Groupon (mua hàng theo nhóm) xuất hiện cách đây 3 năm và đang là
tên tuổi tiềm năng nhất trong lĩnh vực quảng cáo, khuyến mãi. Chính thức ra
đời vào tháng 11-2008 tại Chicago, tính đến tháng 10-2010, Groupon đã có
hoạt động tại hơn 150 thị trường ở Bắc Mỹ và 100 thị trường ở châu Âu,
châu Á và Nam Mỹ với khoảng 44 triệu thành viên. Ngày 19- 4-2010, sau
khi nhận được 135 triệu đô la đầu tư từ DST (Digital Sky Technologies), giá
trị của Groupon đã đạt mức kỷ lục 1,35 tỉ đô la. Trong khi đó, những mạng
xã hội khổng lồ khác như Twitter cần đến ba năm, Facebook cần đến hai
năm mới có thể đạt được giá trị 1 tỉ đô la.Vào năm 2008, Andrew Mason lập
một trang web gọi là The Point.com, nơi người tham gia cùng nhau làm việc
vì những mục tiêu họ quan tâm. Không lâu sau đó, Mason nhận thấy rằng
một số thành viên sử dụng trang web này để lập các nhóm mua sắm sản
phẩm giảm giá. Nhận thấy tiềm năng của xu hướng này, Mason lập ra
Groupon với vai trò như một mạng mua sắm, quảng cáo và khuyến mại.
Groupon vốn được ghép từ “Group” (nhóm khách hàng) và “Coupon” (phiếu
mua hàng). Khẩu hiệu của họ là: "Hãy nhanh tay, cơ hội này chỉ kéo dài
trong vài giờ".Các mặt hàng trên Groupon được khuyến mãi từ 30% đến
90% trong một thời gian nhất định, với điều kiện số khách hàng cần phải đạt
tới một lượng nhất định. Tuy nhiên, hiện nay đã xuất hiện những deal với
mức chiết khấu lớn thường trên 50% mà không cần phải thỏa mãn điều kiện
về số lượng khách hàng tối thiểu; lúc này, Groupon đóng vai trò quảng bá
thương hiệu cho các doanh nghiệp với chi phí rẻ hơn nhiều so với chi phí
quảng cáo truyền thống trước đó. Qua đó có thể thấy được Groupon thực
chất là mô hình kinh doanh win-win-win, một mô hình mà cả ba bên tham
gia đều có lợi:
+ Người tiêu dùng được tiếp cận kênh bán hàng với giá rẻ hơn rất
nhiều so với các điểm bán hàng trước đó.
+ Doanh nghiệp bán sản phẩm, quảng bá thương hiệu với chi phí kinh
tế hơn .
64 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 4160 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Groupon (mua hàng theo nhóm) và các mô hình ứng dụng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài tham dự cuộc thi
Sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2011
Groupon (Mua hàng theo nhóm) và các
mô hình ứng dụng tại Việt Nam
1
Chương mở đầu,
Tổng quan về Groupon.
Groupon (mua hàng theo nhóm) xuất hiện cách đây 3 năm và đang là
tên tuổi tiềm năng nhất trong lĩnh vực quảng cáo, khuyến mãi. Chính thức ra
đời vào tháng 11-2008 tại Chicago, tính đến tháng 10-2010, Groupon đã có
hoạt động tại hơn 150 thị trường ở Bắc Mỹ và 100 thị trường ở châu Âu,
châu Á và Nam Mỹ với khoảng 44 triệu thành viên. Ngày 19- 4-2010, sau
khi nhận được 135 triệu đô la đầu tư từ DST (Digital Sky Technologies), giá
trị của Groupon đã đạt mức kỷ lục 1,35 tỉ đô la. Trong khi đó, những mạng
xã hội khổng lồ khác như Twitter cần đến ba năm, Facebook cần đến hai
năm mới có thể đạt được giá trị 1 tỉ đô la.Vào năm 2008, Andrew Mason lập
một trang web gọi là The Point.com, nơi người tham gia cùng nhau làm việc
vì những mục tiêu họ quan tâm. Không lâu sau đó, Mason nhận thấy rằng
một số thành viên sử dụng trang web này để lập các nhóm mua sắm sản
phẩm giảm giá. Nhận thấy tiềm năng của xu hướng này, Mason lập ra
Groupon với vai trò như một mạng mua sắm, quảng cáo và khuyến mại.
