những quan niệm về sở hữu nhà nước trước đây đã không còn phù
hợp. Quan điểm sở hữu nhà nước là sở hữu “vô chủ” đã ăn sâu vào nếp nghĩ, nếp làm
việc của tất cả mọi người. Trong suốt một thời gian dài, chúng ta đã cho rằng sự phát
triển của một đất nước tỉ lệ thuận với tỉ trọng và quy mô của thành phần kinh tế nhà nước.
Tính đến ngày 1-9-1990 cả nước có 12084 doanh nghiệp nhà nước hoat động trong tất cả
các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Hầu hết các doanh nghiệp
này đều chưa thay đổi tư duy kinh tế, làm ăn kém hiệu quả buộc nhà nước phải dùng hơn
50% ngân sách chi tiêu để bù lỗ. Từ những quan điểm nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng
giải quyết sở hữu nhà nước là yêu cầu bức xúc của nền kinh tế hàng hoá đặt ra, giảỉ quyết
sở hữu nhà nước một cách đúng đắn sẽ tạo cơ sở vững chắc để tiếp tục sự nghiệp đổi mới
kinh tế của đất nước.
16 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1956 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giải quyết sở hữu nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải quyết sở hữu nhà nước
A.
Lời nói đầu
Năm 1986 đât nước ta bắt đầu thực hiện đổi mới nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Trong những năm đầu đổi mới, đất nước ta đã thu
được những thành công nhất định tuy nhiên bên cạnh đó là một loạt những vấn đề bức xúc
nảy sinh. Trong đó, cải cách chế độ sở hữu nhà nước là một vấn đề hết sức nan giải nhưng
không thể né tránh. Những quan niệm về sở hữu nhà nước trước đây đã không còn phù
hợp. Quan điểm sở hữu nhà nước là sở hữu “vô chủ” đã ăn sâu vào nếp nghĩ, nếp làm
việc của tất cả mọi người. Trong suốt một thời gian dài, chúng ta đã cho rằng sự phát
triển của một đất nước tỉ lệ thuận với tỉ trọng và quy mô của thành phần kinh tế nhà nước.
Tính đến ngày 1-9-1990 cả nước có 12084 doanh nghiệp nhà nước hoat động trong tất cả
các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Hầu hết các doanh nghiệp
này đều chưa thay đổi tư duy kinh tế, làm ăn kém hiệu quả buộc nhà nước phải dùng hơn
50% ngân sách chi tiêu để bù lỗ. Từ những quan điểm nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng
giải quyết sở hữu nhà nước là yêu cầu bức xúc của nền kinh tế hàng hoá đặt ra, giảỉ quyết
sở hữu nhà nước một cách đúng đắn sẽ tạo cơ sở vững chắc để tiếp tục sự nghiệp đổi mới
kinh tế của đất nước.
Giải quyết sở hữu nhà nước là một vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng,
nóng bỏng, rất phức tạp có nhiều ý kiến rất khác nhau xoay quanh, nội dung đề cập tương
đối rộng đòi hỏi phải có sự thảo luận, nghiên cứu nghiêm túc. Tuy nhiên do giới hạn bởi
thời gian và khả năng kiến thức em khó có thể trình bày đầy đủ tất cả các khía cạnh trong
đề án. Vì vậy em xin phép được tập trung trình bày những khía cạnh quan trọng và cơ bản
nhất của vấn đề. Thêm vào đó là vốn kinh nghiệm thực tiễn còn ít ỏi của một người sinh
viên năm thứ hai đề án chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót, những suy nghĩ hời hợt, nông cạn.
Em thành thật mong sự góp ý và chỉ bảo của thầy !
B. Nội dung
Trước khi đi sâu phân tich nội dung của đề án em xin nhắc lại một số khái niệm
xoay quanh phạm trù sở hữu và sở hữu nhà nước :
Sở hữu là quan hệ cơ bản nhất của con người trong quá trình sản xuất . Đó là sự
chiếm hữu của một người hay một cộng đồng người ( chủ thể sở hữu ) đối với những thực
thể của thế giới vật chất ( đối tượng sở hữu ).
Quan hệ sở hữu bao gồm quan hệ giữa chủ thể sở hữu với chủ thể sở hữu và chủ
thể sở hữu với đối tượng sở hữu. Những quan hệ nay mang tính chất kinh tế xã hội, quyết
đinh các hình thức phân phối tài sản, sản phẩm, thu nhập, giá trị giữa các chủ thể sở hữu.
Nội dung chính của quyền sở hữu là : quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền
định đoạt.
Quyền chiếm hữu là yếu tố đầu tiên, bao chùm của sở hữu. Nó tương đối ổn định,
tĩnh tại nhưng đôi khi chỉ là quyền danh nghĩa. Đó là trường hợp chủ thể sở hữu không
thực hiện được nó, không sử dụng nó mà giao lại cho người khác và chỉ giữ quyền thu
nhập về sở hữu.
Quyền sử dụng là quyền sử dụng đối tượng sở hữu theo mục đích và nguyện vọng
của người sử dụng đối tượng sở hữu, có thể thống nhất ở một người hoặc phân chia giữa
nhiều người. Điều này có nghĩa là người sử dụng đối tượng sở hữu có thể không phải là
chủ sở hữu và ngược lại.
Quyền định đoạt là quyền thực hiện toàn diện với đối tượng sở hữu theo bất cứ
cách nào kể cả việc chuyển quyền sở hữu cho người khác, thậm chí từ bỏ nó. Trên thực tế
người chủ sở hữu chỉ thực sự là chủ sở hữu khi người đó có quyền định đoạt đối tượng sở
hữu.
Có hai loại sở hữu phổ biến nhất trong lịch sử là sở hữu tư nhân và sở hữu công
cộng (sở hữu công cộng gồm sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể ). Mỗi
một chế độ xã hội thì sẽ được đặc trưng bởi sự thống trị của một trong hai hình thức sở
hữu trên. Dưới chủ nghĩa xã hội, chế độ sở hữu công cộng giữ vai trò thống trị và đặc biệt
trong đó sở hữu nhà nước chiếm một vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Hiện nay
không ít người vẫn còn nhầm tưởng sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước là một.
Sở hữu toàn dân là sở hữu trong đó của cải tự nhiên được toàn dân sử dụng, các
thành viên trong xã hội có quyền ngang nhau trong việc sử dụng của cải này.
Sở hữu nhà nước là một phần của sở hữu toàn dân (bao gồm những tài nguyên
thiên nhiên, tư liệu sản xuất nhất định...) được chuyển cho cơ quan nhà nước điều hành và
sử dụng theo ý chí của nhân dân, theo quyết định của cơ quan quyền lực đại diện cho nhân
dân với những điều kiện nhất định.
Sở hữu tập thể là hình thức sở hữu mà chủ thể sở hữu không phải là một các nhân
cụ thể mà là một tập hợp người, một tập thể cùng sở hữu.
Sở hữu tư nhân là hình thức chiếm hữu trong đó những sản phẩm lao động rơi vào
tay chủ thể và khác với sở hữu các nhân sở hữu tư nhân có quy mô lớn hơn nhiều.
1. Thực trạng sở hữu nhà nước
Thực trạng sở hữu nhà nước thuộc các doanh nghiệp nhà nước:
Sở hữu nhà nước và gắn liền với nó là khu vực kinh tế nhà nước luôn được Đảng
và nhà nước ta xác định giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống sở hữu và trong nền kinh tế
quốc dân. Nhưng thực trạng sở hữu nhà nước hiện nay ra sao ? Hiệu quả của các doanh
nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường như thế nào ? Và “ Cha chung “ có ai khóc
hay không ?... Rất nhiều lời giải đáp cho những câu hỏi này thường xuyên được đăng trên
các tạp trí chính trị, kinh tế khoảng chục năm trở lại đây. Sở dĩ như vậy là bởi vì những
câu hỏi này rất nóng, rất thời sự . Tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi này đồng nghĩa với
việc xác định các doanh nghiệp nhà nước đang đứng ở đâu, đang có trong tay những gì và
những doanh nghiệp này đang và sẽ phải đương đầu với những thách thức gì.