Groupon vốn được ghép từ “Group” (nhóm khách hàng) và “Coupon” (phiếu
mua hàng). Khẩu hiệu của họ là: "Hãy nhanh tay, cơ hội này chỉ kéo dài
trong vài giờ".Các mặt hàng trên Groupon được khuyến mãi từ 30% đến
90% trong một thời gian nhất định, với điều kiện số khách hàng cần phải đạt
tới một lượng nhất định. Tuy nhiên, hiện nay đã xuất hiện những deal với
mức chiết khấu lớn thường trên 50% mà không cần phải thỏa mãn điều kiện
về số lượng khách hàng tối thiểu; lúc này, Groupon đóng vai trò quảng bá
thương hiệu cho các doanh nghiệp với chi phí rẻ hơn nhiều so với chi phí
quảng cáo truyền thống trước đó. Qua đó có thể thấy được Groupon thực
chất là mô hình kinh doanh win-win-win, một mô hình mà cả ba bên tham
gia đều có lợi:
+ Người tiêu dùng được tiếp cận kênh bán hàng với giá rẻ hơn rất
nhiều so với các điểm bán hàng trước đó.
+ Doanh nghiệp bán sản phẩm, quảng bá thương hiệu với chi phí kinh
tế hơn .
2
+ Website bán hàng trực tuyến với vai trò vừa là trung gian thương
mại vừa là kênh quảng bá thương hiệu hàng đầu cho các công ty, doanh
nghiệp đặc biệt là cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ với ngân sách cho
quảng cáo còn hạn hẹp.
Với việc đem lại lợi ích to lớn cho các bên tham gia, mô hình
Groupon đã phát triển nhanh chóng và đã đưa Groupon trở thành công ty có
tốc độ phát triển nhanh nhất trong những năm đầu thế kỷ 21. Thu nhập của
Groupon năm 2009 là 100 triệu USD, thu nhập tiêu thụ năm 2010 là 760
triệu USD. Tháng 12/2010, Groupon đã từ chối lời mời mua lại với giá 6 tỷ
USD của Google!
Nếu hỏi về nguồn gốc của mô hình Groupon đang vô cùng thành công
hiện nay thì ai cũng sẽ nói nó bắt nguồn từ sự thành công của trang web mua
theo nhóm Groupon tại Mỹ năm 2008. Nhưng thật ra khái niệm mua theo
cùng mua không phải là mới và Groupon cũng không phải là trang web đầu
tiên về hình thức mua theo nhóm này. Trang web đầu tiên về mua theo nhóm
là trang Mobshop.com thành lập năm 1998. Ngay sau khi Mobshop thành
lập, đã có rất nhiều các trang web tương tự khác được thành lập ở Mỹ và
Anh như LetBuyit.com, Onlinechoice.com, E.conomy.com… Trung Quốc
trước đây cũng có một số trang web mua theo nhóm tương tự vậy như
liba.com, taobaotuangou.cn… Những trang web này cũng giống như những
trang web về thương mại điện tử khác, bán điện thoại, máy tính… cùng
nhiều loại sản phẩm khác, chỉ khác một điều giá cả của các loại sản phẩm
3
không cố định mà “biến động”, nhà cung cấp sẽ đưa ra một khoảng thời gian
nhất định, trong khoảng thời gian đó tùy thuộc vào lượng người tham gia
mua nhà cung cấp sẽ hạ giá bán xuống những mức khác nhau, lượng người
tham gia mua càng nhiều thì giá càng rẻ, cứ thế cho đến khi thời gian mua
kết thúc. Nhưng hình thức mua theo nhóm truyền thống không thật sự phát
triển và gây được sự chú ý vì thiếu sự sáng tạo và không có một mô hình
thật sự rõ ràng, đơn giản, dễ sử dụng và thu hút được người sử dụng cũng
như nhà cung cấp. Cho đến năm 2008, khi Groupon tại Mỹ ra đời, với mô
hình đơn giản, tiện lợi và đặc biệt là thành công ấn tượng đã khơi dậy một
trào lưu về mô hình mua theo nhóm trên toàn thế giới.
Thành công nhanh chóng của Groupon đã khơi dậy tinh thần “học
hỏi” cũng nhanh không kém trên toàn thế giới, hàng loạt các trang web mô
phỏng khác được thành lập như LivingSocial, Gilt City, BuyWithMe, Tippr,
Juice in the City, We Give to Get…của Mỹ; Daily Deal của Đức; Snippa của
Anh; đặc biệt là Trung Quốc với số lượng website hiện tại đã lên đến con số
hàng trăm, nhưng đứng đầu vẫn là một số trang web lớn như meituan.com
(CEO là người sáng lập ra renrenwang.com -facebook bản Trung Quốc),
fanfou.com - Twitter bản Trung Quốc (sau khi trang web này vì một vài sự
cố đóng web vào nửa cuối năm 2009 thì Twitter bản Trung Quốc có tên là
weibo thịnh hành hơn), lashou.com, Ftuan.com,tuanbao.com,….
Tại Việt Nam, các mô hình Groupon (hay còn gọi là các Groupon
clone) tuy mới chỉ xuất hiện cách đây chưa đầy 12 tháng nhưng đã phát triển
rất nhanh chóng. Tính từ tháng 7/2010 đến nay đã có gần 20 website theo
mô hình này đã ra đời như:
www.Phagia.com.vn (Phá giá) của mạng xã hội PhuNuNet.
www.Muachung.vn (Mua chung) của VCCorp.
www.Cucre.vn (Cực rẻ) của công ty Vatgia.com.
www.Nhommua.com (Nhóm mua) của công ty diadiem.com.
www.Cungmua.vn (Cùng mua) của tichluydiem.com.
Có rất nhiều lời khen cho sự thành công thần kỳ của Groupon.com và
câu hỏi đặt ra là liệu mô hình này có thành công ở Việt Nam hay không ?
4
Chương I,
Tổng luận về mô hình Groupon.
1.1/ Mô hình kinh doanh của Groupon:
Mô hình khinh doanh của Groupon: Groupon đưa ra những phiếu
giảm giá từ 30 – 90% về các mặt hàng tại mỗi khu vực thị trường khác nhau.
Các phiếu giảm giá “groupon” này đảm bảo các giao dịch mua bán hàng hóa
đó sẽ diễn ra khi số lượng người cùng mua hàng hóa đó đạt tới một lượng
nhất định được đưa ra từ trước trong một khoảng thời gian cho phép; trường
hợp nếu số lượng người mua không đủ mức tối thiểu đưa ra thì sẽ không có
giao dịch nào được thực hiện thông qua “groupon” này và những khách hàng
đã chuyển tiền mua hàng sẽ được hoàn trả tiền đầy đủ. Điều này làm giảm
rủi ro cho những nhà cung cấp hàng hóa - dịch vụ.
Nhiều người cho rằng Groupon là một hình thức phát triển của thương
mại điện tử, cụ thể là mô hình thứ 4 của thương mại điện tử gọi tắt là
B2T(Business To Team), sau B2B (Business To Business), B2C (Business
To Customer),C2C (Customer To Customer). Nhưng thật ra Groupon là mô
hình kết hợp giữa thương mại điện tử và quảng cáo. Thậm chí có thể nói,
nếu Groupon bao gồm 100 phần thì chỉ có 10 phần là thương mại điện tử.
Mục đích cuối cùng của các trang web Groupon không đơn thuần là bán các
phiếu khuyến mãi, mà quan trọng hơn là để quảng bá thương hiệu, quảng bá
sản phẩm cho nhà cung cấp và quảng bá thương hiệu cho chính mình.
Các nhà cung cấp đồng ý đưa ra các siêu khuyến mãi, siêu giảm giá
tới 60%, 70% thậm chí là trên 90%, mục đích chủ yếu là để quảng cáo, vì
nếu đơn thuần chỉ là giảm giá để thu hút lượng lớn khách hàng thì tính thế
nào nhà cung cấp cũng lỗ vốn. Và hơn nữa lượng người mua càng nhiều thì
càng lỗ nặng. Nhưng, nếu coi như đây là một phương thức quảng cáo, và các
chi phí thông qua giảm giá là các chi phí dành cho quảng cáo thì lại cực kỳ
có lợi và cực kỳ hiệu quả.