Trước đây, khi mà vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được hiểu là áp đảo về số
lượng, về tỉ trọng thì mỗi một doanh nghiệp nhà nước ra đời là chúng ta lại tiến thêm một
bước tới chủ nghĩa xã hội. Mỗi một doanh nghiệp nhà nước là một bông hoa góp phần tạo
nên vẻ đẹp cho đất nước. Kết quả là vườn hoa đó có đến 12084 bông hoa lớn nhỏ, hết sức
đa dạng phong phú, từ các doanh nghiệp cơ khí, luyện kim đến các doanh nghiệp cắt may,
cắt tóc... tất cả đều thuộc sở hữu nhà nước. Các doanh nghiệp nay luôn thực hiện vượt
mức kế hoạch và hình như điều đó cũng chỉ xẩy ra trên kế hoạch và giấy tờ mà thôi, lãi
giả còn lỗ thật. Có lợi nhuận hay không, không quan trọng vì tất cả đã được nhà nước ru
ngủ trong vòng tay “ êm ả “ của cơ chế bao cấp. Đó là thực trạng của các doanh nghiệp
nhà nước trước đổi mới còn sau đổi mới thì sao ?
Qua hơn mười năm thực hiện đổi mới, tính đến cuối tháng sáu năm 1998 cả nước
chỉ còn 5700 doanh nghiệp nhà nước. Số lượng các doanh nghiệp nhà nước giảm nhanh
chóng như vậy phải chăng kinh tế nhà nước không còn giữ vai trò chủ đạo nữa ? Câu trả
lời ở đây là kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Chỉ có điều chủ đạo ở được hiểu là
vai trò mở đường, dẫn dắt, là vai trò then chốt và phải có hiệu quả cao. Hay nói một cách
ngắn gọn các doanh nghiệp nhà nước chuyển từ giữ chủ đạo về số lượng sang giử vai trò
chủ đạo về chất lượng. Đây chính là một thành công bước đầu mà chúng ta đạt được. Hiệu
quả hoạt động của các doanh nghiệp đã được nâng lên. Tốc độ tăng trưởng GDP của các
doanh nghiệp nhà nước gần gấp rưỡi so với bình quân toàn nền kinh tế và gấp đôi so vứi
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Tỷ trọng của doanh nghiệp nhà nước trong thu nhập
quốc dân tăng từ 32% năm 1990 lên 42% năm 1996. Các doanh nghiệp nhà nước đã đóng
góp một phần không nhỏ cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên mức đóng góp đó hoàn toàn
chưa tương xứng với sự đầu tư, sự mong đợi của nhà nước và phần lớn có được là từ thuế
doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ có một phần rất nhỏ là từ thuế lợi nhuận. Số lượng
các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn quá nhiều và bố trí không được hợp lý, hiệu quả sử
dụng vốn không cao. Quy mô của các doanh nghiệp nhà nước còn quá nhỏ bé, gần 40%
tổng số các doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới một tỉ đồng. Hầu hết công nghệ kỹ thuật
của các doanh nghiệp rất lạc hậu, các máy móc, thiêt bị phần lớn thuộc thập kỷ 60 thậm trí
lâu hơn thế. Việc quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước còn rất nhiều yếu kém và
không nhất quán. Hệ thống quản lý hành chính địa phương, trung ương và hệ thống quản