5
Nhà cung cấp nếu sử dụng các phương thức quảng cáo khác, sẽ phải
chi trả chi phí lớn hơn mà hiệu quả thì không được đảm bảo vì các phương
thức quảng cáo khác không đảm bảo lượng khách hàng sẽ tìm đến với nhà
cung cấp trong và sau thời gian quảng cáo. Còn nếu thông qua hình thức
mua theo nhóm thì có thể chắc ăn hơn, sẽ tạo cơ hội để khách hàng đích thân
tới trải nghiệm sản phẩm - dịch vụ của chính mình. Nếu số người mua không
đạt được số người yêu cầu tối thiểu thì hoạt động mua theo nhóm đó coi như
hủy bỏ, không có khách hàng đến thì nhà cung cấp cũng chẳng mất gì, hơn
nữa lại còn được quảng cáo miễn phí trên website của các trang Groupon
nữa! Đây cũng là một trong những kỹ xảo mà các nhân viên thị trường của
các trang mua theo nhóm phải nắm được để đi đàm phán với nhà cung cấp:
Cần nhấn mạnh cho họ hiểu, họ không lên trang web để bán sản phẩm - dịch
vụ, mà lên trang web để quảng cáo! Từ đó họ sẽ chuyển trọng tâm chú ý từ
chi phí bỏ ra thông qua giảm giá sang hiệu quả quảng cáo. Đây cũng là lý do
vì sao mà các hoạt động mua theo nhóm được tổ chức trên các trang
Groupon chủ yếu hướng vào ngành dịch vụ, vì ngành này chi phí đầu vào
thấp, dễ đàm phán để nhà cung cấp đồng ý đưa ra mức giảm giá cao.
Doanh thu của các site hoạt động theo mô hình Groupon này chủ yếu
từ 2 nguồn chính sau:
+ Doanh thu từ hoa hồng được hưởng trên số coupon bán được: mức
hoa hồng tùy thuộc vào thỏa thuận của website với nhà cung cấp dịch vụ,
sản phẩm. Mức hoa hồng này chiếm khoảng 10% giá trị mỗi phiếu khuyến
mại bán được.
+ Doanh thu từ quảng cáo và liên kết web: doanh thu này cũng không
thể bỏ qua bởi website luôn thu hút một lượng lớn khách hàng tiềm năng
thường xuyên ghé thăm.
Groupon thâm nhập thị trường chủ yếu là các thành phố lớn. Đội ngũ
nhân viên năng động, sáng tạo thực hiện thường xuyên việc nghiên cứu thị
trường khu vực, làm việc với nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ, các công ty
liên kết và các đối tác thanh toán để đưa ra các deal cập nhất nhất, hấp dẫn
nhất phục vụ nhu cầu người tiêu dùng. Đối tượng khách hàng hướng tới là
giới trẻ, tầng lớp tri thức,và nữ giới.
Gần đây các Groupon còn triển khai các ứng dụng trên Wap, Android,
Blackberry,iPhone, Windows Phone 7 cho phép người sử dụng có thể thực
6
hiện việc mua các “deal” ngay trên những smartphone của họ, biến những
chiếc điện thoại này trở thành những phiếu giảm giá cho người sử dụng.
1.2/ Lợi ích từ Groupon: mô hình win-win-win.
Mô hình Groupon thực chất là mô hình win-win-win và đó chính là
điểm hay, là yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của mô hình này
cho tới thời điểm hiện tại. Lợi ích mà các website này đem lại cho cả 3 bên:
khách hàng, nhà cung cấp, website Groupon là rất lớn.
1.2.1/ Đối với khách hàng:
+ Được mua hàng với giá rẻ hơn nhiều so với giá bán lẻ tại các điểm
bán hàng truyền thống.
+ Việc mua hàng và thanh toán online đem lại cho khách hàng rất
nhiều tiện lợi.
+ Với xu hướng địa phương hóa mạnh mẽ các khách hàng tại nhiều
vùng miền có thể tiếp cận việc mua sản phẩm, dịch vụ ngay tại địa phương
mình một cách dễ dàng.
1.2.2/ Đối với nhà cung cấp sản phẩm:
7
+ Có thêm một kênh quảng cáo sản phẩm, quảng bá thương hiệu với
chi phí rẻ hơn nhiều so với các phương thức quảng cáo truyền thống trước
đó.
+ Tiếp cận và thu hút một lượng lớn khách hàng mới với chi phí thấp.
+ Cơ hội bán được một lượng lớn hàng hóa,dịch vụ; đặc biệt ý nghĩa
trong mùa thấp điểm .
+ Thu thập thông tin,điều tra thị trường, đánh giá chất lượng sản phẩm
từ lượng khách hàng tiềm năng một cách dễ dàng, chi phí thấp.
1.2.3/ Đối với website Groupon:
+ Thu về doanh thu từ khoản chiết khấu của nhà cung cấp trên mỗi
phiếu “groupon” bán được khoảng 10% giá trị mỗi phiếu.
+ Doanh thu từ quảng cáo, liên kết web như đã nói ở trên.
Andrew Mason – người sáng lập ra Groupon từng bật mí anh còn có
những ý tưởng hay hơn cả Groupon. Vì sao ư? “Đối với tôi, cũng như với
bất kỳ ai đam mê với các ý tưởng, thì Groupon chỉ là một ý tưởng rất nhỏ bé.
Và tôi cũng đã có những ý tưởng hay hơn, mới mẻ hơn”, Andrew Mason
nói. Có thể là như thế, nhưng có vẻ như Groupon đã kiếm được những
khoản tiền không nhỏ từ hình thức kinh doanh mới mẻ của nó. Và các đối
thủ như LivingSocial cũng có phần, khi các nhà đầu tư đổ xô vào để chiếm
được một phần nhỏ trong cái phân khúc gọi là thương mại xã hội. Theo đánh
giá của Needham & Co- Công ty đầu tư ngân hàng hàng đầu thế giới, đây là
phân khúc tăng trưởng rất mạnh trong năm qua, khoảng 200%. Groupon
được xem là thủ lĩnh trong phân khúc này, với số thành viên lên đến 50 triệu
và hiện đang tăng thêm trung bình 3 triệu thành viên/ tháng. Tỷ lệ chiết khấu
có thể lên đến 90% đối với các sản phẩm và dịch vụ như nước rửa xe ô tô,
những bữa ăn ở nhà hàng, lớp học nấu ăn, dịch vụ chăm sóc răng, hay là bất
cứ sản phẩm nào có ở 500 thành phố và 35 quốc gia Groupon có mặt.
Thương mại xã hội - hình thức kinh doanh hấp dẫn mới trên nền Web, mang
lại lợi ích cho cả ba bên: khách hàng chi trả ở mức giá thấp hơn; người làm
kinh doanh có cơ hội tăng doanh thu và có thêm khách hàng tiềm năng mới;
và Groupon thì thu được phí từ chiết khấu của nhà cung cấp sản phẩm.
James Slavet, đối tác của Greylock Partners - một công ty đầu tư vốn ở
thung lũng Silicon và cũng là nhà đầu tư của Groupon cho biết: “Groupon đã
giải mã được mô hình thương mại và quảng cáo địa phương. Về lâu về dài,
hình thức kinh doanh này sẽ có hiệu quả trong quá trình bán lẻ những sản
phẩm của Google và tìm kiếm quảng cáo”.
8
1.3/ Lý do thành công của mô hình Groupon tại Mỹ:
Có rất nhiều lý do dẫn tới sự thành công của mô hình web thương mại
điện tử này. Tuy nhiên có thể kể tới 7 lý do chính góp phần quan trọng cho
thành công của mô hình Groupon tại Mỹ:
1- Bán hàng siêu giảm giá các “groupon” với mức chiết khấu từ 30% -
90%.
2- Kinh tế Mỹ và thế giới đang khủng hoảng, lạm phát tại Mỹ đang ở
mức cao vì vậy quan tâm về giá của người tiêu dùng Mỹ ở mức đặc biệt cao.
3- Cá nhân hóa tốt - đưa ra các mặt hàng phù hợp nhu cầu và nhà cung
cấp ở gần người mua.
4- Thu tiền trước (Negative working capital): Groupon lấy tiền của
người mua trước, trả cho nhà cung cấp sau. Đó vừa là điều kiện để thực hiện
việc mua các deal trên Groupon vừa giảm thiểu rủi ro tối đa cho nhà cung
cấp, cho website.