lý các doanh nghiệp theo ngành không rõ ràng, chồng chéo lên nhau ảnh hưởng nghiêm
trọng tới quyền tự chủ, khả năng quyết đoán trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Rất
nhiều doanh nghiệp vẫn còn tiếp tục “say sưa “ với cơ chế bao cấp không có khả năng trụ
lại trước sóng gió cạnh tranh và thử thách khắc nghiệt của thị trường. Cụ thể là 40% trong
tổng số các doanh nghiệp nhà nước hiện nay đang ở trong tình trạng thua lỗ triền miên, “
ăn dần ” cả vốn. Tuy nhiên các doanh nghiệp này vẫn được tiếp tục duy trì bởi một số lý
do đại loại như : các doanh nghiệp này đã trưởng thành cùng cách mạng, đã từng là con
chim đầu đàn, có truyền thống lâu năm... Có nên vì những lý do trên mà để hàng nghìn
người lao động tại các doanh nghiệp này dở mếu dở cười sống cầm chừng, để những kẻ
cơ hội lợi dụng tham ô, tham nhũng hàng trăm tỉ đồng của nhà nước hay không ? Và liệu
còn có lý do sâu xa nào đằng sau những lý do trên hay không ? Phải chăng một số người
sợ thực hiện đổi mới cung cách làm ăn của các doanh nghiệp nhà nước bởi đổi mới sẽ
động chạm đến quyền lợi cá nhân của họ, khi đó họ sẽ phải chia sẻ vai trò lãnh đạo thậm
chí còn mất hẳn vai trò lãnh đạo của mình. Bên cạnh đó lại có quan điểm “áng binh bất
động “ để khỏi phải va chạm, rủi ro... Những người lãnh đạo đầu tầu đã không hăng hái
thì làm sao có thể kéo các toa tầu phía sau chuyển động, làm sao có thể thắng được sức ì
của sự bảo thủ.
Thực trạng sở hữu nhà nước thuộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh :
Phạm trù sở hữu nhà nước rộng hơn hẳn so với phạm trù kinh tế nhà nước. Sở hữu
nhà nước còn có thể do các thành phần kinh tế khác sử dụng ( vốn góp của nhà nước
chiếm một tỉ lệ khống chế hoặc không khống chế ). Ngày nay do sự phát triển nhanh
chóng của lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật và công nghệ chúng ta nhất định phải
hiểu phạm trù sở hữu nhà nước một cách toàn diện, linh hoạt hơn. Sở hữu nhà nước
không nhất thiết phải 100% vốn đầu tư của nhà nước mà nhà nước chỉ cần nắm giữ một tỉ
lệ khống chế nhất định và sở hữu nhà nước không nên cố định cứng nhắc như hiện nay,
doanh nghiệp này hôm nay thuộc ngành mũi nhọn, chiến lược đòi hỏi phải thuộc sở hữu
nhà nước nhưng trong giai đoạn phát triển tiếp sau vai trò của nó có thể đã thay đổi và
không nhất thiết phải thuộc sở hữu nhà nước 100% nữa. Vậy sẽ thật là thiếu sót nếu chúng
ta bỏ qua sở hữu nhà nước thuộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thực trạng sở hữu
nhà nước tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra sao, em sẽ tập trung chủ yếu phân tích
tại các doanh nghiệp liên doanh và cổ phần, khu vục kinh tế còn nhiều tồn tại và những
vấn đề tranh cãi nhất hiện nay.
Tuy mới chỉ xuất hiện ở nước ta hơn chục năn trở lại đây nhưng khu vực kinh tế
liên doanh với nước ngoài tăng lên nhanh chóng cả về tuyệt đối lẫn tương đối. Tỷ trọng
đóng góp trong GDP của khu vực liên doanh năm 1997 là : 6,1 %, năm 1998 : 8,2 %,
năm 1999 là : 9,8 %, năm 2000 là : 11,1 %. Hầu hết các doanh nghiệp này đều làm ăn có
hiệu quả, giải quyết một lượng lớn việc làm cho người lao động đặc biệt là lao động dư
thừa ở nông thôn, cho phép tận dụng vốn và công nghệ hiện đại của nước ngoài. Năm
1996 vốn nước ngoài trực tiếp đầu tư thông qua liên doanh chiếm 18,6 %, năm 1997 là
20,3 % trong tổng số vốn đầu tư của cả nước ( so vứi khu vực thì tốc độ đầu tư của nước
ngoài như vậy vẫn còn thấp và hiện nay đang có xu hướng chững lại). Các doanh nghiệp
liên doanh cũng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh và trình độ quản lý từ lâu đã bị
“xơ cứng” của các doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được,
những năm gần đây trong các doanh nghiệp liên doanh nổi cộm lên rất nhiều điều bất hợp
lý cần được nhanh chóng làm rõ ràng và giải quyết chiệt để. Năm 1997-1998 một loạt các
công ty liên doanh như : P & G, công ty CocaCola Việt Nam, công ty BGI lần lượt tuyên
bố lỗ lớn và đề nghị giải pháp chuyyển sang 100% vốn nước ngoài. Sự thua lỗ hàng loạt ở
các liên doanh trên đã làm cho dư luận nghi ngờ dẫn đến nhiều ý kiến khác nhau thậm trí
trái ngược về hình thức đầu tư này.Vẫn biết được thua, lỗ lãi là việc rất bình thường sự
cạnh tranh của kinh tế thị trường, có thể xẩy ra đối với bất cứ doanh nghiệp nào làm ăn
không hiệu quả chứ không hề phụ thuộc vào hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó.
Nhưng hàng loạt các công ty liên doanh (phía đối tác nước ngoài rất nổi tiếng, có nhiều
kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường thế giới ) tuyên bố lỗ nặng thì quả là không bình
thường, và liệu tình hình trên có còn tiếp tục hay không, nguyên nhân của nó là gì, đã có
rất nhiều ý kiến khác nhau trong việc trả lời câu hỏi trên. Có ý kiến cho rằng nguyên nhân
hiện tượng trên là do thị trường Việt Nam còn quá nhỏ bé trong khi đó các dự án đầu tư
của cùng một loai sản phẩm lại quá nhiều hay định hướng đầu tư của Việt Nam chưa tốt.
Nhiều người khác lại đưa ra ý kiến cho rằng, các công ty nước ngoài đã lợi dụng thậm chí
đã lừa gạt phía đối tác Việt Nam, bắt đầu từ việc liên doanh, rồi cố tình tạo ra thua lỗ nặng
để cuối cùng xin đổi sang 100% vốn nước ngoài. Trong khi trước đó doanh nghiệp Việt
Nam đã giúp phía nước ngoài lo các thủ tục pháp lý, lập văn phòng, giúp làm quen và
định hướng thị trường Việt Nam. Phía Việt Nam do góp vốn ít 30%-40%, chủ yếu là góp
bằng quyền sử dụng đất, thường bị thao túng và không được điều hành, có rất nhiều khoản
chi phí không theo kế hoạch như đã được duyệt trước khi ký giấy phép. Đặc biệt là chi phí
: chi phí cho quảng cáo sản phẩm, trả lương cho người nước ngoài, chuyên gia tư vấn, hội
họp... ví dụ như công ty P&G đã tự ý chi 31% doanh thu cho quảng cá0, khuyến mại như