5- Các sản phẩm - dịch vụ có chất lượng và số lượng đảm bảo: vì thực
chất nhà cung cấp đang quảng bá, giới thiệu sản phẩm - dịch vụ, họ muốn
thu hút, lôi kéo khách hàng tiềm năng nhằm tăng thị phần; họ đang quảng bá
thương hiệu của chính họ, nên chất lượng hàng hóa - dịch vụ là trọng tâm
mà họ muốn đem tới cho khách hàng thông qua Groupon.
6- Nội dung của website luôn hấp dẫn khách hàng: với đội ngũ nhân
viên sáng tạo, năng động, am hiểu thị trường và lĩnh vực kinh doanh. Thêm
nữa, Groupon có tới khoảng 100 nhân viên chuyên viết để tạo ra những hot -
deal thu hút người mua.
7- Thời gian mua ngắn và số lượng khách hàng tối thiểu đạt nhỏ, một
số deal không yêu cầu số lượng khách hàng tối thiểu, các deal xuất hiện
không quá 1 ngày khiến việc mua sắm của khách hàng trở nên dễ dàng.
Groupon không những ngày càng thu hút nhiều người quan tâm mà
còn giữ chân được các khách hàng bởi dịch vụ chuyên nghiệp, tin cậy.
1.4/ Ý kiến các chuyên gia về Groupon:
Ông Đỗ Quốc Hiệp, Giám đốc Chiến lược Kinh doanh, Quỹ đầu tư
Mạo hiểm IDG Ventures Việt Nam đã đặt ra câu hỏi : “Groupon có phải
một Google tương lai?”.
9
Thật quá ngạc nhiên khi Google không ngần ngại đưa ra đề nghị mua
Groupon với giá 6 tỷ USD vào tháng 9 năm ngoái. Và còn ngạc nhiên hơn
nữa khi Mason và các đồng sự từ chối lời đề nghị hấp dẫn đó. Mason nói:
“Chúng tôi có rất nhiều lựa chọn. Mỗi quyết định của chúng tôi đều bắt
nguồn từ nguyên tắc tạo dựng một công ty có thể thay đổi cách thức người ta
vẫn thường mua bán tại địa phương mình. Chúng tôi có thể trở thành một
trong những thương hiệu mạnh nhất trong thế kỷ 21″. Mason, 30 tuổi, nhạc
sỹ, lập trình viên, nhà hoạch định chính sách, nhà hoạt động xã hội, nhưng
lại có tài năng trong lĩnh thương mại Web hơn. Tại trụ sở công ty ở Chicago,
anh cho bày những trang tạp chí viết về thất bại của Friendster, Napster,
Pets.com bên cạnh chính hình ảnh của mình trên tạp chí Forbes. “Tôi suy
ngẫm rất nhiều về những công ty này và sai lầm mà họ mắc phải. Và trong
hầu hết các trường hợp, không phải do bị đối thủ đánh bại mà chính họ tự
đem thất bại đến cho mình. Nếu so sánh với Myspace thì Facebook là sản
phẩm tốt hơn nhiều. Chỉ đơn giản vậy thôi”. Mason nhận thức được tất cả
những gì sẽ dẫn đến thất bại. Chuyên ngành chính của anh là âm nhạc ở Đại
Học Northwestern, và anh đã từng làm việc cho một cửa hàng thu băng ở
Chicago. Tuy nhiên, anh sớm nhận ra rằng anh giỏi hơn trong lĩnh vực lập
trình máy tính và có thể kiếm được nhiều hơn trong lĩnh vực này. Đến năm
2006, anh chuyển sang học khóa sau đại học về chính sách công ở trường
ĐH Chicago, đồng thời học qua về Internet.