vậy là đã vượt quá 26% tổng doanh thu cho công viềc này. Kế hoạch là sử dụng 6 người
nước ngoài nhưng thực tế họ lại sử dụng 16 người với mức lương rất cao và chi phí 11 tỷ
đòng cho chuyên gia tư vấn. Máy móc thiết bị và nguyên liệu của liên doanh đều được
mua theo địa chỉ đã được chỉ định từ phiá nước ngoài. Lợi dụng sự thiếu thông tin về giá
cả (vô ý hoặc cố ý ) của phía Việt Nam phia nước ngoài mặc sức đưa vào liên doanh
những máy móc thiết bị đã được tân trang và khống giá lên rất cao so với thực tế. Sau khi
khảo sát 42 doanh nghiệp liên doanh, bộ lao động và thương binh xã hội đã phát hiện 76%
may móc thuộc thế hệ những năm 50 -60, 70% máy móc đã hết khấu hao, 50% thiết bị đã
được tân trang. Tình hình đầu vào và đầu ra ở các doanh nghiệp liên doanh như vậy không
lỗ mới thật là lạ, chỉ có một điều rất chua sót là liên doanh càng lỗ thì công ty mẹ của đối
tác càng lời. Phía Việt Nam rất bất lợi do vốn ngắn, khi thua lỗ phải góp thêm vốn thì lại
không thể theo đuổi được buộc phải bán hết cổ phần và cuối cùng bị xoá sổ cả uy tín, cả
vốn. Trong khi các doanh nghiệp liên doanh sau khi chuyển sang 100% vốn nước ngoài
thì họ đã có sẵn một thị phần, sản phẩm của họ đã được người Việt Nam biết tới. Một cán
bộ cao cấp của GMX - công ty tư vấn quốc tế đang thực hiên dự án hỗ trợ chuyển giao
công nghệ tại Việt Nam đã nhận xét như sau :” Liên doanh có lỗ cũng là lẽ thường, có thể
lỗ trong những năm đầu để lãi trong những năm sau, vấn đề là Việt Nam không đủ trường
vốn để làm đối tác cùng chịu lỗ với họ thì không nên liên doanh mà nên theo hình thức
nước ngoài đầu tư 100% vốn “. Tiếp đó là một vấn đề rất nhạy cảm tại các liên doanh hiện
nay đó là : sự xâm phạm nhân quyền của công nhân Việt Nam. Tác phong làm việc của
công nhân Việt Nam từ lâu vẫn chậm chạp chưa đáp ứng được những đòi hỏi của các
“ông chủ “ nước ngoài, một số người lại không nghiêm túc, làm giả ăn thật, trộm cắp...
Trong khi đó các nước Tư Bản lại có thói quen trừng phạt nghiêm khắc đối với những
hành vi này và ở một số doanh nghiệp sự trừng phạt này đã đi quá đà dẫn đến xung đột
giữa người nước ngoài với người địa phương. Như vậy lỗi lầm nay không hoàn toàn thuộc
về một bên nào. Tuy nhiên tranh cãi đúng sai hoặc thổi phồng vấn đề lên sẽ không thể cải
thiện tình hình tốt hơn được mà chỉ làm cho tình hình nghiêm trọng, rắc rối hơn. Giải
pháp tốt nhất hiện nay đó là đưa ra những chính sách chặt chẽ hơn, hoàn chỉnh hơn trong
lĩnh vực liên doanh sao cho vừa có thể thúc đẩy khu vực kinh tế nay phát triển nhanh
chóng vừa đảm bảo được quyền lợi của người lao động. Cần củng cố lại đội ngũ công
đoàn tại các doanh nghiệp này, tránh tình trạng “đem con bỏ chợ “ như hiện nay. Rõ ràng
hình thức liên doanh vẫn còn nhiều tồn tại, nhưng không thể vì thế mà nó sẽ bị thay thế
bởi hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. Bằng chứng là vẫn còn có rất nhiều liên
doanh làm ăn nghiêm túc, hiệu quả với phương thức đôi bên cùng có lơị. Tuy nhiên phía
Việt Nam cần phải sáng suốt và nhạy bén hơn không nên phụ thuộc một cách thụ động
vào thiện chí từ phía đối tác nước ngoài.
Nêu tính từ thời điểm doanh nghiệp nhà nước đầu tiên thực hiện cổ phần hóa
(doanh nghiệp Đại lý liên hiệp vận chuyển bán 82% cổ phần, nhà nước chỉ giữ lại 18% cổ
phần) đến nay đã được gần 9 năm. Tính đến ngày 13-12-2000 đã có 525 doanh nghiệp nhà
nước thực hiện cổ phần hóa. Tổng số vốn của 18 doanh nghiệp đầu tiên thực hiện cổ phần
là 121318 triệu đồng. Các doanh nghiệp này đã thu được những thắng lợi rât đáng khích
lệ. Vốn bình quân tăng 45%/năm, doanh thu tăng 56,9 %/năm, lợi nhuận tăng bình quân
70,2%/năm, các khoản nộp ngân sách tăng 98%, thu nhập người lao động tăng 20%/năm,
tỉ suất lợi nhuận so với vốn tăng 74,6%. Phương thức quản lý thay đổi, chế độ thành lập
hội đồng quả trị theo tỷ lệ cổ phần, bầu chọn giám đốc và các chức danh khác đã làm cho
đội ngũ lãnh đạo này có trách nhiệm cao hơn, quyền lợi gắn liền với trách nhiệm. Tình
trạng lãng phí, mất mát tài sản giảm xuống nhanh chóng. Thu nhập của công nhân tăng
lên bình quân là 700.000 nghìn đồng/tháng, tạo ra một không khí nhiệt tình sản xuất. Tuy
nhiên quá trình cổ phần hoá hiện nay tiến triển rất chậm và rụt rè do quan điểm cổ phần
hoá vẫn chưa thống nhất. Ai đại diện cho số cổ phần của nhà nước, xác định đối tượng và
giá trị các doanh nghiêp cổ phần, bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài với tỉ lệ bao
nhiêu, tiền bán cổ phần được sử dụng vào đâu, giải quyết lượng lao động bị cắt giảm khi
thực hiện cổ phần như thế nào đến nay vẫn chưa có giải pháp thực sự hợp lý, khoa học.
Có một số quan niệm lệch lạc đánh giá chưa đúng về vai trò của cổ phần hoà cho rằng cổ
phần hoá là đi chệch với định hướng XHCN hay chỉ cần cổ phần hoá các doanh nghiệp lỗ
còn các doanh nghiệp làm ăn có lãi thì không cần cổ phần. Các doanh nghiệp sau cổ phần
thường bi. coi như “ con nuôi “, bị phân biệt đối xử và bất bình đẳng so với các doanh
nghiêp nhà nước đặc biệt là trong chính sách về vay vốn, tín dụng, thuế...
2.Giải quyết sở hữu nhà nước
Phương hướng giải quyết sở hữu nhà :
Bất cứ một sự cải cách nào khi bắt đâù cũng gặp rất nhiều khó khăn, cản trở, nhưng
thời đại ngày nay nếu không mạnh dạn thực hiện đổi mới mà cứ dậm chân tại chỗ điều đó
có nghĩa là chúng ta sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn với thế giới, với các nước trong khu vực.
Để khắc phục những tồn tại và nâng cao hiệu quả trong sở hữu nhà nước chúng ta nhất
quyết phải cấu trúc lại sở hữu nhà nước.
Trước hết, cần phải xác định một cách khoa học các doanh nghiệp nhà nước nào có
ý nghĩa chiến lược, trọng yếu đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Sự hoạt động của
những doanh nghiệp này không vì mục tiêu lợi nhuận, vì vậy nhà nước cần tiếp tục thực
hiện chính sách bảo trợ cho những doanh nghiệp này. Nhưng những doanh nghiệp này cần
đổi mới tổ chức, quản lý và thực hiện nghiêm ngặt công việc hạch toán tài chính nhằm
bảo toàn vốn, tài sản của nhà nước. Nhữnh doanh nghiệp không thuộc đối tượng trên
nhưng quy