Sau 3 tháng mày mò học tập, Mason được Eric Lefkofsky tài trợ 1
triệu đôla để phát triển ý tưởng mang tên The Point. Ý tưởng của The Point
là có thể quy tụ mọi người vào các hoạt động xã hội tập thể như diễu hành,
biểu tình, những ngày được nghỉ làm, vv. Không lâu sau, cả Mason và
Lefkofsky đều nhận ra rằng mua sắm mang lại nhiều lợi nhuận hơn hoạt
động xã hội. Đến cuối năm 2008, Groupon chính thức đi vào hoạt động. Nó
hoạt động trong mọi lĩnh vực và mang lại thành công bất ngờ. Chỉ trong 1
năm, Groupon đã có 1 triệu thành viên. Thương nhân ở Chicago và cả các
thành phố và bang lân cận đều đăng ký để trở thành thành viên của trang
web.
Eric Lefkofsky - một trong hai nhà đầu tư mạo hiểm của Groupon
cùng Brad Keywell đã nhận định về Groupon: “siêu tăng trưởng bình
phương”.
Theo ông Lefkofsky, “Groupon không giống với bất kỳ khuôn mẫu
nào trước đó. Tôi đã làm việc trong những công ty công nghệ tăng trưởng
10
cao. Tôi đã từng nghĩ tôi đã được thấy cái gọi là siêu tăng trưởng, nhưng
trường hợp của Groupon thì phải gọi là siêu tăng trưởng bình phương”. Các
nhà đầu tư theo dõi rất kỹ lưỡng tình hình tài chính của Groupon. Doanh số
ban đầu từ con số 0 đã lên tới 500 triệu đôla trong vòng 18 tháng. Chưa từng
có doanh nghiệp nào tăng trưởng nhanh đến vậy. Quan trọng hơn, Groupon
là mô hình có khả năng mở rộng cực lớn, nghĩa là Groupon hoàn toàn có thể
phát triển ra toàn cầu. Đến thời điểm hiện tại, Groupon đã có mặt ở 35 quốc
gia, gần đây mới xuất hiện ở Philippines, Singapore, Đài Loan và Hồng
Kông.
11
Chương II,
Thực trạng các mô hình Groupon
tại Việt Nam.
2.1/ Những thuận lợi cho mô hình Groupon tại Việt Nam:
2.1.1/ Thuận lợi từ phía khách hàng (yếu tố vi mô):
2.1.1.1/ Người tiêu dùng VN rất quan tâm tới giá:
Nguyên nhân cơ bản giúp mô hình Groupon thành công là yếu tố về
giá. Groupon có thể dành cho các khách hàng những mức chiết khấu rất lớn.
Đây là một yếu tố có sức thu hút đối với người tiêu dùng. Khách hàng tham
gia Groupon trực tuyến có cơ hội mua được nhiều sản phẩm hay dịch vụ giá
rẻ được khuyến mãi lên đến 90%. Dường như không chỉ riêng tại Mỹ, nơi
mà Groupon đã rất thành công, mà ở Việt Nam thì người tiêu dùng cũng rất
quan tâm về giá.
Đặc biệt là áp dụng trong môi trường Việt Nam thì yếu tố về giá lại
càng có vai trò quan trọng. Bởi mức sống của người Việt Nam nói chung là
vẫn thấp so với khu vực cũng như thế giới. Người dân sẽ có xu hướng chọn
lựa những mặt hàng giá rẻ mà vẫn đáp ứng được nhu cầu của mình. Dưới
12
đây là bảng so sánh về GDP của người Việt Nam trong khu vực cũng như
trên thế giới trong năm 2010:
Nước Việt Nam Thái lan Hàn Quốc Mỹ
GDP/người(USD) 1.174 4.992 20.591 47.284
Nguồn: Worldbank.
Một nguyên nhân khác khiến người tiêu dùng quan tâm tới giá là lạm
phát. Chính mức độ lạm phát cao ở Việt nam sẽ là nguyên nhân thúc đẩy
người tiêu dùng tìm kiếm hàng hóa giá rẻ hơn, mặc dù nhiều loại hàng hóa
có nguồn gốc xuất xứ không đảm bảo hay không có thương hiệu. Mức lạm
phát cao là một yếu tố không thể tránh khỏi của những nền kinh tế đang phát
triển nhanh như Việt Nam, nhưng nếu nhìn vào bảng sau thì ta có thể thấy ở
Việt Nam tình hình lạm phát là đáng lo ngại:
13
Năm 2006 2007 2008 2009
Tỷ lệ lạm
phát(%)
8,3 7,5 8,3 24,4
Nguồn: CIA world factbook.
Lạm phát cao